Thời mạt pháp,pháp có mạt???
17/12/2013 07:49 (GMT+7)

Trong sáu nẻo luân hồi, nếu không tinh tấn tu luyện chắc hẳn nhiều người còn phải “ghé vào” ở các kiếp kế tiếp. Phật thấy được quá khứ vị lai, thấy được tương lai của Pháp mình đã giảng sẽ còn lại những gì. Phật thấy sự suy đồi nhân tâm. Thấy một bộ phận người (trong đó có tôi) sẽ dùng lý trí để phân tích, thậm chí thẩm định lời Phật, hiểu lệch, sai và hiểu cạn. Phật Pháp vốn đại quang minh tạng; sáng hay tối tùy thuộc và sự hiểu và hành Pháp ở mức độ nào của mỗi sinh mệnh. Thời còn tại thế, Phật dạy đệ tử: “Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi” (Kinh Trường Bộ, bài Kinh Đại Niết-bàn). Đức Phật từng chia mốc thời gian của Pháp như sau: thời Chính pháp (1.000 năm) – Tượng pháp (1.000 năm) – Mạt pháp (10.000 năm)… Theo lịch Đông phương, thời Mạt pháp đã qua một ngàn năm đầu tiên.

Như vậy, thời đại chúng ta đang sống hôm nay, chính là thời Mạt pháp.

Thực chất Pháp mạt

Sự vô minh thông qua thân, ý và khẩu nghiệp đã khiến lời Đức Thích Ca truyền giảng bị “sử dụng” lệch chuẩn. Kỳ thực dưới ánh hào quang tỏa rạng của Pháp, vô lượng chúng sinh vẫn miệt mài trực chỉ nhân tâm, tin vào chính mình chân trần vững bước qua biển mê.

Nếu ánh hào quang của Phật qua gần 3 ngàn năm nay đã mờ, sao vẫn sản sinh ra rất nhiều những vị sư đắc đạo. Thời Lý – Trần được xem là hưng thịnh nhất của Phật giáo Việt Nam. Dưới triều Lý có Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072-1116); với minh chứng rõ ràng cho thấy vua Lý Thần Tông chính là hóa thân của ông. Thời Trần có Phật hoàng Trần Nhân Tông, con người thứ hai sau Phật đưa ra một thông điệp ngàn đời: áo bào không thể cao quý hơn tấm cà-sa; ngay cả vua, người ngồi trên đống vàng, ngồi trên thiên hạ, ngồi trên mọi sự hưởng lạc, tức là người ấy tiêu xài không thiếu thứ gì song khó thể… tiêu nghiệp. Chưa nói đến chuyện, vua, cũng là người có nguy cơ tạo nhiều nghiệp lực nhất. Minh chứng viên mãn hơn là hai vị sư đắc đạo để lại toàn thân xá-lợi ở chùa Đậu. Rồi chúng ta còn có vị Bồ-tát khiến nhân loại “quỳ gối” trước trái tim vĩ đại – đó là Thích Quảng Đức. Nhìn ra thế giới, Giáo sư Alexander Berzin (người từng là thông dịch viên cho Đức Đạt Lai Lạt Ma) cho biết, có khoảng một nghìn dòng lạt-ma hóa thân đã được xác định. Những vị hóa thân, một phần ra được ngoài Tam giới, tức họ đã nhập Niết-bàn và nay nguyện trở lại cứu vớt chúng sinh. Nói cách khác, họ là những đệ tử chân truyền xuất sắc của Phật, nối dài thêm vào danh sách một vạn hai ngàn năm trăm vị đắc quả La-hán thời Phật còn tại thế. Chính họ là những minh chứng xương thịt cho thấy: Phật pháp vẫn nguyên xưa. Ngay đến thời Diệt pháp, Phật cũng tiên liệu Pháp chỉ còn 4 chữ “A Di Đà Phật”. Nhưng 4 chữ ấy chính là sự “gói gọn” của Pháp giới. “Niệm A Di Ðà Phật đến thuần thục thì những giáo lý chí cực của Tam tạng mười hai bộ kinh cũng đều nằm trong ấy cả. Một ngàn bảy trăm công án, mấu chốt hướng thượng cũng nằm trong ấy cả. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ tịnh giới đều nằm trong ấy cả” (Ngẫu Ích đại sư Pháp ngữ). Vậy nên, “Đạo Phật cần những cá nhân Phật tử biết suy tư, biết phân tích, biết tự tìm hiểu rồi xác nhận sự hiểu biết của mình, ngang qua sự hành trì, kinh nghiệm cá nhân. Đạo Phật không cần đến những đoàn người theo đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng, theo một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình bóp méo xuyên tạc đạo Phật theo tà kiến dục vọng của mình”; “đạo Phật là đạo đến để mà thấy, chứ không phải đạo đến để nhờ người thấy hộ, đạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải đạo của người nhắm mắt, đạo của người thấy, của người biết (Passato Ajànato), không phải là đạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato)” (Chánh pháp và hạnh phúc – HT.Thích Minh Châu).

