Vì lòng đại bi, đức Phật xuất
thế thuyết pháp độ sanh. Nguyên bổn tâm của Phật chỉ muốn tất cả chúng
sanh đều thoát hẳn sanh tử luân hồi, chứng viên mãn Phật đạo mà thôi.
Song, vì chúng sanh căn tánh lợi độn không đồng, trí ngu sai khác nên
đức Phật phải chiều theo cơ nghi mà giáo hóa. Do đó, pháp môn của Phật
có nhiều đến vô lượng.
Với chúng sanh hạng lợi căn đại trí,
thời đức Phật dạy Phật thừa để đặng liền viên Phật quả, như Thiện Tài
trong pháp hội Hoa Nghiêm, Long Nữ nơi đạo tràng Diệu Pháp…
Với chúng sanh hạng căn trí kém, thời
đức Phật giảng Bồ tát thừa, Duyên giác thừa và Thanh văn thừa, để cho
hạng ấy lần lượt tu tập, tuần tự chứng quả.
Với chúng sanh trình độ quá thấp, thời
đức Phật nói Thập thiện, Ngũ giới, Thiên thừa và Nhơn thừa cho hạng ấy
nương theo để khỏi sa đọa vào ác đạo, đặng còn thân nhơn thiên mà vun
bồi thiện căn lần lần. Tương lai nương nơi căn lành ấy mà tấn tu Thánh
đạo. Hoặc học Bồ tát thừa tu Lục độ vạn hạnh mà chứng Pháp thân, hoặc y
theo Duyên giác thừa hay Thanh văn thừa ngộ duyên sanh cùng Tứ đế mà
đặng đoạn phiền não chứng Niết bàn.
Tất
cả những pháp môn ấy, bất luận là Tiểu thừa hay Đại thừa, Tiệm giáo hay
Đốn giáo, nơi hành giả đều phải tự lực tu tập cho đến đoạn tận hết
phiền não mới ra khỏi vòng sanh tử. Nếu kiến hoặc, tư hoặc còn chừng mảy
tơ thời cội gốc sanh tử vẫn chưa dứt hẳn. Như Tam quả Thánh nhơn
(A-na-hàm), sau khi sanh lên Bất Hườn Thiên, còn phải trải qua nhiều
thời gian mới chứng quả A-la-hán. Chứng A-la-hán rồi mới thật dứt hẳn
cội gốc sanh tử.
Nhưng A-la-hán chỉ là bậc Thánh Tiểu
thừa, còn cần phải hồi tâm tu Đại thừa mà cầu Phật đạo. Rèn bi nguyện
hiện thân trong lục đạo, tu hành Lục độ vạn hạnh, trên cầu thành Phật,
dưới cứu khổ mọi loài, lần lượt chứng các bậc: Thập trụ, Thập hạnh, Thập
hồi hướng, Thập địa và Đẳng giác Bồ tát. Bậc Đẳng giác lại phải dùng
Kim Cang Trí phá một phần phẩm sanh tướng vô minh, mới viên mãn Chủng
trí mà chứng Phật quả (Diệu giác).
Giáo pháp của đức Phật chỉ dạy, từng bậc
tu chứng từ phàm lên Thánh, từ Thánh đến Phật, quyết không thể vượt
ngoài tuần thứ kể trên.
Đức Bổn sư của chúng ta biết rằng: “Nếu
chúng sanh chỉ dùng tự lực để liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập Thánh
thời rất khó đặng”. Nên ngoài vô lượng pháp môn chỉ thuộc tự lực, Ngài
dạy một pháp môn tự lực nương tha lực rất viên đốn, rất huyền diệu, dễ
thực hành mà thành công cao, dùng sức ít mà mau có hiệu quả, tất cả căn
cơ đều hạp, tất cả Thánh phàm đồng tu. Chính là pháp môn Tịnh độ, niệm
Phật cầu vãng sanh vậy.
Đức Phật A-di-đà có thệ nguyện nhiếp
thủ chúng sanh niệm Phật. Nên người dùng tín nguyện mà niệm Phật (tự
lực) thời cảm thông với nguyện lực của Phật. Nương nguyện lực của Phật
nhiếp thủ (tha lực), liền đặng siêu thoát sanh tử luân hồi mà sanh về
Cực lạc Tịnh độ. Đã được vãng sanh tức là cao thăng vào bậc Thánh lưu
Bất thối, nên gọi là rất viên đốn, rất huyền diệu và thành công cao.
Nơi pháp môn này, phương pháp thực hành
rất giản tiện, mọi người đều có thể tùy phần tùy sức mà hành đạo. Chỉ
cần chỗ tu cho đúng pháp thì chắc chắn sẽ thành tựu, nên gọi là dùng sức
ít, dễ thực hành và mau có hiệu quả. Tổ Thiện Đạo cho rằng, nghìn người
tu không sót một. Vĩnh Minh đại sư công nhận là mười người tu, được cả
mười…
Với pháp môn Tịnh độ này, không luận là
trí hay ngu, không luận là Tăng hay tục, không luận là giàu sang hay
nghèo hèn, không luận là già trẻ nam nữ, không luận là sĩ, nông, công,
thương… tất cả các giới trong xã hội đều có thể tu tập và thành tựu.
