Pháp môn Tịnh độ là một trong mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa,
đây là tông phái siêu việt được các bậc cổ đức liệt vào tông phái Đại
thừa viên đốn. Nói Đại thừa bởi tông này lấy tâm bồ đề làm nhân, lấy quả
vị cứu cánh Phật làm quả. Nói Viên bởi tông này lý sự vẹn toàn, tóm
thâu bốn giáo trước (Tiểu thừa giáo, Đại thừa thỉ giáo, Đại thừa chung
giáo, Đại thừa đốn giáo). Nói Đốn bởi tông này không luận bàn về pháp
tướng, mà chỉ chuyên ròng về chân tánh, không cần trải qua nhiều thứ
lớp, tu tập trong một đời có thể chứng lên quả vị Bất thối chuyển (A bệ
bạt trí). Đây quả thật là điểm siêu xuất của tông Tịnh độ.
Giáo
nghĩa Tịnh độ được y cứ trên ba bộ kinh và một bộ luận làm cơ sở nòng
cốt để phát huy, đó là Phật thuyết A Di Đà kinh, Vô Lượng Thọ kinh, Quán
Vô Lượng Thọ kinh (còn gọi Thập Lục Quán kinh) và một bộ luận là Tịnh
độ vãng sanh luận của Bồ tát Thế Thân.
Nơi Tinh xá Kỳ viên thuộc nước
Xá Vệ, Đức Thế Tôn tuyên thuyết kinh A Di Đà. Ngài tóm lược giới thiệu
vị giáo chủ và y báo trang nghiêm của thế giới Cực lạc, khuyên chúng
sanh phát nguyện sanh về thế giới đó, bằng phương pháp chuyên trì danh
hiệu Phật, đồng thời dẫn lời tán dương và ấn chứng của mười phương chư
Phật để làm tăng tiến niềm tin cho người niệm Phật. Ở núi Kỳ Xà Quật
thuộc thành Vương Xá, Ngài tuyên thuyết kinh Vô lượng thọ, diễn tả quá
trình hành Bồ tát đạo của tỳ kheo Pháp Tạng (tiền thân Phật A Di Đà),
trong khi tu nhân đã đối trước Đức Thế Tự Tại vương Như Lai phát bốn
mươi tám đại nguyện thù thắng cao cả, để trang nghiêm Phật độ, nhiếp hóa
quần sanh; kế đó nói về công đức tu hành, trí tuệ thần biến của thánh
chúng cõi ấy, khiến chúng sanh sanh tâm khát ngưỡng phát nguyện sanh về.
Tại
vương cung Tần Bà Sa La thuộc thành Vương Xá, do sự thỉnh cầu của hoàng
hậu Vi Đề Hy, Ngài tuyên thuyết kinh Quán vô lượng thọ, chỉ bày mười
sáu pháp quán làm nhân tố cầu sanh Tịnh độ, đây là những pháp quán rất
tinh vi và sâu thẳm. Sau này Bồ tát Thế Thân nương vào kinh Vô lượng thọ
tạo bộ Tịnh độ vãng sanh luận, tán dương cảnh giới trang nghiêm thù
thắng của Cực lạc và xiển dương pháp tu Ngũ niệm môn (lễ bái, tán thán,
phát nguyện, quán tưởng và hồi hướng) làm nhân tố cầu sanh. Ngoài ba
kinh và một luận trên, còn có rất nhiều kinh luận Đại thừa khác như Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa, Bảo Tích…, Đại Trí Độ, Đại Tỳ Bà Sa… cung đều tán thán
và đề cao tư tưởng cầu sanh Tịnh độ Phật A Di Đà.
Khi Phật giáo
mới truyền sang Trung Hoa, pháp môn Tịnh độ đã sớm hòa nhập vào dòng tư
tưởng của người bản xứ. Trung Hoa quả thật là một mảnh đất màu mỡ, để
tông Tịnh độ đâm chồi nảy lộc. Sau Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, kế
tiếp có các đại sư từ Ấn Độ sang, phụng sắc chỉ dịch các bộ kinh từ chữ
Phạn sang Hán, kinh sách Tịnh độ cũng được theo đó mà truyền vào.
