Đối
với chúng con, khi nghe nói về việc chuyển hóa tâm,
điều này có vẻ rất khó khăn trong nền
văn hoá của chúng con. Chúng ta nói về việc “làm an
định” tâm, nhưng có lẽ khó có thể nghĩ
được rằng phương tiện đó thực
sự chuyển hóa được tâm chúng con.
Bạn thấy
đấy, dù bạn gọi nó là sự chuyển hóa hay cái
gì khác, thì nó cũng có nghĩa là cái gì đó đang phát
triển. Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi
sự đến từ tâm, vì thế tất cả
những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối
mặt cũng đến từ tâm. Tâm được phú
cho sự ô nhiễm, và qua những ô nhiễm chúng ta
thực hiện những hành động, và theo cácn này chúng
ta tạo ra nghiệp sẽ phát triển.
Về cơ
bản, tự thân ý thức thì thuần tịnh và không
bị ô nhiễm bởi những che chướng. Nhưng
thay vì nhận ra chân tánh của tâm, tất cả chúng ta
đều có khuynh hướng – do những thiên
hướng rất mạnh mẽ từ vô lượng
kiếp – bám chấp một cách tự nhiên vào bản ngã mà
chẳng có lý do hợp lý nào. Khi bạn bám chấp vào
bản ngã, nó là sự vô minh không thấu suốt chân lý. Thay
vì thấu suốt chân lý thì bạn bám chấp vào bản ngã,
và khi bám chấp vào bản ngã bạn có một sự tham
muốn đối với những sự vật của
riêng mình, sự sân hận đối với những
người khác, sự ganh tị và tranh đua và v.v.. Theo
cách này mọi sự bất tịnh và ô nhiễm tích
tập.
Khi ai đó cảm
thấy sân hận, trước hết họ nói đó là
một kinh nghiệm thuộc về thân thể, cảm
giác. Chúng con rất khó phá bỏ ý tưởng này và bắt
đầu nhận ra rằng sự sân hận là một
tư tưởng. Tại sao thân thể lại có một
kinh nghiệm mạnh mẽ như thế khi con sân hận?
Trong Phật Giáo
chúng ta có nhiều cấp độ khác nhau. Nhưng ta nói
rằng về cơ bản thì mọi sự là tâm, kể
cả thân thể. Mọi sự đến từ tâm, và tâm
cũng không hiện hữu – nó cũng ở trong bản
tánh của tánh Không.
Bởi mọi
sự xuất hiện từ tâm, tất cả chúng nối
kết lẫn nhau. Thân thể hiện tại như
một cái nền hay thùng chứa, và tâm là vật được
chứa. Thùng chứa và vật được chứa
nối kết với nhau thật chặt chẽ, vì
thế đó là lý do vì sao khi tâm bạn dính mắc với
những cảm xúc chẳng hạn như sân hận, thì
bạn cũng có thể cảm nhận điều đó
rất mạnh mẽ về mặt vật lý. Và cũng
thế nếu bạn rất hạnh phúc thì bạn sẽ
nhận thấy thân thể bạn thoải mái dễ
chịu.
Hiểu
được sự sân hận này được
đặt nền tảng một cách khái niệm là
điều rất khó khăn.
Tôi nghĩ rằng
có nhiều phương pháp nhưng về cơ bản thì
tôi cho rằng bằng cách nhận ra những hậu
quả ta phải đối mặt do sự nuông chiều theo
sự sân hận. Chẳng hạn bởi chiều theo sân
hận bạn đã tạo nên sự khó chịu của
thân xác cũng như sự buồn khổ trong tâm mà
rốt cuộc sẽ ảnh hưởng tới thân
thể bạn.
Này người
minh triết, sự sân hận là điều tệ hại
nhất bạn có thể làm cho bản thân bạn. Không ai
khác có thể đưa bạn xuống những cõi
địa ngục, mà chính sự sân hận của bạn
có thể đem bạn xuống đó.
Mặc dù vậy,
làm thế nào chúng con nhận ra được rằng sân
hận là một chuỗi những tư tưởng?
