Niệm Phật và niệm Bụt khác nhau thế nào? Ý nghĩa không có
khác nhau, chỉ khác nhau về cách phát âm. Phật và Bụt đều là cách phát
âm của người Việt từ chữ Buddha. Cách phát âm chữ Phật có trong ngôn ngữ
Việt nam, ít nhất là trải dài hai ngàn năm và cách phát âm chữ Bụt có
trong ngôn ngữ Việt nam, nhưng người Việt ít sử dụng.
Tại sao tôi niệm Phật? Vì tôi muốn nhớ đến những lời dạy cao quý và
tốt đẹp của đức Phật, và tập nói những lời dạy cao quý và tốt đẹp ấy
vào ngay trong đời sống hằng ngày của chính tôi; vì tôi muốn tập làm
theo hạnh nguyện cao đẹp của đức Phật, ngay trong từng động tác hằng
ngày của chính tôi, để cho những hành động của tôi không đẩy tôi đi vào
con đường xấu ác và khổ đau; và vì tôi muốn nghĩ đến những gì cao
thượng và tốt đẹp mà đức Phật đã nghĩ, để cho những ý nghĩ không lành
mạnh, không dễ thương của tôi được chuyển hóa, và được thắp sáng bởi
những ý nghĩ cao quý và tốt đẹp của Phật. Vì vậy mà tôi niệm Phật mỗi
ngày.
Niệm Phật và niệm Bụt khác nhau thế nào? Ý nghĩa không có khác nhau,
chỉ khác nhau về cách phát âm. Phật và Bụt đều là cách phát âm của
người Việt từ chữ Buddha. Cách phát âm chữ Phật có trong ngôn ngữ Việt
nam, ít nhất là trải dài hai ngàn năm và cách phát âm chữ Bụt có trong
ngôn ngữ Việt nam, nhưng người Việt ít sử dụng.
Khái niệm Bụt trong thực tế đã bị “dân gian hóa” trở thành một kiểu
thần tiên cứu nạn (như được thấy rõ trong các truyện dân gian) chứ không
còn là hình ảnh vị Phật từ bi giác ngộ. Chữ Phật đọc trực tiếp tữ chữ 佛
hay佛 陀 của Trung Hoa. Người Trung Hoa, chính xác là vào đời Hán, dùng
những chữ này để phiên âm chữ Buddha và đọc theo âm riêng của họ, nhưng
người Việt chúng ta lại tự mô phỏng theo đó để hình thành hệ thống ngữ
âm riêng của mình gọi là âm Hán-Việt, đến nay vẫn tồn tại, trong khi
ngữ âm gốc của Trung Hoa thì đến các đời Đường ,Tống... đã thay đổi rất
nhiều.
Ngữ âm Phật (của người Việt)-, ngữ âm này đã trở thành định âm của
truyền thống người Việt và đã được phổ cập trong mọi thành phần xã hội
Việt Nam từ tín ngưỡng, đạo đức tâm linh đến văn hóa giáo dục và ngay cả
các văn bản pháp quy thuộc các tổ chức hành chánh xuyên suốt mọi thời
đại. Người Trung Hoa ngày xưa phát âm Buddha là Bột-đà hay Bột-tha và
ngày nay người Trung Hoa ở Bắc kinh phát âm Buddha là Fó. Vì vậy, Phật
hay Bụt đều là cách phát âm của người Việt có tính cách độc lập với ngữ
âm Trung Hoa.
Ta niệm Phật hay niệm Bụt với tâm không chuyên nhất, với tâm cầu kỳ
lập dị, tranh chấp mới cũ, đúng sai, bản ngã phình to, thì cho dù ta
niệm Phật hay niệm Bụt cũng chẳng có hiệu quả gì.
Trái lại, có những người chẳng niệm Phật, niệm Bụt gì cả, nhưng họ
sống với tâm khiêm tốn, nhiệt tình đối với hết thảy công việc bằng tâm
vô cầu, nói cười đứng đi trong giác niệm và tĩnh lặng, thế mà họ thành
tựu vô lượng công đức, và liền được sanh vào cõi Phật ngay trong hiện
tiền.
Vì vậy, nếu ta niệm Phật hay Bụt với tâm khiêm tốn, không lập dị, cầu
kỳ, không liên hệ mới cũ, không thiên chấp đúng sai, bỉ thử, thì phước
đức cho ta và lợi ích cho muôn loài biết mấy!
Tây Phương Tịnh Độ Và Phật A-di-đà
Có những vị thầy giảng nói rằng Tây phương Tịnh độ của Phật A-di-đà
(Amitābha) không có thật, như vậy có đúng không? Không đúng! Tây phương
Tịnh độ không có là không có với người không có đức tin Tịnh độ, chứ
không phải là không có đối với những người có đức tin ấy.
Không có sao được! Đối với không gian, đã có đông thì phải có tây, đã
có nam thì phải có bắc, đã có phương trên thì phải có phương dưới.