Thời
Đông Tấn (317- 419), Pháp sư Đạo An (312- 385) đã làm sách luận về Tịnh
độ, mở trường pháp phái nêu rõ chánh tông, phát huy những điểm đặc sắc
của Tịnh độ. Dưới thời Tào Ngụy (220-280), Ngài Khang Tăng Khải (đến
Trung Quốc năm 252) dịch kinh Vô Lượng Thọ. Đời Dao Tần (còn gọi Hậu Tần
354-417), bậc dịch kinh nổi tiếng Cưu Ma La Thập (344- 413), phụng dịch
Phật thuyết A Di Đà kinh. Thời Lưu Tống (năm 420), Ngài Cương Lương Da
Xá (383- 420) dịch Quán Vô Lượng Tho kinh. Từ đó, giáo nghĩa tông Tịnh
độ đã hoàn bị. Vào đầu thế kỷ thứ năm, hệ tư tưởng hình thành tông phái
tín ngưỡng Di Đà giáo đã chính thức khai nguyên; bậc cao Tăng được đăng
quang lên ngôi vị khai tổ là đại sư Huệ Viễn (344- 415) ở chùa Đông Lâm
Lô Sơn, lừng danh với hội Bạch Liên Xã mà âm hưởng còn vang vọng đến
ngày nay.
Sau đó vào thời Tuyên Đế - Bắc Ngụy (500- 512), pháp sư
Bồ Đề Lưu Chi (sang Trung Hoa vào năm 508) dịch bộ Tịnh độ vãng sanh
luân của Bồ tát Thế Thân, là bộ luận căn bản, đến đây hệ thống giáo
nghĩa của tông Tịnh độ đã hoàn thành.
Pháp môn Tịnh độ còn gọi là
pháp môn niệm Phật. Ý nghĩa niệm Phật là đem tâm thanh tịnh mà tưởng nhớ
đến công đức mầu nhiệm và thân tướng trang nghiêm của Phật. Chữ Niệm ở
đây là một tâm sở trong năm biệt cảnh tâm sở, ý nghĩa của nó là nhớ nghĩ
vào hiện tại, buộc tâm vào một đối tượng không rong ruổi theo niệm
trần, nhưng niệm này không hê lụy vào một cảnh giới nào mà thông suốt ba
đời, thường tỉnh thường giác hiện rõ trước mặt. Chữ Phật là chỉ cho bản
thể bất sanh bất diệt, cái chân như thật tánh bình đẳng ở nơi chư Phật
và chúng sanh. Hành giả niệm Phât là quán tưởng thân tướng hay niệm danh
hiệu Phật, danh này bao trùm các công đức, trí tuệ, từ bi… của các Đức
Phật.
Do đức lập, nhờ danh chiêu cảm đức. Lấy danh hiệu làm cảnh
sở niệm, tâm thanh tịnh làm đối tượng năng niệm, thường trụ vào bản
tánh bất sanh bất diệt ấy tất sẽ đạt đến cảnh giới an vui chân thật.
Hành giả thường trụ vào câu Phật hiệu hay quán tưởng thân tướng trang
nghiêm của Phật, với tâm thanh tịnh sẽ tạo thành một năng lực tuyệt đối
nhiệm mầu, quét sạch mọi vọng tưởng điên đảo, khơi dậy tự tánh Di Đà bên
trong của mỗi chúng sanh. Từ đây vọng tưởng quyết dứt trừ, cảnh giới an
vui lặng mầu sẽ hiển lộ, như trong Quán vô lượng thọ kinh có dạy: “Chư
Phật Như lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng chúng sanh, cho nên
tâm các người tưởng Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ
đẹp, tâm ấy làm Phật tâm ấy là Phật. Biển chánh biến tri của Phật từ
nơi tâm tưởng mà sanh, vì thế các ông phải nhớ nghĩ và quán tưởng kỹ
thân của Đức Phật kia”.
