Ta cũng có thể tìm thấy hành tích này trong Sơ thảo Phật
giáo Bình Dương của T. Huệ Thông. Tuy nhiên, các mẫu chứng cứ rời rạc và
không nhất quán trong tác phẩm biên khảo ấy, chỉ cho ta biết những nét
đặc trưng của công cuộc đấu tranh trong thời kỳ đen tối của đất nước và
một ít phát triển đơn điệu của các ngôi chùa ở đây.
Cổng Chùa Tây Tạng-Bình Dương
Lịch sử phát triển của một dân
tộc, không chỉ là các cuộc xung đột giữa thiện và ác, giữa nô lệ và giải
phóng, mà nó còn phải chuyển tải cho được hệ thống phát triển văn minh
của mình như thế nào trong lòng cuộc đấu tranh như vậy, nếu ta cho rằng,
Phật giáo là cốt tủy văn hóa không thể thiếu, nói chung, của nhân loại,
nói riêng, ở chính Việt Nam. Tuy nhiên, công phu của tác phẩm biên khảo
này vẫn đáng trân trọng. Lịch sử không chỉ là những con số thống kê, dù
chỉ là thống kê sơ thảo, mà nó còn liên quan đến các lãnh vực xã hội,
văn hóa, kinh tế và giáo dục, phong tục học..., nhất là, trong đó có vai
trò tất yếu của Phật giáo.
Sư ông thế danh Nguyễn Văn Tạo, tên
thường gọi là ông Mười Tạo, sanh năm 1888, ở thôn An Thạnh (bây giờ là
thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An), tỉnh Bình Dương. Sư là bậc am tường
Đông và Tây học, và là công chức của ngành y tế. Sư “đam mê” Phật giáo
từ năm 16 tuổi, sau đó xuất gia với Hòa thượng Ấn Thành-Từ Thiện, chùa
Thiên Tôn với pháp danh Chơn Phổ-Nhẫn Tế, thuộc về cây phả hệ của giòng
thiền Lâm Tế đời thứ 40. Sở dĩ sư có thêm pháp danh Minh Tịnh là do cầu
pháp học đạo với tổ Huệ Đăng và thụ giới với Hòa thượng Ngộ Định-Từ
Phong. (Theo Sơ thảo Phật giáo Bình Dương, gọi tắt là ST). Thuận theo
hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ thời bấy giờ, sư ông từng đảm
nhiệm vai trò Chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc Thủ Dầu Một do mặt trận
Việt Minh hướng dẫn, và theo ST, thì Hội ra mắt tại chùa Hội Khánh vào
ngày 23-3-1945 dưới sự chứng nhận của bác sĩ Trần Công Vị, Chủ tịch Ủy
ban Hành chánh của tỉnh Thủ Dầu Một thời bấy giờ.
HT Thích Nhẫn Tế
Theo tôn giả Thế Thân, sự tồn tại của Phật
giáo được cấu thành trên “đôi chân” của Giáo và Hành. Giáo, tức là
những công trình tư duy, nghiên cứu, xiển dương... những gì vốn được bẩm
thụ từ Phật dạy, và Hành, tức là sự nghiêm chứng của tự thân, trên cơ
sở truyền thừa. Cả hai, là toàn khối văn minh xuất thế của Phật giáo và
nhờ đó mà Thế pháp được tồn tại, nói cách khác, sự thanh bình của thế
gian, luôn sở y trên khối thống nhất vi diệu ấy. Thế là chúng ta có một
cuộc xuất dương của một trong những hành giả mộ Phật vào những ngày giữa
đầu thế kỷ thứ 20. ST cho biết rằng, sư ông là một trong những vị đầu
tiên mang Xá lợi của Phật về Việt Nam và được nghiêm thờ đến giờ tại
chùa Thiên Thai, Bà Rịa, Vũng Tàu.
Lên đường
Nhật ký sư ông (gọi tắt là
NK), cho ta biết là, công việc xuất dương của sư được hoàn tất hơn 15
ngày với bao thủ tục phiền hà của một đất nước bị trị - chế độ mật thám
và “lý lịch chánh trị” - đúng vào ngày 17-4-1935, sư lên tàu trực hướng
Ấn Độ, khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, sau khi lễ Phật và tạm biệt thân
bằng đạo hữu. Sư cho biết là, mình xin Phật để lại pháp phục "theo tục
lệ nước nhà mà đi. Qua đến Tây Thiên sẽ tùy cơ ứng biến. Đó là đề phòng
ngoại đạo, e biết pháp phục mà sinh khó”. Và, "mới một lần thứ nhất có
cái hạnh phúc này, vì sao lại không vui, mà lại có sắc buồn bã là cớ
sao?” (NK. tr.4).