Trong không gian đã có các phương hướng như thế, thì sao lại bảo rằng
không có phương tây? Nên nhớ, các phương hướng đông, tây, nam, bắc,
trên, dưới đối với người mù, thì họ hoàn toàn không thấy gì hết. Tuy
người mù không thấy, chứ không phải các phương hướng ấy không có.
Phật A-di-đà cũng vậy, đối với người không có Tín Hạnh Nguyện, ít
thiện căn phước đức, thì Ngài không có đối với họ, chứ không phải Ngài
không có đối với những ai có thiện căn phước đức và nhân duyên đối với
Ngài.
Trong các kinh điển thuộc văn hệ Āgama và Nikāya có nói cho ta biết
về sự tu tập, chứng đạo và hành hóa của sáu đức Phật quá khứ như: Phật
Tỳ-bà-thi (Vipaśyin), Phật Thi-khí (Śikhin), Phật Tỳ-xá-phù (Viśvabhū),
Phật Câu-lưu-tôn (Krakucchanda), Phật Câu-na-hàm-mâu-ni (Kanakamuni),
Phật Ca-diếp (Kaśyapa), cũng như Phật Thích-ca Mâu-ni (Śākya-muni) đời
hiện tại và Phật Di-lặc trong đời vị lai. Như vậy, đã có một đức Phật,
hai đức Phật, ba đức Phật... thì cũng có thể có vô số đức Phật. Và đã có
nhiều đức Phật như vậy, tại sao lại không có Phật A-di-đà nhỉ!
Nên nhớ, Phật A-di-đà không phải là Phật quá khứ mà là đức Phật hiện
tại đang giáo hóa ở cõi Tịnh độ phương Tây, cũng như đức Phật Thích-ca
hiện tại đang giáo hóa cõi Ta-bà (Sahā) này. Và Bồ Tát Di-lặc cũng sẽ
giáo hóa cõi Ta-bà này ở thời vị lai. Cũng vậy, Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ
Tát Đại Thế Chí sẽ là những vị giáo hóa cõi Tịnh độ phương Tây thay
cho Phật A-di-đà trong tương lai. Và cũng nên biết rằng, ở phương Tây
không phải chỉ có một thế giới Tịnh độ của Phật A-di-đà mà còn có vô số
thế giới Tịnh độ của chư Phật khác nữa.
Kinh A-di-đà bản Hán dịch của Ngài La Thập và ngay cả nguyên bản
tiếng Phạn cũng nói cho ta biết được điều này. Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa
Nghiêm, Kinh Bi Hoa... cũng đều có nói cho ta biết về thế giới Tịnh độ
của Phật A-di-đà.
Phật Và Tổ
Có những vị giảng sư nói kinh A-di-đà không do đức Phật Thích-ca nói,
mà do chư Tổ về sau kết tập. Có phải vậy không? Việc chư Tổ kết tập là
đúng, còn bảo không do đức Phật Thích-ca nói là sai, vì không có căn
cứ. Nhưng không chỉ riêng một kinh A-di-đà do chư Tổ về sau kết tập, mà
tất cả kinh điển hiện nay ta được biết đều do chư Tổ về sau kết tập
cả, bao gồm cả các kinh điển được gọi là “nguyên thủy” như Āgama và
Nikāya. Những hiểu biết về mặt lịch sử hiện nay cho ta biết như thế.
Phật chỉ nói kinh, còn việc kết tập kinh điển là của chư Tổ. Và với
trí tuệ Toàn giác, với trí tuệ Chánh biến tri, với trí tuệ Minh hành
túc, với trí tuệ Thế gian giải, nên không có điều gì cần thiết cho sự tu
tập đạo giải thoát mà đức Phật Thích-ca không giảng dạy cho đệ tử của
Ngài một cách tường tận khi còn tại thế. Ngài đã từng giảng dạy về
những hạnh nguyện mà Ngài và chư Phật đã từng tu tập trong quá khứ, từ
một đời cho đến nhiều đời, từ một kiếp cho đến nhiều kiếp, từ một thế
giới cho đến vô số thế giới và những tri kiến cũng như những sở hành
không thể nghĩ bàn của chư Phật, và các kinh điển ấy đã được chư Tổ kết
tập qua nhiều thời kỳ khác nhau, mà trong đó có cả các kinh điển mà
đức Phật Thích-ca giảng dạy về Tịnh độ của chư Phật, khiến cho ta ngày
nay có được các văn hệ kinh điển như Āgama, Nikāya, Bản sanh, Bản sự,
Nhân duyên, Vị tằng hữu, Vô vấn tự thuyết... Đọc lịch sử các tôn giáo
lớn trên thế giới ta cũng thấy như vậy, các vị giáo chủ của các tôn
giáo chỉ thuyết giảng, còn những vị kế thừa về sau mới viết lại, khai
triển và hệ thống hóa giáo lý của những vị giáo chủ. Ngay cả các sách
Nho giáo như Dịch, Lễ, Thi, Thư đều không phải do Khổng Tử viết và nói
ra, mà chỉ san định và hệ thống lại. Và ngay cả Cựu ước của Do Thái
giáo, Tân ước của Thiên chúa giáo La Mã, Koran của Hồi giáo, cũng đều
do những người kế thừa san định.