Lập trường căn bản của tông Tịnh độ được kiến
lập trên nền tảng của nhân quả, tức có gây nhân mới mong hưởng quả.
Điều này xác quyết, hành giả nếu muốn mai hậu làm thánh chúng cảnh giới
Cực lạc thì ngày hôm nay phải có tư cách của bậc thánh. Vì vậy, trong
cuộc sống hiện tại, hành giả cần phải thường xuyên cải hóa ba nghiệp
thân khẩu ý hướng đến chiều hướng thanh tịnh. Ví như học trò trong việc
học tập phải có sự tiến bộ, từ lớp nhỏ tiến dần đến lớp lớn, có như vậy
mới mong có ngày thành tài đỗ đạt. Người niệm Phật cũng thế, nếu hôm nay
cứ sống trong sự buông thả, không chịu nỗ lực tinh tấn tu hành, mà cứ
van xin và tin rằng ngày mai Phật sẽ cứu độ; nếu tin như thế thì thật
trái với lý nhân quả, chẳng khác nào luận thuyết của ngoại đạo và hoàn
toàn không phù hợp với giáo lý nhà Phât.
Vẫn biết, pháp môn Tịnh
độ là pháp phương tiện siêu thắng, cho dù đến bậc Bồ tát Đẳng giác còn
chưa thấu triệt rốt ráo, và nguyện lực tối thâm của Phật A Di Đà thật là
vô tận, hàm nhiếp tất cả nguyện lực của mười phương ba đời chư Phật.
Đối với nghiệp lực của phàm phu, ngay cả đến các bậc Sơ địa Bồ tát, nếu
không nương vào oai lực tiếp độ của Phật, chỉ nương vào sức tự lực tu
hành của mình cũng không thể vãng sanh. Nhưng tha lực đó chỉ thành tựu
trên cơ sở hành giả phải có sức tự lực. Ví như người mẹ luôn nghĩ đến
con, nhưng người con không nghĩ đến mẹ, thì dầu mẹ có thương con cũng
đành cam chịu không thể cứu được. Tha lực của Đức Phật cũng thế, mặc dầu
vô song, nhưng điều quan trọng ở điểm là hành giả có hội đủ tư cách tu
trì, có chân thành tiếp nhận sự cứu độ đó hay không. Có rất nhiều người
tu Tịnh độ, không nhận ra được lý này, rồi quan niệm Đức Phật như một
đấng thân linh luôn ban ân cứu rỗi, và cảnh giới Cực lạc chẳng khác nào
thiên quốc của thần giáo. Để rồi từ đó có lắm kẻ thiển cận cho rằng pháp
tu Tịnh độ là pháp của ngoại đạo mê tín dị đoan, hoặc là hành môn của
hạng hạ căn. Đây quả thật là những ngộ nhận sai lầm đáng tiếc đã xảy ra.
Tóm
lại, người niệm Phật muốn vãng sanh Tịnh độ, ngoài lực hộ trì và tiếp
dẫn của Phật, cần phải có sức tự lực tu tập, tức phải có chánh nhân Tịnh
độ. Theo kinh Quán Vô lượng thọ, hành giả muốn được vãng sanh Tịnh độ
phải hội đủ ba điều kiện: “Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư
trưởng, giữ lòng từ không sát hại, tu tập mười nghiệp lành. Hai là thọ
trì ba pháp quy y, đầy đủ các giới không phạm oai nghi. Ba là phát Bồ Đề
tâm, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người
khác cùng tu”. Ba điều trên đây gọi là chánh nhân Tịnh độ. Ba điều này
có thể tóm thâu vào hai việc, một là phát Bồ Đề tâm, hai là nghiêm trì
tịnh giới.