Văn-thù Bồ-tát nói: “Các môn tu hành không môn nào qua môn niệm Phật. Niệm Phật là vua trong các pháp môn”.
Đức Quán Thế Âm bảo: “Tịnh độ pháp môn hơn tất cả hạnh khác”.
Mã Minh đại sĩ bảo rằng: “Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện siêu thắng của đức Như Lai”.
Long Thọ tôn giả nói: “Niệm Phật
Tam-muội có đại trí huệ, đại phước đức, hay đoạn trừ tất cả phiền não,
hay độ được tất cả chúng sanh. Niệm Phật Tam-muội hay sanh vô lượng
Tam-muội, cho đến Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội”.
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ tát nói: “Pháp môn niệm Phật là tâm tông của chư Phật, là con đường giải thoát tắt nhất của mọi loài”.
Ấn
Quang đại sư từng nói: “Vì nương Phật lực nên tất cả mọi người, không
kể là nghiệp hoặc nhiều hay ít, cũng không kể công phu hành đạo cạn hay
sâu, miễn tin cho chắc, nguyện cho thiết, thời quyết muôn người tu muôn
người vãng sanh không sót một. Còn nếu là bậc đã đoạn hoặc chứng chơn mà
cầu vãng sanh, thời đốn siêu Thập địa; bậc Thập địa mà cầu sanh thời
mau viên Phật quả. Vì thế, nên Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ v.v…
các đại Bồ tát đều nguyện vãng sanh. Đến như những kẻ tạo ác cả đời sắp
đọa địa ngục, hồi tâm niệm Phật cũng được giải thoát, như các ông
Trương Thiện Hòa, Trương Chung Húc, Hùng Thuấn, Duy Cung v.v…”.
Hạng người phạm tội ác ấy mà còn thành tựu được thay, huống là những người chưa quá ác, huống là những người lành!
Do đây nên thấy rằng, pháp môn Tịnh độ
này nhiếp cả Thánh phàm, nhiếp cả thiện ác, nhiếp cả chúng sanh, như
biển lớn gồm thâu muôn dòng vậy.
Vì pháp môn Tịnh độ với chúng sanh có sự
lợi ích rộng lớn như thế, nên muôn kinh vạn luận luôn luôn nhắc đến,
chư Thánh chư Hiền đều nguyện cùng về.
Thật là: “Cửu giới chúng sanh rời pháp
môn này thời chẳng thể viên thành Phật quả. Thập phương chư Phật bỏ pháp
môn này quyết không thể độ khắp quần sanh”.
Trong kinh Đại Tập, đức Phật có lời
huyền ký: “Thời mạt pháp, muôn ức người tu hành, khó có một người được
giải thoát. Chỉ nương nơi pháp môn niệm Phật mà được thoát khỏi luân
hồi”.
Đó là Phật bảo chúng ta phải tín hướng
và thực hành theo pháp môn Tịnh độ này vậy. Chúng ta há chẳng phải là
người thời mạt pháp đó ư!
Vì những lẽ như trên mà biết rằng: Ngoài
môn niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực lạc thế giới, quyết định chúng ta
hiện đời không thể siêu sanh thoát tử được. Còn đúng theo pháp môn niệm
Phật cầu sanh này mà tu, chắc chắn một đời này chúng ta đặng vãng sanh
Cực lạc, và đảm bảo trên đường thành Phật.
Thế nào là tu đúng pháp?
Tổng quát rằng: “Thật vì sanh tử phát Bồ
đề tâm, dùng tin sâu và nguyện thiết mà chuyên trì hồng danh A-di-đà
Phật”. Đây là tông thú chủ chánh của pháp môn Tịnh độ này. Tâm hạnh đúng
theo đây gọi là tu đúng pháp.
Khi được nghe giáo pháp của đức Phật dạy
về pháp môn Tịnh độ, chúng ta tự nghĩ rằng: “Cõi Ta-bà là chốn ngũ
trược ác thế, Tam giới như là lửa, cõi Dục mà chúng ta hiện ở đây khác
nào một cái hố sâu đầy sình. Ta và mọi người cho đến muôn loại, hiện tại
cũng như dĩ vãng, nhiều đời nhiều kiếp mang lấy không biết bao nhiêu là
sự thống khổ trong vòng sanh tử luân hồi. Ngày nay, ta được thân người,
lại được nghe biết pháp môn giải thoát mau tắt siêu thắng, ta phải kíp
quyết chí y pháp tu hành, để mình và mọi người đồng thoát ly sanh tử
khổ, đồng chứng chơn thường lạc”. Đây là thật vì sanh tử mà phát Bồ-đề
vậy.