Cũng vậy, trong Phật giáo đức Phật Thích-ca chỉ giảng dạy kinh điển,
còn việc kết tập, san định kinh điển là việc làm của chư Tổ về sau vậy.
Phật và Tổ khác nhau thế nào? Quốc sư Thông Biện đã trả lời ý nghĩa
về Phật và Tổ cho Thái hậu Ỷ Lan đời Lý như sau: “Thường trú thế gian,
không sinh không diệt gọi là Phật. Hiểu rõ tâm tông của Phật, làm và
hiểu hợp nhau thì gọi là Tổ. Phật Tổ là vậy. Ấy bọn lạm xưng học giả tự
dối, nói có hơn thua vậy. Vả lại, Phật nghĩa là giác ngộ. Và sự giác
ngộ ấy xưa nay vắng lặng thường trú. Hết thảy hàm linh đều cùng một
nguyên lý ấy. Chỉ bởi bụi lòng che khuất, theo nghiệp nổi trôi mà
chuyển nên các cõi. Đức Phật vì lòng từ bi, nên thị hiện sinh ở Tây
Trúc, bởi nó là nơi được gọi là trung tâm của trời đất. Ngài mười chín
tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo. Ở đời thuyết pháp bốn mươi chín
năm, mở bày các phương tiện, dạy cho người, khiến họ ngộ nhập được đạo.
Ấy gọi là sự hưng khởi của một thời đại kinh giáo.
“Khi sắp Niết bàn, sợ người sau mê chấp sinh tệ, nên bảo Văn Thù
rằng: Suốt bốn mươi chín năm, ta chưa từng nói một chữ, sao lại bảo có
điều để nói? Rồi, Ngài cầm một cành hoa đưa lên, mọi người đều ngơ ngác.
Chỉ riêng tôn giả Ca-diếp mặt mày rạng rỡ, miệng nở nụ cười mỉm. Đức
Phật biết Ca diếp đã tỏ ngộ, liền đem Chánh pháp nhãn tạng trao cho. Ấy
là vị Tổ thứ nhất. Đó gọi là tâm tông truyền riêng ngoài giáo điển.”
(Thiền Uyển Tập Anh)
Như vậy, qua sự trả lời về ý nghĩa Phật và Tổ của Quốc sư Thông Biện
cho Thái hậu Ỷ Lan được ghi lại trong Thiền Uyển Tập Anh đời Trần đã
cho ta thấy, Phật và Tổ đồng thể với nhau về mặt giác ngộ, nhưng khác
nhau về mặt trao truyền. Nghĩa là Phật tự thân Ngài giác ngộ, Tổ cũng
giác ngộ như Phật, nhưng sự giác ngộ của Tổ lại được Phật ấn chứng và
trao truyền. Vì vậy, ý nghĩa này giúp cho ta nhận ra rằng: “Những gì
chư Tổ nói là nói từ tâm tông, yếu chỉ của Phật.”
Lại nữa, chư Tổ là Tăng. Phật Pháp Tăng ở trong ngôi Tam bảo, danh
xưng thứ tự có trước sau, nhưng đồng một bản thể giác ngộ. Do đó, từ nơi
bản thể giác ngộ mà Phật vận khởi tâm từ bi để nói kinh và cũng từ nơi
bản thể giác ngộ ấy, mà chư Tổ vận khởi tâm từ bi để kết tập kinh
điển. Ấy là ý nghĩa Phật và Tổ, mà những người đệ tử Phật cần phải
hiểu, đừng để rơi vào tình trạng như Ngài Thông biện nói: “Ấy bọn lạm
xưng học giả tự dối, nói là có hơn thua.”
Niệm Phật, khiến cho đời sống của ta tương ưng với đời sống Tịnh độ
và có khả năng thiết lập quê hương Tịnh độ cho ta và cho hết thảy chúng
sanh với bất cứ ở đâu và lúc nào.
Nên, niệm Phật là điều kiện quý báu nhất, giúp ta tiếp xúc trực tiếp
được với chư Phật mười phương và ba đời, và là điều kiện gọi mời hay
đánh thức Đức Phật trong tâm ta đản sanh hay thị hiện giữa cuộc đời, để
giúp chúng sanh thoát khỏi khổ đau và cùng nhau dựng xây Tịnh độ.
Ta niệm Phật như vậy, là mỗi ngày đi qua đời ta, là mỗi ngày đưa ta
đi về với sự giác ngộ, với quê hương đích thực rộng lớn, tự do và bình
an.
Vậy, ta muốn chuyển hóa những khổ đau trong đời sống của ta và ta
muốn có tự do, muốn có một quê hương đích thực rộng lớn và bình an cho
tất cả chúng ta, thì chúng ta hãy cùng nhau niệm Phật!
Theo: hoangphap.info