Việc đầu tiên của người niệm Phật là phát Bồ Đề tâm. Thế
nào là phát Bồ Đề tâm? Tức phát tâm trên mong cầu quả vị Phật, dưới mong
hóa độ các loài chúng sanh. Người tu Phật nếu không phát Bồ Đề tâm, dẫu
có tinh tấn thực hành các hạnh lành cũng chỉ là nhọc công vô ích. Điều
này trong kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Vong thất Bồ Đề Tâm, tu chư thiện
pháp, thị danh ma nghiệp” (Quên mất tâm Bồ Đề, dẫu tu các hạnh lành,
cũng đều là nghiệp ma). Vì vậy, hành giả muốn thành tựu ước nguyện vãng
sanh, thì trước hết phải phát tâm Bồ Đề mà niệm. Đây là điểm vô cùng
quan trọng không thể thiếu đối với người tu Phật nói chung và người tu
Tịnh độ nói riêng.
Điều cần thiết thứ hai của người niệm Phật là
nghiêm trì tịnh giới. Tức mỗi người tùy theo giới luật bản thân đã thọ
mà hành trì. Bởi vì bất kỳ tông phái nào trong đạo Phật cũng không thể
ly khai tinh thần giới luật, vì giới là nền tảng nhập đạo, là thọ mạng
của Phật pháp. Nếu không có giới thì định huệ cũng không từ đâu phát
sanh. Giới định tuệ đã không phát sanh thì Pháp thân huệ mạng biết nương
đâu thành tựu.
Lại đối với tông Tịnh độ, việc giữ giới lại càng
thiết yếu, chúng ta có thể nói Luật tông và Tịnh độ tông là hai tông
phái hỗ tương bao trùm và không thể tách rời nhau. Hai tông này tóm thâu
toàn bộ tám tông khác của Đại thừa, như đại sư Thái Hư nói: “Luật là
nền tảng của tam thừa, Tịnh độ là mái che chung tam thừa”. Hành giả
nghiêm trì giới luật, từ đó câu niệm Phật mới hiển lộ hết công năng mầu
nhiệm, như trong kinh Quán Vô lượng thọ có dạy: “Một câu niệm Phật, có
thể tiêu trừ tám mươi vạn ức kiếp sanh tử trọng tội”.
Trên nền
tảng của việc phát Bồ Đề tâm và nghiêm trì tịnh giới, hành giả phát tâm
khát ngưỡng cầu sanh Tịnh độ. Tâm cầu sanh Tịnh độ này phải hội đủ ba
đức tính quyết định là tín sâu, nguyện thiết và hạnh chuyên.
Tín
là đức tin, là yếu môn để nhập đạo, là cội nguồn của mọi công đức. Người
tu Phật thiếu mất yếu tố này sẽ không thoát ly sanh tử, đạt kết quả an
vui giải thoát. Bởi tất cả công đức vô lậu đều nương nơi tín lập và do
tín mà thành, như trong Khế kinh có dạy: “Phật pháp như biển cả do tín
mà vào”. Hành giả niệm Phật ngoài việc có đức tin trong sạch tuyệt đối
với Tam bảo, với sự tìm hiểu bằng kiến chiếu của trí tuệ Bát nhã kiên
định không ngờ vực, trên nền tảng đó gia thêm lòng tin kiên cố vào pháp
môn niệm Phật. Đức tin này được dựng lập trên ba điểm.
Thứ nhất hành
giả tin tưởng Đức Phật Thích Ca là bậc đã thân chứng cảnh giới Tịnh độ,
những lời dạy của Ngài về cảnh giới Cực lạc và khuyên chúng sanh phát
nguyện cầu sanh là có thật. Hai là tin Đức Phật A Di Đà với bốn mươi tám
đại nguyện vĩ đại tiếp độ chúng sanh, nếu ai có tâm mong về thế giới
của Ngài thì người ấy sẽ được Phật tiếp độ. Ba là tin vào tự tánh thanh
tịnh, vào khả năng sẵn có của mình, nếu hiện đời phát tâm niệm Phật thì
mai hậu quyết định sẽ được vãng sanh Tịnh độ.