Tàu nhổ neo, bỏ Sài Gòn lại, chỉ còn sóng nước chập
chùng, trùng dương viễn mộng. Bấy giờ là những ngày trăng tỏ, tháng ba
Âm lịch, biển cả tịnh êm và như thế ta được hai khổ thơ tuyệt diệu như
sau:
Cửa sổ ngựa qua, đời mấy lát,
Lỗ-bô tàu chạy cảnh
thay liền.
Hỏi thăm giả thiệt, cùng Hoàn vũ,
Giấc mộng trả lời,
dứt đảo điên.
Và,
Gió êm, biển lặng bóng trăng lồng,
Đáy
nước, bầu trời, một Hóa công,
Đuốc nguyệt, đèn soi trên dưới tỏ,
Thiên,
Long hội yến tiễn bần tăng.
Thế đó, 8 ngày đã đi qua, 8 ngày
trên đại dương mênh mông ảo hóa, bậc hành giả của chúng ta đã cảm nghiệm
được "chân như" trong huyễn tượng, "thường tại" trong "cửa sổ ngựa qua,
đời mấy lát", và rồi, tàu cũng thả neo khi đến tận bờ bên kia, nơi mà
đức Phật hiện thân, đứa con của Bát nhã - Ấn Độ, Tây Thiên Trúc.
Thế
đó, du khách của chúng ta, trong 8 ngày, tự mình tham học tiếng Anh,
tiếng người Nam Ấn, tức là tiếng Tamil, tham quan cảnh trí Singapore và
nơi đây, ta lại một lần nữa, được lắng mình trong vài khổ thơ trầm mặc:
Không
kim, không cổ, vẫn quen nhau,
Cảnh huyễn, mài bôi, ngũ thể màu,
Mắt
huệ toàn xem, nào có lạ,
Nơi mô cũng gặp, ngảnh là sao?
Là sao bỉ
thử, buổi hôm nay?
Ngũ dục tranh mồi, quên lửng ai;
Nhượng hết
cho đời, tay rũ sạch,
Xin đừng chia rẽ, nói là hai.
Rạng sáng ngày 25-4, tàu vào cảng Madras và hành giả lưu
lại đây ba ngày, có khi thì cải trang thành đạo sĩ Bà La Môn, có khi
thì cải dạng là đạo sĩ Hindu, nhờ vậy mà Ngài “xông pha” với họ một cách
dễ dàng, “người bốn thổ [hay bốn châu thiên hạ], không lạ mắt như cái
áo tràng”. (NK, tr.23). Bởi vì, ở đây, tuy người ta không sùng Phật,
nhưng vẫn nể trọng kẻ xuất gia.
8 giờ sáng, tàu hỏa rú còi rời Madras
hướng đến Xá Vệ Quốc (Calcutta) và rạng sáng ngày 30-4 thì tàu đã đến
nơi đây. Sau đó, khoảng 3 giờ chiều, hành giả làm thủ tục đi về Bénarés
(Ba La Nại) bằng vốn liếng tiếng Bắc Ấn có được suốt ba ngày trên tàu
hỏa, vì đôi chút tiếng Tamil đã học không sử dụng được nơi đây.
Thủ bút của HT Thích Nhẫn Tế
Nhập thành Ba La Nại
Hướng về thành
Ba La Nại, nơi mà giáo pháp đầu tiên vận chuyển và cũng là nơi mà năm
anh em ông Kiều Trần Như đắc thánh quả. Nhật ký ghi rằng “mang gói
ra đi, phú mặc cơ duyên, bần tăng chỉ vững lòng niệm Phật đi tới”.
Chất văn bắt đầu từ tr.29 - tr.36 toát lên sự an ổn lạ kỳ, tuy đã vào
nơi thánh địa, tuy gặp toàn ngoại đạo, nhưng lòng lữ khách vẫn không
phân biệt, luôn kính ngưỡng, vẫn hướng lên phía trước cho đến khi nào
chạm mặt Phật tích thì thôi. Suốt đêm thao thức nơi thành Ba La Nại,
hành giả bỗng nhiên uất nghẹn, bao nhiêu tập khí muộn phiền ngàn xưa,
bỗng đâu trút sạch và nghe trong hư không như có tiếng hộ trì. Vậy đó,
hành giả đã lưu lại tại chùa ngoại đạo ngót cả hai tuần với tâm niệm
“phép làm người tu hành trong đạo Phật, sở dĩ là tùy thuận, nhẫn nhục,
là cái bài học cần yếu của nhà Thích tử”. Và ngày 31-4, bước chân hành
giả đã nhập thành, tính ra trọn nửa tháng ròng mới thỏa ước mơ. "Có
lẽ chí nguyện đạt thành từ đây”. (NK tr.34). Mãi đến ngày 14-5 "nghe
nói có chùa Phật cách xa thành Xá Vệ tám ngàn cây số, xin cho người dẫn
đi viếng chùa Phật”; và rồi "thẳng vào chánh điện thấy tượng Như Lai,
phút chốc động lòng, sa nước mắt, vì từ 17 tháng Tư tới nay không đặng
lễ bái thánh tượng”. Thì ra đây là chùa của hội Mahâ-Bodhi (Đại Bồ
Đề) của Tích Lan, hội chúng đó đến đây để chấn hưng Phật giáo.