Khi bạn nhận
ra rằng sân hận là cái gì rất có hại cho bản thân
và cho những người khác, trong nhất thời và
tối hậu, thì dĩ nhiên là bạn sẽ tự nhiên
không mong muốn nó. Vào lúc đầu thì tất nhiên là có
thể khó khăn, nhưng nếu bạn cố gắng và
chấm dứt nó một lần thôi, rồi lại cố
gắng nữa, rồi khi bạn trở nên quen thuộc
với việc đó thì dĩ nhiên không có gì là khó cả.
Kế đó, khi
bạn cố khảo sát xem sự sân hận ở đâu,
tại sao nó phát khởi, nó phát khởi ở đâu, nó
đi đâu. Thường thì khi bạn sân hận, chính bởi
những người đặc biệt nào đó không thích
bạn hay họ làm những điều bạn không thích,
vì thế bạn theo đuổi ý tưởng đó và
bạn thường xuyên nghĩ về mọi lỗi
lầm. Bạn cố gắng và càng lúc càng nhận ra
những lỗi lầm, và vì thế điều này tiếp
tục và sự sân hận của bạn càng lúc càng lớn
hơn. Khi ấy bạn cũng có thể thốt ra
những lời lẽ tàn nhẫn, và thân thể bạn
cũng có thể hành động điều gì đó. Theo
các này giờ đây tâm bạn đã bị sự sân
hận chinh phục.
Thay vì theo
đuổi sự sân hận, nếu bạn cố gắng
quay trở lại và khảo sát xem sự sân hận phát
khởi từ đâu, tại sao nó phát khởi, bạn
cảm nhận nó trong bộ phận nào của thân thể,
và bạn cố nhìn thấy bản tánh của sự sân
hận, thì tôi nghĩ rằng khi bạn nhìn vào nó, bạn
không thể tìm thấy bất kỳ điều gì.
Việc thực
hành kỹ thuật này đòi hỏi rất nhiều thông
tuệ và quyết tâ. Nó rất phức tạp.
Dĩ nhiên,
nhưng nếu bạn thực hiện nó đầy đủ
thì rất có thể thành công.
Như thế Ngài
nói rằng trước tiên phải làm chủ nó, sau đó
nhìn vào nó.
Phải.
Có lần Lạt
Ma Yeshe nói với chúng con trong một bài giảng:
“Người Tây phương các bạn nghĩ rằng
sự tham muốn có điều gì đó để làm
với các cảm giác của các bạn, nhưng nó không có
điều gì để làm với những cảm giác.”
Điều này nghe hơi sốc, bởi giống như
sự sân hận, chúng con hoàn toàn gắn liền sự tham
muốn với cái gì đó thuộc về cảm giác. Vì sao
nó không thể thuộc về cảm giác? Chúng con có thể
nhìn nó ra sao?
Rất khó. Với
sự tham muốn thì không có sự thoả mãn cho dù tham
muốn tới đâu chăng nữa. Chẳng hạn
như các bạn bị dính mắc nhiều tới mức độ
nào với một nơi chốn, với thực phẩm,
bạn hữu và v.v.. nhưng cho dù bạn có bao nhiêu
chăng nữa thì bạn cũng không thoả mãn.
Nó giống như
việc uống nước muối. Khi bạn uống
nước muối, càng uống thì bạn càng khát, vì
thế không có sự thoả mãn. Thay vì bạn cố
gắng thỏa mãn nó với sự tham muốn thêm nữa,
tôi nghĩ rằng nếu bạn cố gắng từ
bỏ, nếu bạn cố gắng tiệt trừ tham muốn,
thì bạn có thể thấy thoả mãn.
Như vậy
tại sao điều đó rất khó thực hiện? Ngay
cả là những Phật tử, chúng con hiểu tất
cả những từ này, nhưng chúng con vẫn tiếp tục
theo đuổi sự tham muốn. Tại sao nó quá khó?
Bởi chúng ta quá
quen thuộc với nó. Bởi từ vô thuỷ – theo quan
điểm của giáo lý của Đức Phật – chúng
ta đã bị mê hoặc trong sinh tử, và chúng ta từng
nuông chiều sự tham muốn như thế. Những
người dính líu với việc hút thuốc hay uống
rượu đều biết rằng hút thuốc là có
hại. Nhưng thậm chí không phải từ quan
điểm tâm linh mà từ quan điểm y học hay
sức khỏe, chúng ta biết rằng thuốc lá có
hại, nó có thể gây nên bệnh ung thư, và không ai
muốn bị ung thư, và nó có thể gây ra nhiều
chứng bệnh khác, và nó đắt tiền. Nhưng
đối với những người đã quen thuộc
với một tập quán như thế thì thật khó mà
từ bỏ nó.