Trên cơ sở của tín,
hành giả cầu sanh Tịnh độ cần phải có đủ yếu tố thứ hai là Khẩn thiết
phát nguyện. Trong "Phát Bồ Đề tâm văn" của đại sư Tĩnh Am có dạy: “Nhập
đạo yếu môn, phát tâm vi thủ, tu hành cấp vụ lập nguyện cư tiên. Nguyện
lập tắc chúng sanh khả độ, tâm phát tắc Phật đạo kham thành” (Cửa yếu
vào đạo lấy sự phát tâm làm trước, việc cấp thiết tu hành lấy lập nguyện
làm đầu, nguyện có lập thì chúng sanh mới độ, tâm co phát thì Phật đạo
mới thành). Lời dạy của Tổ sư đã cho chúng ta thấy được tầm quan trọng
của sự phát nguyện đối với việc tu hành như thế nào.
Tâm nguyện
cầu sanh Tây phương theo Thiên Thai Trí Giả đại sư gồm hai điều là yêm
ly và hân nguyện. Tâm yểm ly là tâm chán lìa. Hành giả phải luôn ý niệm
sắc thân này vốn là hư tưởng, chỉ là sự tổ hợp của năm uẩn luôn nhuốm
màu khổ đau và bất tịnh. Thân phận con người so với chư thiên chẳng khác
nào bây dòi chen chúc trong hầm phẩn. Mọi phiền não cuộc đời luôn cấu
xé tâm can, chúng như những mũi tên độc găm vào da thịt như những trận
tra tấn cực hình. Nhờ thường xuyên quán sát như thế, hành giả sanh tâm
nhàm chán, đối với thân xác và mọi thú vui dục lạc ở đời sẽ không sanh
tâm đắm nhiễm.
Tâm chán bỏ thế giới Ta bà càng lớn thì chí nguyện
cầu sanh càng mạnh. Người niệm Phật trước sau chỉ có một ước nguyện duy
nhất là mong cầu sớm thoát khoi lao tù Ta bà hiện tại, nguyện thác sanh
về Cực lạc ngày mai. Tâm tha thiết cầu sanh đó ngàn trâu kéo không lại.
Chẳng khác nào như kẻ tha phương trông ngóng cố hương, người xa cha mẹ
mong ngày đoàn tụ, như trong Di Đà sớ sao có câu: “Trông về Cực lạc như
nhớ cố hương, ngưỡng mến đức Từ tôn như cha mẹ”.
Tín nguyện đã đầy đủ
nhưng thiếu phần Hạnh, người tu Tịnh độ cũng khó thành tựu, vì vậy cần
phải chú trọng vấn đề hành trì. Đại sư Ngẫu Ích tưng dạy: “Được vãng
sanh hay không cũng đều do ở tín và nguyện; phẩm vị cao hay thấp là bởi ở
chỗ hành trì có cạn hoặc sâu”.
Tín và Nguyện đã có, tức đã chuẩn
bị tư lương, nhưng muốn đạt mục đích, hành giả cần phải thực hiên các
sự nghiệp phước đức và trí tuệ. Đây là món tư lương thứ ba của người tu
niệm Phật. Ngoài việc tu tạo phước đức trí tuệ và giữ gìn giới luật làm
trợ hạnh vãng sanh, hành giả phải thực hành chánh hạnh. Chánh hạnh ơ đây
là phát tâm thanh tịnh thường trì thánh hiệu Phật. Theo pháp môn Tịnh
độ thì việc niệm Phật bao gồm bốn môn là Thật tướng niệm Phật, Quán
tưởng niệm Phật, Quán tượng niệm Phật và Trì danh niệm Phật.
Thật
tướng niệm Phât là thể nhập vào đệ nhất nghĩa đế niệm tánh Phật bản lai
của mình. Bản thể xưa nay vốn thanh tịnh vắng lặng không bị phiền não
cấu nhiễm. Hành giả trụ tâm vào tánh Phật bản lai đó, khiến tâm không
vọng động, không chạy theo niệm trần, tâm lần hồi trong sáng thể nhập
vào cảnh giới nhất tâm.
