Thiền là phương pháp tu
hành chủ yếu của nhà Phật. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử
của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Các phương pháp hành thiền này đều
nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền
Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần
tự theo thứ bậc, tuy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả.
Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại
không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật
tánh.
Được biết Tổ Sư Thiền
bắt đầu từ Phật Thích Ca truyền lại cho ngài Ma Ha Ca Diếp, đến ngài A Nan rồi
truyền tới Tổ thứ 28 là ngài Bồ Đề Đạt Ma. Sau đó ngài Bồ Đề Đạt Ma
truyền sang Trung Quốc. Bồ Đề Đạt Ma được tôn làm Sơ tổ Thiền tông Trung Hoa,
truyền cho Nhị tổ Huệ Khả, Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn và
Lục tổ Huệ Năng. Sau đó chia thành năm phái: Lâm Tế, Tào Động, Pháp Nhãn,
Quy Ngưỡng và Vân Môn. Mỗi phái đều có phương tiện cơ xao riêng để khế
hợp với từng cơ duyên của đệ tử. Tùy mỗi đương cơ mà chư Tổ, hoặc nói,
hoặc nín, hoặc dùng gậy đánh hay dùng tiếng la, tiếng hét v.v... Các phương
tiện cơ xảo ấy giống như chuyện vô lý nhưng lại có tác dụng làm ngưng suối
nguồn ý thức của người đệ tử lúc bấy giờ. Mục đích là để đệ tử, ngay sát
na đó khai ngộ. Các ngài không muốn đệ tử sa lầy trong văn tự chữ nghĩa, chỉ
cần ngừng dòng tâm ý thức để trực thấy bản tâm, bản tánh của mình. Do đó
một người khi nhập môn dòng thiền Lâm Tế liền bị tiếng la hét hay khi nhập môn
dòng thiền Đức Sơn liền bị đánh v.v... là vậy. Người tham thiền thời đó cảm
thấy thích hợp với cơ xảo nào thì đến phái đo theo học. Tuy khác nhau ở cơ xảo
nhưng sự ngộ chẳng khác.
Lâm Tế và Tào Động là
hai phái thiền Tổ Sư còn tồn tại truyền qua Việt Nam, Cao Ly, Nhật Bản và Hoa
Kỳ. Ngày nay, khi nói đến tồ
Sư Thiền, người ta lập tức nghĩ tới việc tham công án và nghĩ rằng tham công án
cũng tương tự như khán thoại đầu. Thật ra công án và thoại đầu có khác nhau mặc
dầu mục đích không khác nhau. Đa số các công án có chuyện tích phức tạp, thí dụ
công án Vô của Thiền sư Triệu Châu: Một ông Tăng hỏi Hòa thượng Triệu
Châu: "Con chó có Phật tánh không?". Sư đáp: Không. Vị khác
hỏi: “Con chó có Phật tánh không?”. Sư đáp: Có. Tại sao Triệu Châu nói
“Không” cho người này lại đáp “Có” với người kia? Tại sao các loài hữu
tình chúng sinh đều có Phật tánh, mà Hòa thượng Triệu Châu lại nói không, rồi
sau đó lại nói có? Ngài có nói sai không? Nếu không thì ý ngài ở đâu? thắc mắc
không biết v.v... Còn khán Thoại đầu, đơn giản hơn, không có chuyện tích phức
tạp như thế mà chỉ là câu hỏi. Ví dụ như câu “Niệm Phật là ai?” hay
“Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao?” v.v...
Mục đích của tu Tổ Sư
Thiền là làm ngưng lại dòng tâm ý thức (thường lưu) trôi chảy liên tục trong
tâm con người từ thời vô thủy. Chư Tổ sư dùng cơ xảo để làm cho đương cơ
bật ngược lại, vượt qua bức màn vô minh từ thời vô thủy, vượt qua luôn bờ bên
kia của vô thủy vô minh, hoàn toàn giác ngộ, như vàng đã tôi luyện, loại bỏ hết
tạp chất.
Bản thể chân tâm của
chúng ta vốn thanh tịnh, nhưng vì một niệm bất giác, tức nhất niệm vô minh sinh
khởi, nên sinh ra ý thức phân biệt, gây thành có ta, co cái không phải ta, sinh
ra đối đãi, từ đó dòng tâm ý thức tham sân si dấy lên, ngày càng dày đặc, càng
trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi tạo nghiệp trả quả, vay trả không ngừng.
Nay muốn trở về cội nguồn thì phải dừng được dòng tâm ý thức, nghĩa là dừng lại
những tạo tác của ý thức thường nghiệm, luồng tư tưởng, những ý niệm và nhận
thức.
Thoạt kỳ thủy, chưa có
công án, mà chỉ là cơ xảo của chư Tổ, tùy theo căn cơ của người đối diện mà
tháo gỡ vướng mắc đã khiến họ kẹt cứng, không hội nhập lại bản thể được, thí dụ
như Lục tổ hỏi Thượng tọa Huệ Minh:
- Không nghĩ thiện,
không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?
Nghe câu đó, Thượng tọa
Minh ngơ ngác, trong một sát na dòng tâm ý thức bị khựng lại, bản thể hiển lộ
lập tức. Những thí dụ như trong một ngàn bảy trăm công án đều là những câu vấn đáp
của chư Tổ, chính là để đương cơ "khựng ngay dòng ý thức lại".