Tương tự
như thế, sự tham muốn thì có hại, nhưng
bởi chúng ta từng liên kết với nó trong một quãng
thời gian dài đến thế nên rất khó từ bỏ
nó. Nhưng rốt cuộc thì nó như thuốc độc.
Thuốc độc chỉ có thể gây nên đau khổ.
Nhưng làm thế
nào con có thể chứng minh điều này? Trong nền
văn hóa của chúng con, chúng con có thể có thật dễ
dàng những gì sự tham muốn của chúng con muốn có,
chúng con tuyệt đối tin tưởng rằng nó
thực sự là nguyên nhân của hạnh phúc. Chừng nào
mà con còn tiếp tục tìm kiếm nó thì con không thể
nhận ra rằng nó đang gây nên đau khổ.
Dường như điều đó rất khó khăn
đối với những người bình thường
như chúng con.
Chẳng hạn
như hầu hết mọi người bị dính mắc
vào của cải, phải thế không? Mọi người
cho rằng khi bạn có của cải bạn sẽ
hạnh phúc. Nhưng quả thật của cải thực
sự là nguồn mạch của mọi đau khổ. Khi
bạn đang thâu thập của cải bạn phải
chịu đựng sự đau đớn của thể
xác và nỗi khổ tinh thần để tích luỹ nó.
Rồi trong lúc ấy bạn phải tạo nên mọi
năng lực để bảo vệ nó. Tâm của
những người giàu có rất nhiều gánh nặng
hơn những người không có tiền của. Họ
thường xuyên phải lo lắng về của cải
của họ, nó có thể bị ai đó lấy cắp, có
thể bị chính phủ đánh thuế, và những
thứ tương tự như thế. Và cuối cùng,
bằng một cách nào đó, bạn mất đi của
cải của bạn.
Nhưng
đối với người không có chút của cải nào
thì chẳng có gì để phải lo mất. Vì thế khi
bạn mất nó bạn cũng sẽ đau khổ. Vào lúc
bắt đầu là sự tích luỹ, trong lúc tích lũy
bạn phải bảo vệ, và cuối cùng thì mất mát,
hao tổn: nó là nguồn gốc của mọi đau
khổ. Nếu không có ai giải thích điều này, thì
thậm chí người ta không buồn truy xét, nhưng
nếu bạn thận trọng suy nghĩ về nó và xem xét
nó, thì bạn sẽ nhận ra rằng của cải là
nguồn gốc của mọi đau khổ.
Cho dù bạn dùng
bao nhiêu thực phẩm thơm ngon thì cũng không có lúc
chấm dứt. Bạn càng ăn thì bạn càng có nhu
cầu. Nhưng nếu bạn từ bỏ nó, nếu
bạn không dùng nó, nếu bạn hài lòng, thì bạn sẽ
thấy rằng bạn còn bình an hơn nhiều nếu so
với việc phải luôn cố gắng tìm kiếm
một cái gì mới mẻ, một cái gì tốt hơn,
một cái gì đẹp đẽ hơn.
Bình an nghe không
giống hạnh phúc lý tưởng. Làm thế nào chúng con
thuyết phục được mình rằng sự bình an
ấy hơn hẳn loại hạnh phúc mà chúng con có được
từ việc theo đuổi sự tham muốn?
Điều ấy
thật rõ ràng. Khi những người bình thường
đắm mình trong sự tham muốn trong một thời
gian dài, mọi sự họ đạt được là
càng lúc càng đau khổ. Nhưng những bậc cao quý,
những Bồ Tát, từ bỏ mọi tham muốn và
tất cả những gì các ngài thành tựu là sự hoàn
thành viên mãn mục đích của riêng các ngài cũng như
của những người khác. Vì thế ta cần
nhận ra rằng đi theo con đường cao quý thì
sáng suốt hơn nhiều nếu so với con
đường tầm thường, là con đường
chẳng đi được tới đâu.