Quán tưởng niệm Phật là hành giả quán
tưởng Chánh báo và Y báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà và thế giới
Cực lạc, cho đến khi mở mắt hay nhắm măt, cũng đều thấy cảnh giới Cực
lạc rõ ràng.
Quán tượng niệm Phật là người tu luôn nhiếp tâm vào
hình tượng của Phật A Di Đà, cho đến khi có đối trước hay không đối
trước tượng, hình tướng oai nghiêm của Phật A Di Đà vẫn hiện ra trước
mắt.
Sau cùng là trì danh niệm Phật, đó là niệm thầm hay niệm ra
tiếng bốn chữ hay sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật”. Hành giả niệm Phật với
tâm tha thiết chí thành không xen lẫn tạp niệm, chỉ chú tâm vào danh
hiệu Phật lần hồi sẽ thể nhập vào cảnh giới nhất tâm.
So với ba
môn trước thì pháp trì danh niệm Phật có phần giản dị dễ tu và dễ thành
tựu. Đây quả thật là phương tiện thù thắng trong các phương tiện, là
đường tắt tu hành trong mọi đường tắt, như trong Di Đà sớ sao có câu:
“Ví như chim hạc tung mình đâu bằng đại bàng cất cánh, ngựa ký ruỗi vó
đâu bằng rồng chúa tung bay”.
Bởi do căn tánh của chúng sanh có
thiên sai vạn biệt, nên pháp trì danh được các bậc cổ đức chia thành
nhiều cách, như Ký thập trì danh; Phản văn trì danh; Sổ châu trì danh;
Tùy tức trì danh; Truy đảnh trì danh; Giác chiếu trì danh; Lễ bái trì
danh; Liên hoa trì danh; Quang trung trì danh và Quán Phật trì danh.
Trong đó có thể nói pháp Ký thập trì danh là pháp tu rất dễ thành tựu,
dễ đưa hành giả chứng đắc Niệm Phật tam muội.
Sanh tiền, đại sư
Ấn Quang thường khuyên các liên hữu nên ứng dụng cách thức này, đó là
cách niệm ký số, cứ mười câu làm một đơn vị, người hơi dài có thể niệm
thành hai lượt, một lượt năm câu, người hơi ngắn có thể chia thành ba
lượt, hai lượt đầu ba câu và lượt sau bốn câu. Sau khi niệm đủ mười câu,
thì đếm một vài lần cho đến khi được một trăm, tức niệm được một ngàn.
Cứ như thế lại đếm từ đầu là một lại, từ đó có thể biết một ngày niệm
được bao nhiêu vạn. Niệm theo lối này tâm đã niệm Phật lại còn ghi nhớ
số. Như vậy dù không chuyên cũng bắt buộc chuyên, nếu không chuyên thì
sẽ bị sai lạc số mục. Cho nên pháp này là một phương tiện cưỡng bức giúp
cho hành giả chuyên tâm, rất có công hiệu và đưa đến thành tựu cho
người niệm Phật một cách nhiệm mầu.
Ngoài ra, vấn đề quan trọng
của pháp niệm Phật là trong khi niệm phải giữ tâm thanh tịnh, bởi tâm
thanh tịnh là nhân tố quyết định cho việc thành tựu cảnh giới nhất tâm.
Muốn đạt được điều này cũng theo tổ sư Ấn Quang: “Khi hành giả đề khởi
câu Phật hiệu, tai phải nghe rõ ràng từng chữ, tâm phải trụ vào câu Phật
hiệu, không chạy theo vọng trần và nhiếp tâm liên tục hành giả sẽ tiến
sâu vào cảnh giới chánh định”. Theo đại sư Liễu Nhất: “Khi tâm chuyên
chú vào câu Phật hiệu, quên cả thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả không gian
thời gian, đến lúc sức lực công thuần ngay cả nơi niệm trần mà vọng hoặc
tiêu tan, tâm thể bừng sáng, hành giả có thể chứng được niệm Phật tam
muội”.