“Mạt pháp” nên hiểu…?

Phật pháp thấm nhuần khắp vạn vật cỏ cây, không gì không bao hàm. Bất cứ con người làm gì, nghĩ gì đều nằm trong Pháp; nếu nằm ngoài chính là mê lầm đang dẫn lối. Con người đó dẫu tốt đến mấy, sâu sắc đến mấy, bất quá cũng chỉ là một công dân hạng bét trong quá trình “tiến hóa” thành Phật. Tiền tài danh vọng, tham dục là quả bóng vàng luôn bày sẵn trước nhục nhãn. Với người tu, họ sẽ quán đến khi quả bóng ấy thành bóng bay, trương phình và nổ. Cái không. Bình lặng trở lại với chân Tâm. Người không tu sẽ kiễng chân tìm cách với tay nắm bằng được; ngay sau đó liền xuất hiện thêm quả bóng vàng khác to hơn nặng hơn, đặt cao hơn, tiếp tục mê dụ người đời. Đây là một trong rễ độc nơigốc Đời khiến “pháp Mạt”.

Hãy thử nghĩ: Có một người tốt chuyên giúp đỡ kẻ khác. Kẻ được giúp đỡ thoát nghèo, rồi kha khá, rồi giàu, trong suốt giai đoạn phát đạt tịnh tiến ấy hầu như tuần nào cũng đến xin xỏ, người tốt có bực mình? Đương nhiên. người tốt sẽ, một là đuổi kẻ lợi dụng lòng tốt đó, hai là tự dời chỗ khác. Dõi vô chùa chiền. Không phải tất cả song phần lớn người cúng dường đều muốn xin một cái gì đó lớn hơn số vật chất họ cúng, xin thứ mà tiền không mua được (ví như nghiệp nạn họ phải gánh chịu do tự thân tạo tác). Hoặc giả người trắng tay, đến chùa chỉ để quỳ trước tượng Phật xin thoát cảnh bần hàn, xin được trúng số, vân vân. Thiết nghĩ, nếu khoa học chế tạo ra bộ máy điện toán đặt phía sau tượng Phật thâu âm những lời nguyện; số người xin có được mái nhà khỏi dột để ngồi thiền, đọc và học Phật, xin được khỏe mạnh để giúp người khác, nguyện cho kẻ thù bớt hại người, thuần tâm dưỡng tính, xin cho không có chiến tranh… sẽ chiếm tỷ lệ quá khiêm tốn so với người xin trăm nghìn thứ liên quan đến thụ hưởng – cái mà Phật không đời nào đáp ứng. Thế nên nếu kẻ nguyện không chân thành, không hiểu đúng bản chất của Phật, thì “ông Phật” trong họ là giả. Ngược lại nếu họ hiểu Phật không thần thánh, thay vì xin xỏ hãy làm đúng theo lời Phật răn dạy, nghĩ đến người khác trước lúc nghĩ đến lợi ích của mình thì tự khắc ông Phật thật xuất hiện.