Chính vì những
cảm xúc là một tập quán mạnh mẽ nên
trước hết, khó có thể nhận ra chúng như
một chuỗi những tư tưởng và kế đó,
chúng con thực sự tin rằng những cảm xúc là nhân
cách. Chẳng hạn như sự sân hận rất dễ
dàng phát sinh trong đời sống của con. Con tin
rằng đây là người mà con là và không bao giờ con có
thể thay đổi được điều này. Con
cũng không bao giờ được dạy rằng con có
thể thay đổi nó. Mẹ con có thể dạy con
đọc và viết, nhưng bà không biết làm cách
để dạy con bớt giận dữ bỡi bà
chỉ nghĩ: “Nó là cái người đó.” Chúng con khắc
phục điều này ra sao?
Sân hận không có
trong bản tánh của tâm. Nếu nó ở trong tâm thì
bạn không thể chuyển hóa nó, nhưng bởi nó không
ở trong bản tánh của tâm nên nó có thể bị
tẩy trừ. Bạn nhận ra rằng nó có hại, không
lợi ích gì, nó hủy hoại tâm bạn, sức khỏe
của bạn, và bạn ăn không ngon, sức khỏe sa
sút. Dĩ nhiên là đối với một người bình
thường thì việc từ bỏ sự sân hận rất
khó khăn, nhưng khi bạn nhận ra điều này thì
đó là bước đầu tiên. Tôi nghĩ rằng
bạn có thể giảm bớt từng bước
một – tôi không thể nói rằng bạn sẽ hoàn toàn
từ bỏ nó, nhưng bạn có thể giảm bớt
nó. Cuối cùng thì dĩ nhiên là bạn có thể chiến
thắng nó.
Nhưng
dường như vấn đề lớn nhất là chúng
con không tin rằng nó không phải là bản tánh của chúng
con. Chúng con thực sự tin rằng những sự mê
lầm và sân hận là điều tự nhiên trong mọi
người – theo cách này thì còn tự nhiên hơn bởi nó
xuất hiện dễ dàng hơn.
Nó không phải là
bản tánh vì nếu là bản tánh thì nó phải có lợi
lạc.
Nhưng tại sao
nó tự nhiên có lợi lạc?
Bản tánh thì
tử tế và đầy thương yêu. Toàn bộ
cuộc đời của chúng ta được nâng
đỡ bởi lòng thương yêu và thiện tâm.
Nếu cha mẹ ta không thương yêu ta thì ta đã không
hiện hữu tới ngày hôm nay – ta đã chết ngay sau
khi sinh ra. Nhưng nhờ lòng thương yêu và sự
chăm sóc của họ, họ đã không để chúng ta
chết, trái lại đã nuôi nấng ta.
Cũng
tương tự như thế, khi ta còn là những
đứa trẻ, những vị Thầy, bạn bè, cha
mẹ và những người thân thuộc của ta
thảy đều nuôi dạy ta. Thậm chí ngày hôm nay, khi
đã trưởng thành, chúng ta luôn luôn cần tới
những người bạn, tình thương của
bạn bè và tình thương của những thân quyến
của ta, những điều đó làm tâm ta dễ
chịu, làm tâm ta thanh thản, đặc biệt là khi ta
đương đầu với những phiền não và
những vấn đề. Ta luôn luôn có thể thảo
luận những vấn đề với người nào
đó và nương cậy vào họ để giải
quyết những vấn đề của chúng ta. Khi ta
lớn tuổi tôi nghĩ rằng càng lúc ta càng cần phải
nương tựa vào lòng từ ái của những
người khác.
Vì thế trong toàn
bộ cuộc đời ta, bản tánh con người là
lòng thương yêu. Tình thương xây dựng cuộc
sống, mục đích của nó là để tiếp
tục. Nhưng sân hận thì chỉ hủy diệt – nó
hủy diệt đời sống, hủy diệt sức
khỏe, hủy diệt giấc ngủ, hủy diệt
sự ngon miệng. Nó hủy hoại đời ta, nó không
giúp ích cho cuộc đời ta, vì thế nó không tự nhiên.
Đây là luận lý học thông thường.
Thưa Ngài,
người ta nói rằng bản tánh tự nhiên thông
thường của tâm ta thì trong sáng. Ngài có thể cho chúng
con một phương pháp thực sự thực tiễn
để chúng con nếm trải được
điều này?