Qua những điểm trình bày sơ lược về ba yếu tô Tín, Nguyện,
Hạnh của pháp môn niệm Phật, chúng ta thấy pháp môn này có phần đơn
giản dễ thực hành mà kết quả lại cao tuyệt. Môn này quả thật là pháp môn
siêu tuyệt, là thuyên từ ra khỏi Ta bà, là cửa mầu để vào Phật đạo:
“Xuất Ta bà chi bảo phiệt, thành Phật đạo chi huyền môn”. Sự dễ tu dễ
chứng so với các pháp môn khác được các bậc cổ đức đánh giá: “Tu các
pháp môn khác, như con kiến bò dọc theo ống tre, hành trì môn Tịnh độ
như con kiến đục thủng ống tre ra ngoài”.
Phải chăng, pháp môn
Tịnh độ là pháp môn duy nhất trong thời mạt pháp, để cho chúng sanh y cứ
tu tập thoát ly sanh tử luân hồi; như trong kinh Đại tập nguyệt tạng,
Đức Phật có dạy: “Mạt pháp ức ức nhân tu hành, hãn nhất đắc đạo, duy y
niệm Phật đắc độ sanh tử” (Thời mạt pháp vạn vạn người tu hành, song ít
có người đắc đạo, chỉ nương vào pháp môn niệm Phật mà khỏi thoát luân
hồi). Đó có phải là mật ý vi diệu, là tình thương bao la của bậc có trí
tuệ bất tận đối với chúng sanh căn cơ hèn kém, như trong kinh Vô lượng
thọ nói: “Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã dữ từ bi ai mẫn, đặc
lưu thử kinh chi trụ bách tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ý
sở nguyện, giai khả đắc độ” (Trong đời tương lai, khi kinh đạo diệt
hết, Ta dùng sức từ bi thương xót, riêng lưu trụ kinh này một trăm năm.
Chúng sanh nao gặp, tùy theo sở nguyện, đều có thể đắc độ).
Vì
tính cách khế lý khế cơ ấy mà từ trước đến nay không biết bao nhiêu
người niệm Phật được kết quả vãng sanh. Sự mầu nhiệm đó như rồng bay
phượng múa, ngọc chạm vàng khua mà trong “Tịnh độ thánh hiền lục” đã ghi
lại rõ ràng. Pháp môn này lại bao quát cả ba căn, trên từ các bậc Đẳng
giác Bồ tát, các bậc Đại đức cao tăng, dưới cho đến những kẻ cùng hung
cực ác, nhẫn đến những loài súc sanh như nhồng, sáo, uyên ương, se sẻ…
cũng nhờ trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà mà được thoát ly thân cầm thú
sanh về cảnh giới Tịnh độ.
Trải qua bao thế hệ thăng trầm của
dòng thời gian biến đổi, các tông phái khác có nguy cơ bị hoại diệt hoặc
trở thành một triết lý hỗ tương. Riêng tông Tịnh độ có tính cách thiết
thực, đã ngày càng đứng vững và phổ cập, trở thành một trong hai tông
phái tu tập căn bản của Phật giáo Đại thừa là Thiền tông và Tịnh độ
tông. Có thể nói đây là hai tông phái bao trùm toàn bộ tinh hoa, đường
lối tu tập của Phật giáo Đại thừa.
Với sự tán dương truyền thừa
tông Tịnh độ, từ trước đến nay đã có biết bao vị cao tăng thạc đức, các
bậc văn nhân chí sĩ... đã làm các sớ giải, các luận văn, làm truyện, làm
kệ, làm thi, làm phú... để khen ngợi và xiển dương tông phái này.
Ngoài
ra, các bậc cao đức, chuyên tu tịnh nghiệp, cầu sanh Tây phương số
lượng không sao kể xiết, như Ngài Bách Trượng Hoài Hải với bản Bách
trượng thanh quy làm quy củ cho Thiền tông, cũng không ngoài ý nghĩa quy
túc Tịnh độ. Các Tổ bên Thiền tông như Vĩnh Minh Diên Thọ; Thiên Như
Duy Tắc; Thiên Thai Hoài Ngọc... Bên Luật tông như các Ngài Nguyên
Chiếu; Hoài Tố... Bên Tam luận tông như các Ngài Cát Tạng; Đạo Lãng...