Sáng hôm sau đó, hành giả chúng ta từ giã nhà thờ đạo
Hindu, "quảy gói đi bộ tầm Tăng-già mà vào, phút gặp hai vị Sa-di
Xiêm đạo hiệu là Mêta và Karnna,” (NK, tr.53) sau khi ra mắt nhau,
nhờ huynh Mêta biết đôi chút tiếng Pháp, nên chuyện vãn, hành giả mới
biết chỗ mình vừa đến chính là Lộc-giả-viên (Sarnath) và như thế là, sư
ông xin gia nhập hội. Ở đây, hành giả an lòng học tiếng Anh và tiếng
Hindi vừa đủ giao tiếp phổ thông với những đạo huynh cùng hội. Và cho
đến tháng 11-1935, sư ông mới chính thức xin đến cội bồ đề, nơi Đức
Thích Ca tọa thiền để lễ bái cúng dường.
Giai đoạn từ tháng 5 đến
tháng 11-1935, NK không cho ta biết sư đã làm gì, nhưng ta cũng đoán ra
rằng, đây là khoảng thời gian mà sư ông, bậc hành giả của chúng ta, buộc
phải học bản ngữ Ấn Độ và nhất là tiếng Anh, sự kiện này, chính những
lá thơ sau đó mà sư đã viết cho tòa Lãnh sự Anh v.v... và thời gian còn
lại, là những thời gian, ta biết chắc rằng, sư ông dành hết cho tọa
thiền và quán tưởng các chủng tự Phật, như các tiểu đoạn của tr.51-53 đã
ghi, khi sư quán chữ (अ) hay là quán "mặt nhật ở mi gian của Phật tổ”,
"chập lâu có đến 10 phút, tôi mới lấy mắt nhìn dòm người nơi mé
sông, thì sắc diện ai cũng đặng màu kim sắc. Tôi toại nguyện bình đẳng
quán”. (NK, tr.52).
Kỷ vật của HT Nhẫn Tế từ Tây Tạng
Đoạn nhật ký này dạy ta biết rằng, “Đại và Tiểu thừa”
không có một ranh giới nào cả trong lòng của sư. Bởi vì, khi vào vườn
Lộc Giả, chính sư đã xin gia nhập hội của chư sư người Tích Lan, tức là
các vị Phật giáo Nguyên Thủy. Vấn đề ở đây, là “đứa con chung của một
đấng cha lành - Đức Phật” và, người cha nào lại không muốn con mình
“thành Phật” bao giờ. Sự kiện này cho ta biết rằng, với lòng thiết tha
cầu Phật, với nơi nào có tháp tích, điện thờ Phật Đà, thì nơi đó luôn là
Phật địa, luôn là bình đẳng địa, như phép quán mà sư ông từng thực
hiện, cho những ai cầu pháp, và ta đã có một sư ông như vậy.
Một sự
kiện thật là quan trọng diễn ra trong khoảng thời gian đầu tháng Giêng
năm 1936 (15 / janvier / 1936), là sư đã được tháp tùng cùng các vị Lama
đi Népal để lễ Thánh tháp. Phái đoàn hành hương gồm có: sư (người Việt
Nam), tì-kheo Phạm Ngộ người Hoa và, Losang Lama, Losang Kompo, Kolchch
Tâmpa (ba vị sư Tây Tạng). Sau khi vuợt qua hàng ngàn cây số, đoàn hành
hương cũng đã đến Tuyết Sơn, tức thắng địa Népal, lúc đó khoảng 4 giờ
sáng, ngày 2-2-1936, tức ngày mùng 10-1-Bính Tý.