Khi tâm ta bận
rộn với dòng tư tưởng đến nỗi
thậm chí ta thường không để ý tới nó.
Nhưng khi ta ngồi xuống và cố nhìn vào tâm mình thì
dường như các niệm tưởng càng xuất
hiện nhiều hơn nữa. Các tư tưởng
xuất hiện trong mọi lúc nhưng ta không để ý,
vì thế khi bạn ngồi xuống thì cuối cùng bạn
mới bắt đầu chú ý tới điều đó.
Ví dụ như,
khi nước bị trộn lẫn với bùn và bạn
lắc nó lên thì không có gì thực sự xảy ra – nó
vẫn bị pha trộn. Nhưng nếu bạn không làm gì
hết thì bùn lắng xuống và nước trong sẽ
xuất hiện trên bề mặt.
Tâm ta thì cũng thế,
nếu bạn cố gắng ở trong trạng thái an
tĩnh không bị những tư tưởng khác xen vào và
bạn ngồi xuống – không nhất thiết phải
thiền định, mà chỉ nhìn vào tâm bạn, không có
bất kỳ niệm tưởng nào – thì tôi nghĩ đó
là sự trong sáng. Hãy hiểu rằng nó không chỉ là
một sự tẩy xóa.
Tâm không phải là
cái gì mà chúng ta có thể nhìn thấy bằng mắt hay xúc
chạm bằng tay hoặc đo lường
được, và ta không thể mô tả nó bằng các màu
sắc hay hình dáng, nhưng tâm ta rất mạnh mẽ. Nó là
cái gì ta có thể cảm nhận – tâm ở đây, ở đó
– bạn có thể cảm nhận nó. Nó là một trạng
thái tỉnh giác. Nó có sự trong sáng trong ý thức rằng
nó luôn luôn tỉnh giác và thường xuyên, giống như
ánh sáng của một ngọn nến.
Bạn có thể
thực hiện những thực hành an định, hay
shiné, để kinh nghiệm điều này nhiều hơn
nữa. Nó rất, rất ích lợi cho bất kỳ ai dù
bạn có là một người có niềm tin tôn giáo hay
không. Cách tốt nhất là buông lỏng. Sự buông lỏng
không chỉ có nghĩa là nằm xuống, nhưng sự
buông lỏng tuyệt hảo nhất là trong tâm không nhớ
tới mọi phiền muộn và lo lắng về sinh
kế và công việc của bạn và v.v.., mà chỉ đi
vào nó và hoàn toàn buông lỏng. Nhờ phương pháp này ta có
thể cảm nhận sự trong sáng. Từng bước
một, bằng cách thiền định nhất tâm,
việc thực hành theo cách này rất ích lợi.
Thưa Ngài, ta thường
được bảo rằng ta thấy có dòng truyền
thừa, thấy có những Lạt ma của ta, thấy có
gia đình tâm linh, và ta dính mắc vào những điều đó.
Giáo lý của những truyền thống khác nhau có thể
sai lầm bởi chúng có thể bị diễn dịch khác
nhau, đặc biệt là những giáo lý về tánh Không.
Dường
như Đức Đạt Lai Lạt Ma thực sự
nhấn mạnh vào tầm quan trọng của một quan
điểm không bộ phái và đang khuyến khích mọi
người nghiên cứu những truyền thống khác
nhau. Đây có phải là điều Ngài khuyến khích? Và
nếu đúng như thế thì làm thế nào chúng con có
thể tránh không bị lầm lẫn? Chẳng hạn
như những giáo lý mà Ngài ban cho chúng con hôm nay nghe hơi
khác những giáo lý mà các Lạt ma Gelug của chúng con có
thể ban cho, vì thế chúng con phải suy nghĩ thận
trọng về chúng.
Bạn có thể có
những cách hiểu khác nhau nhưng cuối cùng tất
cả chúng đều dẫn tới cùng một kết
cuộc. Thực ra những vị Thầy cổ xưa
không có tinh thần bộ phái. Chẳng hạn như
Đạo sư Thangtong Gyalpo có 500 guru (Đạo sư):
Nyingma, Sakya, Gelug – mọi người. Trong thế kỷ 19,
Jamyang Khyentse Wangpo và Jamgon Kongtrul là những vị Thầy
không bộ phái; các ngài nhận lãnh những giáo lý từ
mọi trường phái. Và không chỉ thọ nhận, các
ngài còn thực hành, và biên soạn những quyển sách
từ những quan điểm khác nhau.