Mỗi vị đều có những câu khác nhau, tùy theo nhận xét của thầy mà đưa câu hỏi
cho trò.
Người sau thấy những câu
hỏi đáp đó đã giúp khai ngộ cho đệ tử, bèn thu thập lại, rồi đề ra cho người
tới xin tu, cho họ một câu, gọi là "một tắc công án", để họ tự
hỏi hoài, thành ra một nỗi thắc mắc nhân tạo, coi như dụng cụ để giúp người tu
thiền có thể ngưng đọng tâm tư, tạo được khối nghi, chờ một ngày kia có trợ
duyên, khối nghi bùng vơ, là Ngộ.
Càng về sau, tâm tư con
người càng phức tạp, biện luận càng nhiều. Người tu dùng công án để tạo thắc
mắc, nghi tình thì ít, đem công án ra để bình giải thì nhiều, công án nhà Thiền
biến thành công cụ để bình luận văn thơ, đã không giúp cho dòng ý thức ngưng,
còn khai triển ra đủ loại tư tưởng đối nghịch, biến thành trò chơi chữ nghĩa.
Trong trường hợp đó, công án không còn phục vụ sứ mạng tạo nghi tình, lại lấp
bít con đường đi tới giac ngộ chân chính, và cũng do bởi Cảnh Đức Truyền Đăng
Lục ra đời thời điểm này, ghi chép tất cả các thủ đoạn, công án của chư Tổ,
khiến người tham thiền biết hết kỹ thuật của Tổ nên không phát khởi được nghi
tình; do đó, chư Tổ mới bất đắc dĩ chế ra pháp "Chiếu Cố Thoại Đầu"
hay còn gọi là “Khán Thoại Đầu”. Chiếu Cố Thoại Đầu có từ đó.
Như vậy Chiếu Cố Thoại
Đầu là gì? Thoại là lời nói và Đầu là đầu tiên. "Thoại đầu" là
"phía trước, trước khi có câu nói". Nếu đã nói ra, dù là một chữ, thì
hết là "đầu", mà chỉ còn là "thoại vĩ", là "câu
nói" mất rồi. Cho nên không có "câu thoại đầu", mà chỉ có
"phía đầu của câu thoại", cho nên phải có chữ "chiếu cô",
chiếu cố thoại đầu, tức là "quán chiếu về phía trước của câu nói".
Trước câu nói là gì? Dĩ
nhiên câu nói (thoại) phải là hậu quả của một dòng ý thức trước khi tuôn ra
thành lời. Nhưng dòng ý thức trước khi thành lời đó ở đâu? Là cái gì? Sự
thắc mắc ấy chính là nghi tình. Nghi tình này không có đáp án, không thể
dùng tâm ý thức giải đáp huyên thuyên, dù có muốn, vì nó không có câu chuyện có
đầu có đuôi như công án. Miên mật trong khối nghi này tức là hành giả đã vượt
qua nhất niệm vô minh, đang ở trong vô thủy vô minh, tức là đang trên "đầu
sào trăm thước". Sau đó sẽ là "bước thêm một bước", là nghi tình
bùng vỡ, là bước vào nơi mà chư Tổ gọi là "đất điền địa kia" (gọi là
"đất", là "bước", chỉ là hình thức hóa cho dễ hiểu trong
ngôn từ, thật ra thì tất cả chỉ là chuyển hóa tâm thức, không có cụ thể thành
vật chất được, nói ra đã là dùng tương đối, cách xa mất rồi). Bước này mau chậm
tùy theo cơ duyên, có người ôm khối nghi nhiều năm, có người ngắn hơn. Cơ duyên
khiến cho nghi tình bùng vỡ, là "bước thêm một bước" có thể là tiếng
viên sỏi chạm vào cây tre, hoặc là tiếng vỡ của cái chén rơi, tiếng chuông
chùa, câu nói vô nghĩa, v.v...
Chiếu Cố Thoại Đầu bắt
đầu từ đời nhà Tống bên Trung Hoa, không rõ truyền qua Việt Nam từ năm nào
nhưng sau năm 1975 có một vị sư người Việt gốc Hoa truyền giảng pháp môn này
tại Việt Nam rồi sau đó truyền qua Úc, Canada và Hoa Kỳ theo vết chân di cư của
chính vị sư này và những Phật tử Việt Nam và Phật tử Việt gốc Hoa. Vị sư này là
cố Hòa thượng Thích Duy Lực.
Hiện nay tại Việt Nam
pháp môn này đang được truyền dạy tại các chùa: Phật Đà, Liên Hoa, Giác Nguyên
(TP. HCM); Tam Bảo (Nha Mân, Sa Đéc), Liễu Quán, (Núi Dinh, Vũng Tàu). Riêng
tại Hoa Kỳ, Từ Ân thiền đường, ngôi thiền đường duy nhất hoằng truyền Tổ Sư
Thiền ở hải ngoai được chính cố Hòa thượng thiết lập và hiện tại được điều hành
bởi một Ban Trị sự gồm các cư sĩ môn sinh người Việt và người Việt gốc
Hoa.