Ta nói sự kiện này quan trọng, là vì, chuyến đi ấy, sẽ
mở ra một nhân duyên cho việc tấn nhập Tây Tạng của sư mà mục đích duy
nhất là: nếm tận nguồn pháp vị như vậy của cả hai pháp tu mà hành giả
của chúng ta vốn đã thực hành, như ta biết, đó là: sư thực hành cả hai
pháp tu, Thiền Mật như trong những trang nhật ký đã cho biết. Sự kiện
này cũng nói lên rằng, lịch sử cụ thể của Thiền và Mật, trên dòng chảy
của Phật giáo Việt Nam, nói chung, sư là vị được trực tiếp truyền trao,
bởi vì, đúng như ST cho biết: “Ông nghiên cứu Phật giáo từ năm 16 tuổi,
sau đó xuất gia với hòa thượng Ấn Thành-Từ Thiện, chùa Thiên Tôn với
pháp danh Chơn Phổ-Nhẫn Tế, thuộc về dòng Lâm Tế đời thứ 40” và cũng
đúng như bài viết của TS. Trần Hồng Liên, “Chùa Tây Tạng - dấu ấn Phật
giáo Mật tông Tây Tạng” đăng trong tập san Khoa học Lịch sử Bình Dương,
số 1, tháng 12-2005, và bài viết này được phát triển thành một tiểu
luận, với tiêu đề: "Chùa Tây Tạng, Bình Dương: ngôi chùa duy nhất ở Nam
bộ mang dấu ấn Mật tông Tây Tạng” đăng trong tập san Chùa cổ Bình Dương
và đây là những gì mà ta đang đeo đuổi.
Tuy nhiên, tại nhiều nơi trong NK, cho phép ta tuyên bố
rằng, sư còn là một hành nhân Niệm Phật nữa. Chúng ta nên nhớ, giáo pháp
dù là giáo pháp gì được Phật thuyết ra, chính là Sắc, bởi vì nó là
phương tiện và cũng bởi vì, nó được thuyết ra cho ba cõi. Và, chính Đức
Phật đã nhập Niết bàn trên sắc pháp này, tức là cảnh giới của Thiền thứ
tư vậy. Do đó, trên cơ sở như thế, Đại thừa kiến lập học thuyết “Tam
Thân”, là vì ngoài sắc, thì chúng sinh trong ba cõi biết dựa vào đâu -
chúng ta có Bồ tát hạnh. Nghĩa rằng, cho dù “Trực chỉ nhân tâm, kiến
tính thành Phật”, thì “trực chỉ” vẫn phải luôn là Sắc trong mọi trường
hợp, còn “kiến tính” thì hãy để cho hành nhân tự nghiệm bằng chính Phật
tâm của mình. Theo chỗ tôi biết, chùa Tây Tạng, mỗi tháng vẫn hai ngày
tổ chức lễ sám, mỗi chiều về viếng chùa, Phật tử luôn nghe chư sư tụng
niệm Di Đà, Phổ Môn. Bởi vì, chúng ta, đôi khi đọc NK sư ông bằng cái
tâm lạm phát (inflationary-mind) của mình nhiều hơn, cái mà thuật ngữ
Phật giáo gọi là “ngã mạn - adhimàna”, cho nên ta làm sao mà hiểu được
hành tích của sư ông, thế thì, có cái gọi là “tông môn”, “giáo phái” mới
có cơ hội xuất sinh theo lẽ thường tình. Nói theo Duy thức, mọi thứ
cưỡng danh, cũng chỉ là “danh ngôn tập khí - adhivacàna” mà thôi. Cái
“phần mềm” của bất cứ giáo pháp nào, thì phải do ta tự nghiệm.
Trở lại, 4 giờ sáng ngày 3-2-1936, đoàn đã đến chân núi
Hy Mã Lạp Sơn, thuộc nước Népal, họ đã viếng thăm tháp "Sư tử, tẩy uế và
lễ Phật, nhiễu tháp”. (NK, tr.60). Sau đó, bằng mọi phương tiện, trải
qua 6 ngày gian khó, đoàn đã trực nhập Népal. Và ở đây, nơi tháp
Bouddha-Narth, sư đã thỉnh đặng một số Xá lợi Phật, hiện đang trang
nghiêm tại chùa Thiên Thai, Bà Rịa, Vũng Tàu, và một ít cũng đang được
phụng kính nơi chùa Tây Tạng. NK ghi rằng: "Đó là bình Xá-lợi của Phật
Thích-Ca, thầy mà lễ đặng món ấy cũng như chơn Phật thân... Nghe qua,
bần tăng chưng hửng. Chập lâu, bèn thưa: nghe rằng, xưa kia Xá-lợi đã
phân từ bửu bình, chia mỗi tháp một bình, mà đây sao lại nhiều bình?
Ngài [thượng tọa quản tháp] rằng: phải, nhưng duyên cớ ấy có lẽ ông cũng
hiểu, vì ông là Thích tử, lựa hỏi tôi làm chi? Bần tăng chắp tay bạch
rằng: ở An Nam qua tới xứ này là thiên sơn vạn hải, thì có đâu đặng rõ
biết duyên cớ ấy, xin Ngài hoan hỷ. Đoạn Ngài dẫn tích: xưa thì Xá-lợi
Phật tổ ở tại tháp Niết-Bàn (Cu-thi-na-quốc), lúc binh Ăng-lê náo loạn,
thì tổ sư bèn dời qua nước Niếp-ba-lê, thờ tại Sư-tử tháp này. Từ khi
ngoại đạo thạnh hành, Phật đạo đã qua [bước sang] thời kỳ mạt pháp. Ông
qua tới Thiên Trúc, ông có thấy những tháp tự tiêu tan hư sập chăng?...
Bần tăng về cả ngày buồn bã, bữa ngọ biếng ăn. Cái tham tâm đã dậy động
và nghĩ rằng, "Mình đi, mình thấy, mình đặng lễ bái, mà ngặt một điều
là: thương thầy bổn sư [y chỉ sư], tuổi đã cao mà công cũng cao trong
nền đạo hạnh, nhưng không đặng thấy và lễ bái. Trọn ngày đêm van vái
vọng tưởng đức Như Lai, xin thương Nam-Việt chư Thích tử và chúng sinh
xui sao cho đệ tử cầu đặng chút phần Xá-lợi đem về nước Nam (đó là cái
tham tâm nó lộ là vậy: đã lễ bái được rồi muốn thấy, thấy rồi lại muốn
cho đặng đem về xứ mà chia phước với chư Tăng và bá tánh)... vì Ngài
cũng rõ, Xá-lợi là vật báu nhà Phật đạo, sáu đời hằng giữ chỗ này, chưa
có ai đặng hồng phúc ấy... Thôi thôi, vì đạo đức của thầy, vì công đức
khổ hạnh của thầy, vì chúng sinh, dầu tôi có bị khổ sau khi dâng cho
thầy chút đỉnh Xá-lợi, thì tôi cũng cam tâm.
Ôi! nghe qua dường như bệnh hấp hối mà gặp thuốc hồi
dương, nên lễ nữa, ngài đỡ dậy và nắm tay kéo thẳng vào đại điện, lấy
chìa khóa mở cửa tháp, vào vọng bái, quỳ lại, rồi đứng dậy, nói rằng:
nhơn duyên bao nhiêu thì đặng bấy nhiêu, tôi không biết. Nói rồi, bưng
bửu bình xuống, bảo bần tăng lấy một cái khăn vải vàng của bổn đạo cúng
trên điện, để lên đầu, trải ra, ngài trút cả bình lên khăn, thì nghe có
chút ít rớt vào khăn. Dở bình lên, bần tăng bèn túm lấy khăn, rồi lễ bái
đi ra. Ngài căn dặn, cẩn thận, rồi ngài đưa ra cửa. Bần đạo kiếu
luôn... lòng mừng khấp khởi”. (NK, tr.68-69).
Qua đây, ta thấy rằng,
mục đích Tây du của sư không chỉ vì sự ham muốn của cá nhân mình, mà
chuyến hành hương ấy, còn mang theo cả tâm nguyện của mình cho toàn dân
tộc Việt, cho hạnh phúc của chư Tăng và bá tánh nữa. Một lần nữa, ta học
nơi đây, hạnh nguyện của một chúng sinh có tuệ giác. Do vậy, khi bước
vào cổng của chùa Tây Tạng, ta bắt gặp ngay hai câu kệ khắc trên hai trụ
đá của chùa:
西歸獨?妙天真寶
藏出含靈地正香
Tây quy độc diệu thiên
chơn bửu
Tạng xuất hàm linh địa chánh hương.
Tạm dịch:
Ngọc
thật của trời độc diệu từ Tây lại
Chánh hương của đất chứa linh
thiêng do Tạng sinh.
TS. Trần Hồng Liên, cho rằng, “thiên chơn bửu” nhắm vào
hai chùa Thiên Chơn và Bửu Hương (các ngôi chùa do sư kiến lập hoặc
trùng tân) và “Tây” thì cho là Tây Tạng. Tất nhiên, để chứng minh cho
bài viết của mình, ở góc độ lịch sử, nên ST đã quy như vậy, và đây cũng
là một mẫu chứng cứ phổ biến, hợp lý (tiếc rằng, trong tiểu luận tạp san
Chùa Cổ Bình Dương chữ 靈 đ viế lộ thành 零. Nguyên văn là hàm linh
[含靈],chỉ cho chúng sinh có tình thức). Tuy nhiên, 天真寶, còn có nghĩa là
ngọc Như ý (maniratna), bản chất trong sáng đặc thù và 藏出, có nghĩa là
xuất từ Như Lai Tạng hay gọi là xuất từ chủng tính Như Lai, cũng có
nghĩa là, ‘pháp giới Tạng thân, gọi là A Di Đà Phật”, chớ không phải là
bọn dị sinh hay prthak; còn “正香 - chánh hương”, có nghĩa là: Định hương,
Tuệ hương và Giới hương, ba yếu pháp làm nên đời sống xuất thế của Phật
giáo và, 地, chỉ cho Thập Địa (dasabhùmi) của Bồ tát đạo; hàm linh (含靈),
chỉ cho tính phương tiện Sắc châu biến hay phổ quát từ Phật tính; Tây
(西) và Tạng (藏) ghép lạ, chỉcho chùa Tây Tạg trong cách uyên thâm Nho
họ củ sư Tóm lạ, hai câu trên, theo thiể ý có nghĩ la "ai cũg có thểtu
thành Phậ cảvì sinh ra từTạng Như lai, nhưng pháp môn thù thắng nhất,
phải là từTây lại".
Tấ cả những điều đó sẽ có thể nên lý giải như thế nếu
xét trên quan điểm triết học của Đại thừa. Song, trí phàm làm sao dõi
được hành tướng củ bậc “vô vịc chân nhân” Thế nhưng, có một điều chắc
chắn rằng, hạnh của sư phải là hạnh “vô công dụng hạnh”mới đúng, tức là
thanh tịnh hạnh, hạnh không tư lợi, như ta bắt gặp bất cứ nơi đâu, trong
toàn NK. Nếu chúng ta viếng chùa, trước khi vào chánh điện lễ Phật, ta
sẽ gặp trước tiên là một cái tháp khiêm tốn có bốn tầng, tầng đầu có
khắca họ hình của sư tầng kế là câu "từ Lâm tế pháp nhãn gia
phong, húy như đi Pháp Minh, diệu vân yết ma vị?, viết bằng
Hán tự tầng ba là bài chú “Om manipadme Hùmॐ?ण?प?्?ेह?ं - Om trong hoa
sen là ngọ Như ý Hùm”viết bằng tiếng Tây Tạng và tầng trên cùng là lục
tự "Nam mô A Di Đà Phật” bằng Hán tự Tháp này do Hòa
thượng Tịch Chiếu, tổ thứ nhì của chùa thực hiện. Đặc trưng cấu trúc của
tháp này cho ta biết theo “tư kiến”là, sư không xiển dương, hay chủ
trương bất cứ giáo pháp nào, cho dù, sư là mộ Lama đắc pháp chánh truyền
từTây Tạng.
Trở lại, vào ngày 7-2, đoàn khởi hành về Bồ Đề Đạo
Tràng, ghé viếng đại học Nalanda, hồi tưởng đại sưHuyền Tránng khi xưa
có lần ở đâ y học đạo, lễ bái thạch tòa đạo tràng, nơi Phật dừng chân
khai hóa. Đàn trú nơi đây suốt ba tháng và thực hiện mọi công hạnh của
một Thích tử như công quả cúng dường, chiêm bái khắp các thánh tích. Và
rồi, sư xin phép Hội Đại Bồ Đề đi Tây Tạng.
Nhập Lahsa, kinh đô Tây Tạng
Đã vào
thành Lahsa rồi, mãi đến 3-7-1936, sư mới được yết kiến và hành lễ với
quan nhiếp chánh với tư cách là Quốc vương Bơdalama (tức là quan nhiếp
chính của vương quốc Tây Tạng thời bấy giờ, bởi vì đức Dalai Lama, người
kế vị chánh thức mới chừng 5 tuổi mà thôi), lúc bấy giờ Quốc vương
(quan nhiếp chính) chỉ 27 tuổi. NK ghi rằng: “ Bữa điểm tâm cải
salade chấm muối, không có giấm mà trộn salade. Đoạn 9 giờ, quan thừa
tướng cho người lại bảo, giờ này đi đảnh lễ Quốc vương Bơdalama đặng;
Bảo rằng: bần đạo phải đắp y bí-sô, chớ không nên bận đồ Tây Tạng đi yết
kiến Quốc vương. Y theo lời dạy, rồi cùng huynh đệ của Samdhen, bốn
người khuân lễ vật... Lén ngó, thấy Đại đức Bơda Lama Quốc vương (tuổi)
tác còn thơ (hỏi lại thì mới 27 tuổi, thế ngôi Tả-lê lama Quốc vương
tịch, đặng bốn năm), mặt mày sáng láng, ngồi nơi long đơn trải gấm Tây
Tạng. Nội bọn, chỉ bần đạo đắp y vàng rực từ trên sấp dưới, làm cho Quốc
vương chăm chỉ ngó ngay, các quan nội điện đều để mắt. Đoạn Samdhen
đảnh lễ, bần đạo y theo, rồi Samdhen đem Anh-lạc long tợ dưng... các
quan hầu mời bần đạo ngồi nơi đơn cao... Đến nay đi ra mắt Quốc vương
thì thừa tướng đã tâu trước, lại đi với bọn tôi, đi con đường đến ngự
điện, ai ai thấy cũng biết, nào ai dám nói. Lại thêm lúc về tuy nội bọn
đi không có Lama quan dẫn đường, nhưng nhân dân quan lại xem thấy cái
niệt điều trên cổ [tức là khúc vải vàng quấn cổ vua ban] cũng đủ biết ở
trong ngự điện, hoàng thiền mà ra. Bần đạo nghe qua, niệm Phật và cảm
oai linh Phật lực ủng hộ làm cho bần đạo an ổn các nơi vô chướng ngại”.
Từ thời điểm này, sư chánh thức là một vị tu sĩ Tây
Tạng, cho đến khi sư đắc thiền pháp và được Pháp danh là: Thubten
Osall Lama (có nghĩa: Thubten là tên đức Tả-lê Lama Thái thượng hoàng đã
băng hà. Thubten là vòng cứng bền chắc kim cương. Còn chữ Osall là:
ánh sáng mặt trời, tên của đương kim quốc vương Lama, nên bần đạo biết
là: Huệ nhật. (NK, tr.319-320) và pháp danh này được loan báo khắp nơi.
Ngày 30-6-1937, lúc “ 7 giờ sáng sư về Sài Gòn, về tới
am 11 giờ trưa”. (NK, tr.406). Đúng ra, sư còn phải ở Tây Tạng một thời
gian nữa, nhưng, theo NK, các sư Tây Tang cho biết là đất nước mình sẽ
trải qua binh biến, nên sư không thể lưu lại được. Ta thấy, “pháp nạn”
của Tây Tạng, vốn đã được người Tây Tạng biết trước rồi. Và đây cũng là
vấn đề lịch sử, xét trên thánh trí của các Lama.
Theo NK, ta có thể
chia ra làm hai phần: từ tr.13-tr.186, là quá trình chiêm bái Phật tích ở
Tây Trúc và, từ yt.192-tr.317, là quá trình tu học tại Tây Tạng. Nghĩa
rằng, sư đã thật sự “hóa thân” làm một Lama Tây Tạng với mọi công hạnh
đặc thù của một Lama - học Tạng văn, thiền định, quán tưởng Tứ niệm xứ
theo cách riêng của Phật giáo Tây Tạng, trì chú và các phương pháp Yoga
mang tính vật lý đặc thù (của Tây Tạng)... - cho đến khi đắc pháp và thọ
pháp danh.
Với lối văn bình dị, khoa học và giàu lòng bi, NK dẫn ta
đi vào chi tiết của lịch sử Phật tích ở Ấn Độ, các tập quán cũng như
các phương thức tu hành Phật giáo cũng như của các ngoại đạo, lồng trong
đó là các quan điểm trung thực và thắm đượm tình cảm của sư. Và rồi,
bản văn dẫn ta vào đất nước Tây Tạng với các chuỗi gian truân trong quá
trình cầu và đắc pháp. Có thể nói, vào những ngày giữa của phân nửa đầu
thế kỷ XX, thì NK, không chỉ là một nhật ký, mà còn là một áng văn ký sự
thiên tài, một vần thơ lộng lẫy của một nhà thơ giàu tình cảm, thấm
đượm tính nhân bản và Phật bản. Hơn thế, NK còn thể hiện là một giáo
pháp thực sự của một bậc chân tu. Nó chuyển tải hầu hết mọi thể nghiệm
của “căn” và “cảnh”, một quá trình lịch nghiệm của một cá nhân. Xa hơn,
NK đã trở thành kim chỉ nam cho cả hai mặt: lịch sử thuở “bình minh” của
Mật giáo ở Việt Nam nói chung, và nói riêng tại Bình Dương, và lịch sử
giáo chứng nữa.
Như một điểm son, một vết chân trên dòng lịch sử còn
nhiều khuất tất, bởi vì, chỉ hai chữ “truyền thừa” vốn đã mang lại biết
bao xung đột hệ phái trong bất cứ tôn giáo nào, bất kể Phật giáo hay là
không. NK sư ông là một dấu ấn lịch sử, nó chia phần mình cho giáo pháp
và cho tất cả chúng sinh, như chính chân lý chia phần bình đẳng cho tất
cả. Phật giáo, thật vậy, như con Rồng thần, người ta chỉ có thể thấy
được phần “đuôi” của nó. Chùa Tây Tạng, cũng như, có thể còn biết bao
nhiêu ngôi chùa như thể với dáng vẻ khiêm nhẫn của mình, đã chuyển tải
nơi tự thân biết bao điều huyền nhiệm và điều này cần đến sự phê xét và
nghiên cứu của những nhà sử học. Bởi vì, nói cho cùng, cả Mật và Thiền
mà sự tồn tại của cả hai, phải luôn được sở y trên bình diện trực truyền
đúng như bản thân của chúng.
Nằm dưới rừng đại thọ đã thành lõi xám, chùa Tây Tạng ( “đã
được nhiều lần trùng tu và ngày thêm trang nghiêm theo lối kiến trúc
kết tân. Chánh điện thiết kế thờ phượng như một pháp hội khi Phật còn
tại thế. Ở giữa điện thờ Phật Thích-Ca (tượng cao thiền tọa 2m3). Chung
quanh gồm chư Phật ở các vị trí như tầng dưới thờ Địa Tạng, Di Lặc; tầng
kế thờ Phổ Hiền, Văn Thù; tầng trên là Quan Âm, Thế Chí... Đặc biệt
đích thân Hòa thượng trú trì (tức hòa thượng Tịch Chiếu, hiện còn tại
thế, tuổi đã ngoài 95) cũng góp phần tham gia vào việc chỉnh sửa trong
quá trình tạo tác một số ảnh tượng Phật như tượng Đức Bổn Sư... cho được
hoàn mỹ hơn... Sau lần đại trùng tu vào năm 1992, chùa có dáng dấp gần
giống như một ngôi chùa Tây Tạng. Chánh điện cấu trúc hình khối vuông,
chính giữa là ngôi tháp (stupa), tứ giác có chiều cao trên 15 mét. Cách
thiết kế tầng thượng ở mặt bằng nốc chùa... năm điện thờ năm vị gọi là
‘ngũ trí Như Lai’ (chiều cao mỗi vị 1m5)...
Đặc biệt hơn cả, có lẽ Minh Tịnh là nhà sư Việt Nam
đầu tiên ghi chép, lưu giữ được hình ảnh, sự kiện cuộc hành trình về đất
Phật một cách chi tiết đầy đủ từng ngày từ Viêt Nam qua Ấn Độ - Népal -
Tây Tạng và ngược lại. Cuốn nhật ký này, có thể xem như là tập “Tây
Trúc - Tây Tạng ký” ghi rõ thời gian, các địa danh và Phật sự suốt cuộc
hành trình từ khi ngài xuất hành từ Thủ Dầu Một, Bình Dương, rời bến Nhà
Rồng (Sàigòn) vào ngày 17- 4-1935 cho đến lúc trở về Việt Nam vào ngày
30- 6-1937 (kéo dài 2 năm 2 tháng 13 ngày). Cuốn nhật ký ghi bằng thủ
bút của Ngài với nét chữ nghiêng, đẹp, rõ ràng bằng chữ quốc ngữ, có xen
lẫn ghi chú thêm bằng tiếng Pháp, Anh (Tây Tạng, Phạn...). Nhật ký có
độ dày trên 300 trang khổ lớn, hiện còn lưu giữ cẩn thận tại chùa Tây
Tạng”. Và, có thể nói “Ngài là một “tiểu Huyền Tráng của Việt Nam” )
vậy. (Theo tập san Chùa Cổ Bình Dương).
Để kính tán công đức của sư đối với nước Việt nói chung
và riêng đối với Bình Dương và rất riêng đối với người viết - bậc hành
nhân sau khi đắc pháp từ Tây Tạng về, đã “mặc như lôi”
cho đến khi thị tịch, nghĩa rằng, Phật giáo chỉ có thể tìm thấy nơi một
vài vuông đất “thổ cư” khiêm tốn hơn là nơi hàng trăm mẫu đất “trồng cây
ăn trái” hay “đất nông nghiệp” - đã có chút phước duyên đọc được NK này
với “tư kiến” của mình. Cho nên, xin trích một bài chú
thuộc hệ Bát Nhã nhằm quy mệnh dưới phẩm tính ấy. Chú viết:”ओं आ ई ऋ.
ऊ लरि पंचधातुविशोधनि स्वहा (Các linh tự như: Om, ā, ī, ū, là những
linh tự phải đắc thành trong cách tịnh hóa ngũ căn.)