Những quyển
sách có những cách giải thích hơi khác nhau, nhưng
điều này không có nghĩa là chúng mâu thuẫn nhau.
Giống như những loại thuốc khác nhau có thể
chữa trị bệnh nào đó cho một loại
người đặc biệt, loại giải thích này có
thể thích hợp cho loại người này.
Con có một
việc khó xử. Con gặp một ni cô Tây Tạng tu hành
ở Dharamsala, và khi con hỏi cô theo truyền thống nào
thì cô nói: “Tôi không có một truyền thống.” Cô cũng nói
cô nhận những giáo lý từ tu viện trưởng
của phái Biện chứng, là phái Gelug. Đối với
con thì dường như ngay khi vị Thầy nào đó
giảng về tánh Không thì ta phải xác định xem nó
phù hợp với quan điểm nào trong tất cả
những quan điểm, như thế nó phải phù
hợp với Lạt Ma Tsong Khapa hay Milarepa, hay bất
kỳ quan điểm nào khác. Như thế, cuối cùng thì
làm thế nào ta có thể có một quan điểm không
bộ phái, theo nghĩa đen của việc không thuộc
về bất kỳ trường phái nào?
Ở bình diện
bên ngoài thì có những khác biệt, nhưng nếu bạn
đi vào những cách giải thích sâu xa thì tôi nghĩ
tất cả chúng trở thành một.
Điều này
rất dễ nghe nhưng đối với những
người bình thường thì rất khó chứng
nghiệm. Ngôn từ nghe có vẻ đẹp đẽ, và
thật tốt khi coi nó là mục đích, nhưng làm
thế nào điều này trở nên có ý nghĩa cho chúng con?
Tôi cho rằng
những cách giải thích khác nhau là tốt bởi mọi
người khác biệt nhau. Không phải mọi
người đều như nhau. Thực ra, một
loại thuốc không đủ cho mọi loại bệnh
tật – bạn cần những loại thuốc khác nhau,
và những hệ thống y học khác nhau. Chẳng
hạn như, đối với một vài bệnh tật
của con người thì y học Tây Tạng hữu
hiệu hơn, trong khi đối với những bệnh
khác thì y học Trung Quốc hay y học đối
chứng (allopathic medicine) có hiệu quả hơn.
Tôi nhớ hồi
trước ở Dharamsala có một vài bác sĩ
người Úc, và nhiều khi các bác sĩ đối
chứng không chấp nhận những hệ thống y
học khác; họ khăng khăng cho rằng cách chữa
trị của họ là số một. Nhưng chính
những bác sĩ này đã chấp nhận rằng
đối với vài loại bệnh, như bệnh viêm
gan, thì rõ ràng là hệ thống y khoa Tây Tạng tốt
hơn. Chính các bác sĩ đã nói với tôi như thế.
Nhưng đối với bệnh lao phổi, thì dứt
khoát là y học đối chứng có hiệu quả
hơn.
Trong con
đường tâm linh thì cũng tương tự như
thế, bởi mọi người có những trí lực
khác nhau và những mức độ tâm linh khác nhau, nếu
bạn có nhiều hệ thống khác nhau thì điều
ấy tốt hơn.
Bạn càng có
nhiều cấp độ giáo lý khác nhau thì càng tốt.
Những giáo lý, Kinh điển cũng như Kim
Cương thừa thì rất sâu xa và khó hiểu.
Để thấu hiểu chúng bạn cần phải có
nhiều phương pháp khác nhau. Một trong những
phương pháp này là sự tranh luận. Những
trường phái khác nhau đôi khi không chỉ có những
quan điểm khác nhau, nhưng chúng có nhiều sự tranh
luận, bác bỏ lẫn nhau. Nhờ tiến trình như
thế ta hiểu được những ý nghĩa rất
khó hiểu. Vì thế tôi nghĩ rằng việc nghe giáo lý
từ nhiều quan điểm khác nhau thì rất lợi
lạc.