Chúng ta biết, ngay đến đệ tử giỏi thần thông bậc nhất của Phật là ngài Mục Kiền Liên, khi thấy mẹ đội chậu máu đứng trên bàn chông cũng không thể phá rào nhân quả mang mẹ khỏi địa ngục. Mà ông phải quay về dương gian – theo lời Phật dạy: nương nhờ thánh lực của mười phương Tăng cộng trú vào ngày lễ Tự tứ đồng lòng cầu nguyện, mẹ ông mới được sanh lên cõi trời Đao Lợi.

Không ai muốn phủ nhận việc thi hành một số nghi lễ trước lúc người quá cố về chín suối. Người có Phật lực cao, họ có thể hướng dẫn linh hồn vững tin bước vào con đường sáng ở kiếp sau. Việc tụng kinh sẽ động viên cố Phật tử thêm phần chánh niệm. Đến là Phật nếu siêu độ thì người được nhận cũng chỉ sinh lên cõi trời Đao Lợi là cùng. Như tôi chưa hề soi thấu kiếp mình, thì dám tụng kinh sám hối giùm ai; không chừng lại khiến linh hồn thêm phần hoang mang lầm lạc. Suốt đời tâm hiểm, lúc chết đâu dễ “nhờ ai” có thể giải nghiệp! Có chăng ở phút hấp hối, nếu họ nhận diện lỗi lầm, hồi hướng nương theo Hương Bát-nhã, tịnh niệm “A Di Đà Phật” và được nhiều người cùng hộ niệm may ra từ bi Phật cứu vớt khỏi Ta-bà. Ở Tây Tạng hiện vẫn tồn tại tục điểu táng, có khi họ chặt khúc người chết cho chim ăn; ở sông Hằng có tục thủy táng (để người tu thấy được sự vô thường của xác thân). Hợp vệ sinh môi trường và nhân văn hơn, trong Di chúc, Bác Hồ cũng mong muốn nước ta có nhiều lò thiêu thay vì địa táng. Ngay trong nước, cùng sự chết song ở một số nơi thuộc miền Bắc thường đưa đám trong vòng ba ngày kể cả ngày mất, còn ở phía Nam có nơi người chết để có khi vài tuần, thối rữa… trên mặt đất! Phật giáo đã khai thị chí lý điều này: chỉ cần thật yên tĩnh trước, trong và sau lúc mất ít nhất 8 tiếng, sau đó mới đụng chạm đến người quá cố; tốt hơn thì trước lúc mất khuyên họ đừng tơ vương cõi trần quyến thuộc mà trụ tâm niệm Phật cầu vãng sanh về Tây phương Cực lạc. Làm trọn điều này còn lo chi đến ngày giờ tốt xấu. Tại sao khổ chủ đợi cho kỳ được ngày giờ tốt nhất mới táng người quá cố thân yêu. Trong lúc người dương hoàn toàn có thể giúp bằng cách làm thật nhiều việc thiện rồi nguyện dành cho người âm. Đó là điều duy nhất, có ích nhất mà họ sẽ nhận được từ chúng ta.

Cúng bái là “trò chơi” cuồng tín của đạo Bà-la-môn trong xã hội phong kiến Ấn Độ. Nguyên thủy Phật không đề xướng đi cúng mà chỉ đến giảng pháp, thọ trai tại gia nếu được mời. Phát sinh việc này cũng không hẳn sai, cái sai ở người thực hiện. Để yên lòng người chết (hay yên lòng người sống), nếu là một gia đình nghèo, có khi không đủ kinh phí cúng cấp. Sự đạo mạo quá mức của một số đoàn cúng khiến người đời dễ liên tưởng đến các chính khách phương Tây hoặc các Tăng lữ phương Đông. Việc này chắc chắn góp một điểm trong sự [hiểu là] Mạt pháp.