Bên Duy thức tông như các Ngài Khuy Cơ; Hoài Cảm... Bên Mật tông như các
Ngài Bất Không; Hồ Đồ Khắc Đồ... Bên Hoa Nghiêm tông như các Ngai Đỗ
Thuận; Trừng Quán... Bên Pháp Hoa tông như các Ngài Trí Giả; Quán
Đảnh... Các bậc cao tăng xướng lãnh các tông phái trên đây và vô số danh
tăng khác, cũng đều phát nguyện cầu sanh cảnh giới Cực lạc.
Tại nước
Việt Nam, pháp môn Tịnh độ đã sớm truyền vào và phát triển mạnh mẽ.
Trong thế kỷ XI, có thiền sư Tĩnh Lực (thuộc phái Vô Ngôn Thông) là vị
đã chứng niệm Phật tam muội. Cũng trong thế kỷ này, một lang tướng của
Lý Thánh Tông đã dựng một tượng Phật A Di Đà cao hai thước rưỡi tây tại
núi Lan Kha, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Thiền sư Không Lộ (mất năm
1141) đã từng dựng tượng Phật A Di Đà ở chùa Quỳnh Lâm. Thảo Đường quốc
sư, vị khai tổ dòng thiền thứ ba của Phật giáo Việt Nam (vào thế kỷ XI)
đã khuyên đồ chúng nên tu Tịnh độ với bài Pháp ngữ thị chúng tuyệt vời.
Tôn giả Huyền Quang tam tổ thiền phái Trúc Lâm cũng đã lập tháp Cửu phẩm
liên đài tại chùa Bút Tháp để khích lệ tứ chúng cầu nguyện vãng sanh.
Thời cận đại có các bậc cao tăng như HT. Tâm Tịnh, HT. Khánh Anh, HT.
Hải Tràng, HT. Trí Thủ, HT. Thiền Tâm… đã tự tu và truyền bá pháp môn
này từ Bắc chí Nam, làm cho Phật pháp được hưng thạnh và lan truyền cho
đến ngày hôm nay.
Thiết nghĩ, trên bước đường tu tập người xuất
gia lẫn tại gia, ai cũng mong muốn đạt đến kết quả giải thoát giác ngộ,
nhưng thành tựu sở nguyện đó là điều không phải dễ dàng. Khi tự thân
chúng ta luôn tràn đầy những nghiệp lực chi phối, cộng thêm hoàn cảnh xã
hội bên ngoài, luôn có những năng lực tác động đưa con người đi vào
trong quỹ đạo của dục vọng đê hèn. Chỉ một tập quán xấu nhỏ nhưng diệt
trừ nó không phải đơn giản, hoặc một chút điều lành nhưng thực hiện
không phải một sớm một chiều. Để rồi trong âm thầm, cuộc sống của chúng
ta cứ trôi lăn trong vòng sanh tử, trong sự chỉ đạo của phiền não, tồn
tại với bao ước vọng hão huyền, rồi một mai khi tấm thân tứ đại này tan
rã, biết hướng về đâu mà nương tựa.
Chi bằng, đặt trọn tấm lòng
thành hướng về với Tam bảo, mỗi niệm xả ly Ta bà, mỗi niệm cầu về Cực
lạc. Quyết chí nương nhờ Phật lực, phát nguyện cầu sanh Tây phương, đến
khi thành tựu quả vị Vô thượng Bồ Đề, trở lại Ta bà tiếp độ chúng sanh.
Có như vậy mới hợp với bản hoài thị hiện của Đức Phật Thích Ca, đúng với
hạnh nguyện tiếp dẫn của Đức Phật A Di Đà và không cô phụ tánh linh của
mình.
Theo Thích Nguyên Liên/GNO