Thưa Ngài, về
guru, chúng con thường nghĩ guru như Thượng
Đế, ngài là một người ở trên đó,
một người toàn thiện tách biệt với
con. Chúng con nghĩ: “Ồ, tốt lắm, ngài là guru,
ngài có thể thiền định cả đêm, ngài có
thể làm điều này, ngài có thể làm điều
nọ.” Nhưng có lẽ thái độ thực sự
của chúng con là chúng con được cảm hứng
bởi những gì ngài làm, và bản thân chúng con có thể
giống như thế.
Phải, đúng
thế. Guru nên là một mẫu mực và phẩm tính
tối thiểu của guru là người có trí tuệ,
giới luật tốt đẹp và lòng bi mẫn. Vì
thế hành vi tốt lành và cách sống của vị ấy
nên là một tấm gương cho các đệ tử
của ông.
Lạt Ma Tsong Khapa
nói rằng vấn đề chính yếu là nhìn guru như
vị Phật, và người ta sử dụng những
trích dẫn khác nhau từ các bản văn để
chứng minh rằng Đức Dorje Chang (Kim Cương
Trì) đã nói rằng ngài sẽ xuất hiện như guru.
Đó là
điều chỉ trong Kim Cương thừa mới có.
Nhưng trong truyền thống Đại thừa có nói
rằng guru như một vị Phật, nhưng không nói
rằng ngài là một vị Phật. Nhưng khi bạn
nhận những quán đảnh trọng yếu và
những giáo lý Kim Cương thừa, thì khi ấy guru
của bạn là Phật.
Vì thế, theo
truyền thống của thực hành pháp guru yoga của
chúng ta, điều đó chỉ có thể được
thực hiện bởi những người đã đi
vào Kim Cương thừa. Những người bình
thường có thể dùng một vài loại thực hành,
nhưng không phải là thực hành coi guru như một
vị Phật.
Con có nghe câu
chuyện về người đàn bà có chiếc răng chó
nhưng nghĩ rằng nó là xá lợi Phật, nhưng do
bởi đức tin nên bà đã nhận được những
sự ban phước của Đức Phật – bằng
cách này hay cách khác năng lực của Đức Phật
đã hiển lộ trong chiếc răng đó. Nếu con
nhìn một người như Đức Phật thì cho dù
họ không phải thế, có phải điều đó
cũng giống như năng lực của Đức
Phật hiển lộ trong người ấy vì lợi lạc
của con?
Phải, đúng
thế – đó là nhờ sức mạnh của lòng sùng
mộ của đệ tử. Trên căn bản thì
mọi người đều có Phật tánh, vì thế cho
dù guru của bạn không toàn thiện và có nhiều lỗi
lầm, nhưng từ khía cạnh của đệ tử
với lòng sùng mộ, bạn có thể nhận
được những sự ban phước của
Đức Phật bởi ngay cả guru của bạn
với những lỗi lầm của ông cũng có Phật
tánh. Đây là lý do chính.
Như thế không
phải là theo nghĩa đen, các Đấng Toàn Trí, chư
Phật, hiện diện trong vũ trụ, hiển lộ
trong thân người ấy và chúc phúc nhờ đó con
có thể được lợi lạc. Không phải
như vậy sao?
Không, tôi không
nghĩ thế. Bởi guru đang thực hiện những
hoạt động của Đức Phật, ông giống
như một khí cụ giữa mặt trời và bạn.
Với khí cụ này bạn có thể sử dụng năng
lực của mặt trời. Không có khí cụ này, mặt
trời luôn luôn có ở đó nhưng bạn không thể
sử dụng nó.
Nhưng nhờ
guru bạn có thể sử dụng năng lực và có
thể nhận những sự ban phước của
Đức Phật. Vì thế bạn nên nhìn guru như
Đức Phật. Về phần tôi thì guru còn quan
trọng hơn Đức Phật, bởi ta không thể
nhìn thấy Đức Phật, không thể nghe Ngài nói, do
đó ta không thể trực tiếp nhận những
sự ban phước. Nhưng nhờ guru bạn có thể
nhận được những sự ban phước. Vì
thế theo tôi guru quan trọng hơn Đức
Phật.
Như thế lý do
chính khiến người đàn bà nhận những sự
ban phước là do bởi niềm tin của bà ta – chứ
không phải tại chiếc răng có năng lực.
Điều đó dường như là vấn đề
chính.
Phải, phải.