Rồi
ta tự nhận rằng: “Thân cùng cảnh ở Ta-bà này đủ điều chướng đạo, như dễ
sanh phiền não, dễ đắm nhiễm, dễ gây ác nghiệp. Nội những sự già, bệnh,
chết, vô thường thiên biến cũng đủ ngăn trở con đường giải thoát của
ta. Còn thân cùng cảnh ở Cực lạc rất là lợi đạo, thường được thấy Phật,
luôn nghe pháp âm, nên tâm thanh tịnh và định huệ thành; ở chung với chư
đại Bồ tát thượng thiện nhơn thời Thánh nghiệp ngày tăng, chánh hạnh
ngày tấn; không già, không bệnh, thọ mạng vô lượng vô biên A-tăng-kỳ
kiếp, nên nội một đời, một thân thẳng lên đến bậc Đẳng giác Bổ xứ thành
Phật”.
Ta lại nhận định: “Nguyện lực của đức Từ
phụ A-di-đà rộng lớn bất tư nghị. Nay ta đúng theo pháp môn niệm Phật
cầu sanh Tịnh độ mà tu, quyết đặng Phật nhiếp thọ, quyết đặng vãng sanh.
Đã đặng vãng sanh tức là trụ bậc Bất thối, mau thành Phật đạo. Chỉ có
nguyện lực của Phật là chiếc thuyền từ có thể đưa ta ra khỏi biển khổ
thôi. Chỉ có cõi Cực lạc là Đại học đường có thể đem ta đến bờ Đại
giác”.
Tự nhận như thế rồi, bền chặt một lòng
nguyện thoát ly Ta bà ác trược, như người tù muốn ra khỏi ngục tối không
chút quyến luyến; nguyện về Cực lạc thanh tịnh, dường như trẻ thơ đi
lạc mong mỏi được về nhà không chút dần dà.
Nhận định như vậy, lập nguyện như vậy, đó là “Tin sâu cùng nguyện thiết”.
Bắt đầu từ đây cho đến trọn đời, tùy
trường hợp, tùy hoàn cảnh, tùy sức tùy phần, chí tâm trì niệm sáu chữ
hồng danh Nam mô A-di-đà Phật, coi đó như một công vụ hết sức khẩn yếu
phải tận lực mà làm. Nếu là người rảnh rang vô sự thì ngày cũng như đêm,
lúc đi đứng cũng như lúc ngồi nằm, giữ chặt chánh niệm. Phật không rời
tâm, tâm không rời Phật. Hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, nhiếp cả
sáu căn, Phật hiệu nối luôn. Đây là tương tục chấp trì. Niệm như vậy lâu
ngày sẽ tự chứng Tam muội: Hiện tiền thấy Phật thọ ký, lâm chung cao
thăng Thượng phẩm. Còn nếu là người đa đoan công việc, như việc nước,
việc nhà v.v... không nhiều giờ rảnh, thời nên tối và sáng sớm, thực
hành phương pháp “Thập niệm”, giữ mãi trọn đời không sót, không bỏ cũng
được vãng sanh. Vì đức Từ phụ có bổn nguyện: “Chúng sanh ở mười phương
nghe danh hiệu tôi rồi chí tâm tin muốn, nguyện sanh về cõi nước tôi
nhẫn đến mười niệm mà không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác”.
Ngoài ra, những người nào ở vào trường
hợp chặng giữa, thời châm chước phân thời định khóa mà thọ trì. Tất cả
đều phải cung kính, chí tâm, kỹ chắc trong lúc trì niệm, là điều kiện
khẩn yếu. Hành trì như vậy gọi là chuyên trì hồng danh A-di-đà Phật, và
đây là chánh hạnh.
Người niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực
lạc còn cần phải làm những điều lành, như có lòng từ bi, giới sát hộ
sanh, bố thí cứu tế, trì trai, giữ giới, hiếu thảo cha mẹ, kính thờ sư
trưởng, phò trì Tam bảo, lợi mình lợi người, dẹp lòng ngã mạn tham sân,
thêm lớn hòa vui nhẫn nhục, tin sâu nhơn quả, mở mang chánh kiến… dùng
đây làm trợ hạnh.
Tín nguyện đã có, chánh trợ đã đủ, đến
lúc lâm chung, chắc chắn được đức Từ phụ cùng Thánh chúng thừa bổn
nguyện lực, đích thân đến tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc.
Tín, Nguyện và Hạnh phải được cả ba mới
được vãng sanh, như cái đảnh ba chân, thiếu một thời ngã. Nhưng nên hiểu
thêm rằng: “Được vãng sanh là do lòng tin sâu chắc, chí nguyện tha
thiết để cảm thông với nguyện lực của Phật”. Còn nơi công hạnh ít thời
quả thấp, nhiều thời phẩm cao. Do vì công hạnh không hạn cuộc mà chú
trọng nơi tín và nguyện như vậy, nên đoạn trước có nói, tất cả người
trong tất cả các giới ở xã hội đều có thể thực hành và đều có thể thành
tựu được cả. Vì tin sâu và nguyện thiết, hạng người nào cũng có thể lập
được; thập niệm niệm Phật, ở trường hợp nào cũng đều thực hành được.
Theo: Tạp chí DPNN