Ngày xưa Đức Gautama nhận đệ tử ở bất cứ đẳng cấp xã hội nào. Bình đẳng tuyệt đối. Ăn không phân biệt thứ gì được cúng dường, ngủ bất cứ nơi đâu trong rừng hay trên núi. Đoàn giáo sĩ lên tới con số hàng ngàn của Buddha xưa hoan hỷ an cư trong khu rừng của hoàng tử Jeta xứ Kosala trao tặng. Nay có chùa lớn lại chỉ an trú dăm người, ít mở Pháp hội, nên không tránh khỏi chùa ấy trở thành nơi “thờ Phật” chứ không phải “học Phật”. Việc này đặt lên vai những nhà chuyên tu trong chùa đó gánh nặng nghìn vạn cân, khi không những tu cho chính mình mà còn cấp đức cho các thí chủ đến cúng dường.

Lão Hòa thượng Quảng Khâm, người gần như chỉ ngủ ngồi; là một minh chứng sinh động cho việc liễu thoát sanh tử, một tấm gương ngọc bích không tì vết, là bậc thầy tâm linh vĩ đại của bất cứ người tu thuộc pháp môn nào, đã nói: “Phật pháp không có mạt pháp, mà “người” thì có mạt pháp – Người không biết kính Phật trọng pháp. Người già thì đặt Phật pháp tại chỗ mạt nhứt của các sinh hoạt – đặt sau tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghê, lại đặt sau “trà dư tửu hậu”, đặt sau “nhân tình thù tạc”. Người mà đem tính trọng yếu của việc học Phật đặt vào chỗ tối mạt là người của thời đại mạt pháp. Nếu là người kính trọng Phật, trọng pháp thì mãi mãi là người của thời đại pháp!”.

Lão Hòa thượng Quảng Khâm

Vài thiển nghĩ…

Phần lớn cư sĩ đều có một gia đình cần lo lắng, một số nợ cần trả, một sự nghiệp (đã lỡ mang vào) cần hoàn thành ở mức tương đối… Làm việc, âu cũng rất cần thiết cho sự khảo nghiệm tâm tính. Đời là trường tu. Xã hội loài người đang phát phì bởi tích quá nhiều nghiệp; giống như một người ăn quá nhiều thịt, không thể cưỡng. Kiểu như Tần Thủy Hoàng đòi hỏi thuốc nôn, nôn ra những thứ vừa ăn để tiếp tục thưởng thức nhiều món khác. Tôi còn nhúng tay vào việc đời nghĩa là còn làm tổn hại đến nhiều người. Còn, người tu chân chính khác, ít nhất họ sẽ không đụng chạm đến lợi ích của ai, đã là quý lắm rồi. Người ta làm việc có lương cao, lại chi cho bản năng hưởng thụ mất quá nửa. (Mà, hưởng thụ là tạo nghiệp). Một người tu lương tháng ít ỏi song bản thân cần chút ít đã sống tốt sống khỏe, dư dả giúp đỡ người khác mà bản thân lại ít tích nghiệp.

Không ít người tu tại gia, khi đến con cháu chơi, mang nào chén bát xoong nồi; trong lúc nếu thật tâm đoạn cá thịt, chỉ cần chén bát rửa sạch cũng được. Ở phương diện này đòi hỏi người không tu cũng nên có cái nhìn rộng lượng hơn. Một gia đình ăn chay trường, đã bị hàng xóm dè bỉu “giả bộ ăn chay để che đậy keo kiệt”; rồi là “chắc chúng gây tội quá nặng nên mới ăn chay trường…”. Có người cứ gì ăn nấy không khen ngon cũng chả chê dở, liền bị rủa “đã ăn chay còn thèm mặn ngọt”, kỳ thực người này đạt đến tâm không phân biệt, một trình độ tâm linh không tồi.

Tu là cốt giải thoát luân hồi sinh tử, đạt Niết-bàn. Người không học Phật cứ cứng nhắc Niết-bàn ở tít tận mây xanh. Niết-bàn – từ tia nhìn gần và thô là đạt đến Tâm Bình Lặng giữa xô bồ trần tục.

Ai sinh ra, hữu ý hay vô tình đều đã nhờ vào ánh sáng mặt trời mà lớn lên như chính niềm ân sủng vô biên của Phật pháp.


Nhụy Nguyên 
daibi.vn

Các tin đã đăng: