Người
dòng Bà La Môn ở nước Thiên Trúc. Vào thời đại xa xưa, tại nước A Thâu Sa của
xứ Thiên Trúc (vì nước Thiên Trúc vào thời cổ có 16 nước lớn) có một người dòng
Bà La Môn (không thấy nói tên họ), anh chàng này bẩm tánh chân thật, nhưng ngu
si vô trí lại khổ một nổi là tâm nhiễm ái thiên trọng, nên anh đối với vợ yêu
thương quá mức, với tình chồng vợ không biết chán nhàm. Trái lại vợ anh chẳng
những là người hiền lành, mà lại thông minh lanh lợi. Cô này sanh trưởng trong
một gia đình kính tin Tam Bảo, riêng cô là người chẳng những với ngôi Tam Bảo
sùng kính đến mức tối đa, lại rất am tường Phật lý, về việc tu hành thì cô
chuyên về Pháp môn Tịnh Độ, trường trai niệm Phật. Cô thuê thợ làm một chiếc
trống thuần hoàng kim. Mỗi ngày Cô quy định hai thời khóa niệm Phật khuya và
tối, vì trong lúc ban ngày phải bận việc gia đình, trong thời gian này cô niệm
Phật cũng chỉ nhiếp tâm thầm niệm mà thôi. Mỗi khi niệm Phật thì cô gõ trống
thế cho mõ, như trên đã nói, chồng của cô đã quá đần độn lại quá yêu vợ không
rời, nên lúc cô vợ đang cúng đánh trống niệm Phật, mà anh nắm lôi tay cô bảo đi
ngủ, cô ôn tồn đáp: “Không được anh ơi! Nếu anh muốn em cùng đi ngủ thì mỗi tối
đồng với em đánh trống niệm Phật cho xong mới cùng nhau đi ngủ”. Anh vì thương
vợ nên sẳn sàng ưng thuận, có những lúc đang niệm Phật anh ta thúc hối đi ngủ
thì cô ấy vẫn từ hòa nói, chưa đủ anh ơi! Niệm thiếu mang tội chết! Từ đây anh
dòng Bà La Môn này cùng vợ niệm Phật không sót một đêm, trải qua thời gian ba
năm, anh bị trọng bệnh rồi qua đời, nhưng vì tim vẫn nóng, nên không nhập liệm,
trải qua năm ngày anh sống lại, bấy giờ anh đối với vợ khóc một cách thảm thiết
dường như buồn tủi một việc gì?! Cô Phật tử vợ anh hỏi lý do, anh nói: ”Em ơi!
Giờ đây anh không có một niệm muốn gần em nữa! Duy có tâm niệm lo tu là chăm
niệm Phật để được về Tây Phương Tịnh Độ mà thôi! Vì sau khi anh chết bị ngục
tốt dẫn vào Hoạch Than địa ngục (địa ngục này hành phạt tội nhân bằng cách nấu
trong vạc dầu sôi), lúc ấy anh thấy tất cả tội nhân đương bị nấu trong vạc trồi
lên chìm xuống, dường như nấu đậu, lại có tội nhân la khóc thảm thiết, trườn
qua vành chảo mà muốn chạy ra, bị Ngục tốt dùng gậy đánh đập trúng chảo đồng
đang nấu nghe tiếng cảng cảng và nó lại bắt quăng vào chảo, lúc ấy anh vô cùng
kinh hồn khiếp vía sợ hãi, bỗng nhớ lại khi cùng em đánh trống vàng niệm Phật,
hai tay chắp lại chí thành niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì lại chí thành niệm
“Nam mô A Di Đà Phật” thì chảo dầu sôi tức khắc biến thành một ao nước mát có
hoa sen đầy trong ấy, bao nhiêu tội nhân đều ngồi trên hoa sen, và thấy họ vui
tươi không la khóc. Tất cả đều sanh về Tây phương Tịnh Độ. Ngục tốt tức khắc
tâu với Minh Vương, Ngài liền đến chỗ chảo dầu sôi đã biến thành ao sen, vui
mừng vô hạn, và tức khắc truyền lịnh phóng thích anh về dương thế, lại dạy bảo
anh sau khi về dương thế phải siêng niệm Phật, đừng gần vợ nữa. Vì thế, anh giờ
đây 100% không muốn gần em. Anh cũng muốn nói cho em được rõ, Minh Vương chẳng
những vui vẻ truyền lệnh phóng thích anh về, mà Ngài còn nói:
Trên trời dưới trời
Không ai bằng Phật
Đức từ bi Ngài
Cứu khắp quần sanh
Có những chúng sanh
Tạo nhiều tội ác
Đọa vào địa ngục
Chịu khổ cực hình
Chỉ nghe một câu
A Di Đà Phật
Dầu sôi lửa dữ
Tức khắc biến thành
Tất cả tội nhân
Đều được vãng sanh
Ao nước thanh lương ( mát mẻ)
Tây phương Cực
Lạc
Đức từ bi ấy
Hết sức cao cả
Con không thể gì
Dùng lời diễn tả
Chỉ có chí thành
Tánh mạng nương
về
Nơi đấng Lưỡng Túc
(
Phước đức trí huệ).
Truyện này tôi thành kính y trong
bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục thuật lại chữ Việt. Trong bộ sách này ghi lại
truyện vãng sanh có mấy ngàn, truyện anh chàng Bà La Môn là một truyện trong ấy
(trong truyện này ai là người được vãng sanh? Tức là các tội nhân bị nấu chảo).
Quý vị đọc truyện này có vài điểm
nên lưu tâm:
_ Hành động của cô Phật tử (vợ anh Bà La Môn).
_ Niệm Phật đã ba năm mà bị đọa địa ngục.
_ Hành động của cô Phật tử trong truyện ngắn này, chúng ta
nên tán thán, vì nếu cô ấy như những người khác, thì có nhiều thất
bại.
_ Gia đình không an vui, tại sao vậy? Vì khi cô đương niệm
Phật mà bị chồng quấy rầy như vậy, theo như những người phụ nữ khác, sẽ nổi sân
si la mắng rằng đồ khốn nạn, người ta đang trong giờ tu niệm mà nắm tay lôi kéo
hối thúc đi ngủ. Trong khi ấy anh Bà La Môn chắc 100% không nhịn, vì dù anh là
người đần độn vô trí, nhưng vẫn có tâm tự ái, hơn thế nữa là chồng thì bao giờ
cũng ở trong thế thắng, nghĩa là người có quyền hơn vợ, đương nhiên anh sẽ chửi
mắng và có thể xảy ra việc đánh đập là khác.
_ Không thể an tu. Vì như trên đã nói, thì làm sao an tâm mà tu
niệm? Thế là đại sự của mình bị hỏng!
_ Không hướng dẫn chồng vào Phật pháp. Điểm này không cần dài
dòng vì giữa hai bên đã bất hòa, đã chạm tự ái, tâm sân đã sùng sục nổi dậy, là
vì ái với sân nó đi đôi không rời nhau, niệm đầu vì anh ấy quá yêu vợ và yêu
trong trường hợp về nhục dục, mà không như ý thì đương nhiên lửa sân nổi dậy.
Sơ lược ba điểm như trên, chúng ta thấy cô Phật tử trong truyện rõ là người
khôn ngoan có trí lại gồm hiền từ.
_ Niệm Phật ba năm mà bị đọa. Sự việc này mới nghe qua, ai
ai cũng phải có tâm nghi ngờ đối với lời vàng của đức Thế Tôn. Vì trong Kinh
Ngài có dạy rõ “Niệm một câu A Di Đà Phật, sẽ tiêu diệt tội trọng trong đường
sanh tử 80 ức kiếp”. Chỉ một câu mà còn có hiệu lực dường ấy, tại sao anh Bà La
Môn kia mỗi đêm đều cùng vợ niệm Phật suốt 3 năm mà bị đọa? Nam Mô A Di Đà
Phật! Xin quý vị bình tâm, tôi sẽ trong Kinh mà lược thích sự nghi ngờ ấy.
Chúng ta nên biết tất cả pháp, thì tâm đứng đầu, tâm làm chủ, nếu dùng tâm ấy
mà tạo nghiệp thì như bóng theo hình không bao giờ sai chạy. Thế mà anh Bà La
Môn niệm Phật, bằng cách đọc Thánh hiệu Phật mà thôi, trong tâm tưởng hoàn toàn
không có niệm. Tại sao? Vì dù anh suốt ba năm niệm Phật theo vợ, nhưng trong
tâm bao giờ cũng nghĩ được vợ theo ý mình. Chuyện này tôi nói phớt qua, quý vị
thừa hiểu nhiều, hơn nữa cũng không nên nói. Có điều chúng ta 100% nên lưu ý
là, dù anh Bà La Môn ấy suốt ba năm không có một phút thành tâm niệm Phật, chỉ
miệng đọc Thánh hiệu bằng cách bắt buộc theo lời vợ đã hứa (tức là cô Phật tử
ấy bảo anh nếu muốn đi ngủ phải cùng em niệm Phật cho đủ), do sự đọc Thánh hiệu
bằng cách bắt buộc ba năm, nó huân sâu vào tạng thức, thành hạt giống niệm Phật
nằm mãi trong tâm, như hạt kim cương không bao giờ hư hoại, nên khi gặp duyên
thì hạt giống sẳn có ấy nó phát ra rất mạnh mẽ, theo Duy Thức Học của Phật dạy
gọi là chủng tử khởi hiện hành. Do vậy nên anh Bà La Môn khi bị ngục tốt dẫn
vào ngục nước dầu sôi, thấy bao tội nhân đang bị hành hình đã vô cùng khiếp sợ,
lại nghe tiếng đánh đập tội nhân cây côn trúng vào chảo kêu lản cảng thì trong
tâm thức anh tức khắc nhớ lại tiếng gõ trống vàng niệm Phật với vợ khi ở dương
thế, liền thành kính chấp hai tay lại mà niệm Nam Mô A Di Dà Phật thật lớn!
Kính thưa quý vị, với câu niệm Phật của anh Bà La Môn lúc này có công năng tiêu
tội trọng vô lượng vô biên kiếp chứ không phải chỉ trong 80 ức kiếp, vì câu
niệm Phật lúc này của anh chẳng những chí thành mà tất cả tâm lực đều dồn hết
vào đó, nên mới được kết quả vĩ đại như vậy. Ví dụ cho dễ hiểu, như nhà tối vạn
vạn năm, mà đem ngọn đèn pha soi vào, thì tất cả sự tối tăm đều tan tức khắc.
Vì lý do này, mà chảo dầu sôi đang sôi sùng sục, tức khắc biến thành ao nước
mát mẻ đầy cả hoa sen, bao nhiêu tội nhân đều ngồi trên ấy.
Ở đây chúng ta sẽ thấy rõ, cái công
đức niệm danh hiệu Từ phụ A Di Đà của anh Bà La Môn không mất cũng vì vậy mà
trong Kinh Phật dạy niệm Phật dù không chí thành cũng là nhân xa sẽ được giải
thoát trong vô lượng kiếp về sau. Nói đến đây thuật giả nhớ lại, hay dùng bánh
trái dụ trẻ con niệm Phật là chính ý ấy vậy. Còn việc tại sao do một câu niệm
Phật của anh Bà La Môn mà tất cả tội nhân được ảnh hưởng lợi ích vĩ đại như
vậy, điều ấy tôi xin dẫn một đoạn trong kinh Pháp Hoa ở Phẩm Phổ Môn quý vị sẽ
rõ: Trăm ngàn vạn ức người, vì kiếm bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô,
hổ phách, trân châu, và những thứ quý báu cùng loại, nên ra biển cả; giả sử bị
trận gió lớn trong bầu trời u ám thổi bạt thuyền tàu sa vào đảo quốc La Sát,
trong những người ấy, nếu chỉ có một người trì niệm danh hiệu Quán Âm Đại Sĩ,
thì những người kia cũng vẫn thoát được cái họa La Sát.
Tiếp theo thuật giả thành kính y
trong các Kinh. Kinh địa ngục, kinh Lâu Thán, Kinh A Hàm, Chánh Pháp Niệm Xứ,
trang Thung Lục Bộ Sách lược thuật về nguyên nhân vì sao vua Diêm Vương tức
trong truyện gọi là Minh Vương. Khi thấy tội nhân vạc dầu sôi biến thành ao
nước mát và có nhiều hoa sen tội nhân ngồi trên đó. Ngài vui mừng đến tột độ
tức khắc truyền lệnh phóng thích người Bà La Môn và cung kính thuyết kệ diễn tả
đức từ bi cứu khổ ban vui của Đức Từ Phụ Di Đà. Vì các Diêm Vương âm phủ
đối với tất cả tội nhân quý Ngài đều có từ tâm với họ nên mỗi khi Ngục tốt bắt
người dẫn đến liền truyền lệnh bảo Tàu quân đem bộ sổ ra xem, căn cứ theo lời
khai của mỗi tội nhân phù hợp với trong ấy, gặp những người nào khi còn ở trên
dương thế tu nhiều phước đức nhất là có tâm tin kính Tam Bảo ăn chay niệm Phật
thì các Ngài vui mừng vô cùng. Trái lại gặp những tội nhân tạo nhiều tội ác thì
các Ngài quở trách, nơi đây thuật giả xin dẫn nguyên văn chính cú của vua Diêm
Vương đối với tội nhân quở trách như sau:
"Các ngươi may mắn.
Đã được thân người.
Mà chẳng lo tu.
Khác nào như người.
Đã đến núi báu (núi có vàng ngọc).
Mà về tay không.
Hôm nay đến đây.
Phải chịu cực hình
Là do các ngươi.
Tạo nhiều tội ác
Tự mình tạo tội
Thì tự thọ khổ
Đâu có người nào
Đem khổ đến cho
Giờ đây các ngươi
Kêu la than khóc
Mong cầu việc gì!
Ta đâu cứu được
Ta cũng không thể
Chịu thay các ngươi!"
Như trên là
nói qua Diêm Vương rất trọng Phật Pháp và rất thương kính người tu hành, mà
nhất là ăn chay niệm Phật siêng làm các việc lành, lánh xa tất cả điều ác, việc
ấy cứ xem trong ba câu chuyện ngắn Thuật giả dẫn trong Long Thơ Tịnh Độ sau đây
thì rõ._ Phật tử Phòng Chữ Triều nhà Đường ở Trung Hoa, có một Phật tử tên Trần
Chữ. Người này thành kính Tam Bảo, tu hành rất tinh tấn. Một hôm không hề bệnh
hoạn gì bổng nhiên bị bạo tử, xuống Minh phủ yết kiến Diêm Vương. Diêm Vương
tiếp đãi rất sùng hậu. Ngài phán rằng, căn cứ trong bộ sổ ghi tội phước thì
Trẫm thấy khanh có một việc công đức rất lớn, là khuyên một người cao niên niệm
Phật. Người ấy đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, khanh nương nhờ công đức ấy
cũng chắc chắn được vãng sanh. Nên Trẫm mời khanh đến đây để được gặp nhau lần
cuối cùng, và cũng có vài lời tán thán công đức vĩ đại ấy, vì khanh đã làm cho
một người sẽ thành Phật, độ vô lượng hằng sa chúng sanh. Phòng Chữ sau khi nghe
Diêm Vương ân cần tán dương công đức mình, anh nói một cách quả quyết rằng,
kính tâu Diêm Chúa, con chân thành vạn tạ ơn Ngài đã chiếu cố gọi con đến đây,
và có những lời dạy bảo quý hóa ấy. Con vô cùng cảm kích! Nhưng tâu Diêm Chúa,
trước kia con có phát hai điều thiện nguyện: Một là trì tụng một vạn quyển Kinh
Kim Cang, hai là đi Ngũ Đài Sơn chiêm bái Đức Đại Bi Quán Âm Đại Sĩ, vì vậy nên
con chưa muốn vãng sanh Cực Lạc trong lúc này. Đức Diêm Vương phán rất quý hóa!
Nhưng khanh nên biết với hai thiện nguyện ấy hoàn toàn không bằng sớm được vãng
sanh Tây Phương Cực Lạc. Vì được về cõi nước của Đức A Di Đà, chẳng những khỏi
hẳn tất cả khổ thống trong sanh tử, mà sự tu hành đủ thắng duyên hơn ở cõi Ta
Bà đến vạn ức lần. Hơn nữa, được diện kiến Đức Giáo Chủ cõi Cực Lạc, và hai Đại
Thánh Quán Âm, Đại Thế Chí luôn hầu cạnh bên. Lúc bấy giờ khanh chẳng những
được yết kiến lễ bái Phật A Di Đà mà lại được lễ bái Quán Âm, Đại Thế Chí lại
được làm bạn với chư Thượng Thiện Nhân ở Lạc Bang. Nếu khanh ở lại cõi này đi
chiêm bái, chẳng qua chỉ là Thánh tích của Quán Âm Đại Sĩ mà thôi. Những lời
trên vừa tỏ bày và khuyến tấn đối với khanh đều là y theo Thánh giáo chứ không
phải từ nơi ý kiến riêng của Trẫm, mong khanh nên nghĩ kỹ. Diêm Vương đã cạn
lời huấn dụ như vậy mà ông cũng không vâng theo, nên Ngài cũng tùy thuận mà bảo
Ngục tốt dẫn trở về dương thế.
Đọc truyện
này chúng ta thấy rõ khuyến người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất
lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc, lại cảm động chốn u minh được
Diêm Vương kính phục. Thế nên Đức Đại Từ Bồ Tát làm kệ thuyết minh về công đức
khuyên người tu pháp môn niệm Phật như sau:
Nếu ai có thể
Khuyên được hai người
Tu hành niệm Phật
Như thế tức là
Bằng mình tự tu
Rất là tinh tấn
Nếu khuyên cho được
Mười người trở lên
Thì phước đức ấy
Vô biên vô lượng
Nếu mà khuyên được
Trăm người ngàn người
Làm được như vậy
Thật là Bồ Tát
Lại tiến lên thêm
Cho đến số vạn
Như vậy tức là
Phật A Di Đà.
_ Vua Diêm Vương khuyên bà lão tuổi
đã 70 niệm Phật, ở tại xã Châu Lâm, huyện Kim Đàn, xứ Trân Giang. Bà này chết
xuống âm phủ, nhưng chưa hết số phải trở về lại nhân gian. Trước khi bái biệt
Diêm Vương để trở về chổ cũ, Diêm Vương khuyên bà lão: " Bà đã cao niên
rồi, khi trở về dương thế lo tu phước đức sẽ được sanh đến cảnh giới an vui .
Ngài lại hỏi bà niệm Kinh được không? Bà đáp: Thưa Đại Vương! Con không biết
chữ tụng không được. Diêm Vương bảo không sao! Bà tụng kinh không được, chỉ thành
tâm niệm Phật A Di Đà cho nhiều, đến kỳ mãn số sẽ về Tây phương Cực Lạc, không
còn trở lại chốn này. Sau khi bà lão sống lại, bà thường nói với những người
quen biết rằng: Tôi từ nào vô phước không ai chỉ dạy tu hành tụng kinh niệm
Phật. Hôm nay nhân chết xuống âm phủ, vua Diêm Vương dạy tôi niệm Phật, do đó
tôi biết đạo Phật không gì hơn. Đức Diêm Vương mà còn khuyên tôi niệm Phật, thì
đâu nghi ngờ gì nữa.Từ nay tôi nguyện gác bỏ tất cả� mọi việc, đói no không quản đến, con cháu nó có thương cho
bữa đói bửa no gì cũng được. Bà từ đấy chuyên tâm niệm Phật, lại sống lâu 120
tuổi mới mãn phần. Khi bà sắp qua đời không bệnh khổ gì lắm, chỉ mệt không đi
đứng được nhiều như ngày thường, rồi niệm Phật mà thoát hóa. Cứ theo truyện này
thì thấy có hai điều đặc biệt. Một là bà lão chắc chắn được vãng sanh vì bà
niệm Phật không bê trễ, chẳng những từ ngày xuống âm phủ rồi về nhân gian, mà
lúc lâm chung chánh niệm hiện tiền. Hai là do niệm Phật mà thọ số rất cao, lại
không bệnh khổ.
_ Thấy người sát sanh niệm Phật được
phước.
Trong bộ
Quán Âm Linh Cảm Ký thuyết minh Diêm Vương khuyên người niệm Phật như sau: Ở
tại Nhiêu Châu (Trung Quốc) có người tên Trịnh Lân coi về việc trong quân đội,
chết xuống Âm phủ, nhân vì bắt lầm nên được thả về dương thế( giống với truyện
hai trên). Trước khi bái biệt Diêm Vương, Ngài có mấy lời khuyên nhắc Trịnh Lân
rằng: Anh về dương thế gắng sức làm lành, kiếp người quá ngắn ngủi như bóng
câu( ngựa) qua kẽ hở, như đèn leo lét giữa gió, như sương mai đầu ngọn cỏ..
Những việc
lành thì có vô lượng, mà trong ấy công đức niệm Phật là lớn nhất. Vậy Trẫm
khuyên anh cố gắng niệm Phật cho nhiều, khi tận số sanh được Cực Lạc không còn
trở lại chốn Diêm Đài, lại bất luận lúc nào anh thấy người sát sanh thì anh chí
thành niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát cầu nguyện cho chúng sanh bị giết
sanh về Cực Lạc, dù chúng nó không được sanh Cực Lạc, thì cũng được thác sanh
cảnh giới lành, anh được phước rất lớn. Căn cứ theo truyện này thì thấy rõ niệm
Phật có ba điều lợi lớn: Một là đem công đức ấy tiến bạt cho tiên vong, hai là
được phước, ba là được vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ.
Giờ đây xin
nói qua mấy ông chủ ngục và mấy chú A bàn đối với tội nhân thôi khỏi nói, vì
mấy ổng họ ghét tội nhân hơn ghét kẻ oan gia, cừu thù, cọp dữ, rắn độc và xem
rẻ như thú vật. Họ đã hành hạ chửi mắng đánh đập một cách tàn nhẫn, vậy mà họ
không vừa lòng. Họ muốn làm sao cho các tội nhân bị đau khổ cho thật dữ, không
một phút một giây được yên thì họ mới hả dạ. Thật không có chút từ tâm, thế nên
trong văn cảnh thế nói: "Tàu quan bảo án một nhân tình, Ngục tốt trì xoa
vô tiếu diện.." ( Tàu quan xử thét la chẳng vị, Ngục tốt hờn tay chùy tay
xoa) có người thấy vậy mới hỏi mấy ổng rằng: Tất cả tội nhân nơi đây cùng mấy
ông đồng là chúng sanh, tại sao quá nhẫn tâm tay đánh miệng chửi mà chưa đã
giận hết tức là nguyên nhân nào? Mấy ổng đáp: "Ông trách chúng tôi cũng
đúng, nhưng nếu mấy ông ấy mà ở vào trong hoàn cảnh như chúng tôi, thì mấy ông
cũng vậy. Vì tất cả tội nhân họ đến đây chịu cực hình, trong lúc họ còn trên
dương thế toàn là những người có thể tu tập pháp lành, là vì được thân người
yên ổn, dù trong ấy cũng có sai khác nhau rất nhiều, là nghèo giàu, khổ vui,
nhưng không có một phần nào như chốn hắc ám khủng khiếp này! Thế mà nó không có
một chút thiện niệm, đừng nói là làm lành. Chúng nó bất hiếu với cha mẹ ông bà
quyến thuộc, hủy báng Tam Bảo, không kính trọng Thánh Hiền, mạ nhục lục thân
quyến thuộc. Với bậc Sư Trưởng thì họ ngạo mạn khinh chê, với tất cả người thì
xảo trá quỷ quyệt gian tham lường gạt tìm đủ mưu mô hãm hại họ, miệng thì nói
lời thô ác, nói lưỡi đôi điều, làm ly gián quyến thuộc của người, nói dối trá,
nói thêu dệt. Tâm thì tham lam keo kiết chỉ muốn cho mình vàng đầy rương, bạc
đầy tủ, lúa đầy kho, thấy người đói thiếu không lòi một xu, dù họ lâm vào tình
trạng đến chết cũng mặc kệ, nhưng đây là việc thường. Còn có những kẻ tàn ác
hơn nữa, giết người cướp của, sát hại thú cầm, trên không gian thì dùng lưới
rập dùng súng ná, đất liền thì gài bẫy đào hầm, dưới nước thì chài lưới lờ dẹp
đó đăn.. cho đến phá làng phá xóm đốt nhà cửa lương dân, hãm hiếp vợ con người
làm cho mất tiết mất trinh, buông lung kết án gây thù với người. Chúng tôi chỉ
nói sơ lược như vậy, nếu nói cho đủ thì không biết bao giờ cho cùng tận, những
tội ác của những kẻ đã đến đây!Ông có biết không? Trong những giờ phút mà các
tội nhân được thoát khỏi ngục hình, trên thì Đức Diêm Chúa, dưới thì chúng tôi
vui mừng khôn xiết. Nên mỗi lần tội nhân được ra khỏi ngục, Diêm Vương Ngài
đinh ninh dạy bảo khuyên răn một cách thống thiết rằng: Quý tội nhân! Từ ngày
quý vị đến đây thọ tội, lòng Trẫm cũng buồn đau lắm, nhưng có biết làm sao! Vì
quý vị tự tạo tội thì phải chịu khổ quả, không một ai thay cho, dù người chí
thân như cha mẹ, anh em, chồng vợ.. Vậy hôm nay Trẫm xin nhắc quý vị luôn nhớ
sự kịch khổ trong đây, thật không thể gì diễn tả! Trong thời gian qua quý vị đã
nếm đủ rồi. Vậy trong giờ phút này, Trẫm mong quý vị ráng nhớ, đã ra được rồi
đừng trở lại!!! Trẫm mong quý vị đừng tạo tội ác nữa nghe chưa?!
Thế mà
những tội nhân này, với lời Diêm Chúa khuyên răn dạy bảo, chúng vẫn như nước
chảy lá môn, như đàn khảy tai trâu, không một niệm chừa bỏ. Mới ra khỏi chốn
cực hình ngày này, chốc lát vẫn lại vào. Chúng sanh trong cảnh luân hồi thọ khổ
xem như nhà ở của mình, mê muội không chút ngao ngán, không sợ đau khổ. Làm cho
chúng tôi khổ cực vì họ, bởi ngày đêm đánh đập hét la hao hơi rát cổ, thân thể
mệt mỏi, gân xương đau nhức. Việc này không phải một, hai ngày, mà phải trải
qua kiếp này đến kiếp nọ. Vì duyên cớ ấy, ông bảo chúng tôi đối với tội nhân
phải có từ tâm, sự thật không thể khởi từ tâm với chúng nó được mà trái lại
chúng tôi còn muốn cho chúng nó đau khổ, càng thêm đau khổ, đau khổ cho đến mức
tận cùng không thể chịu nổi. Vì chúng tôi có ác ý như vậy là mong tội nhân biết
khổ, đau biết hổ thẹn, biết chán ngán đừng trở lại nữa! Nhưng mà chúng tôi thấy
vô số tội nhân không một niệm chán khổ, không chịu tu thiện cầu về Niết Bàn,
không chịu niệm Phật cầu sanh Cực Lạc. Với lờ�i
Phật dạy, họ bỏ ngoài tai. Các tội nhân đã như vậy, thật như vật vô tri thì làm
sao bảo chúng tôi khởi từ niệm với họ cho được?!
Ghi chú số (1)
Mấy ông
A-bàn nói tội nhân dưới địa ngục ngày hôm nay ra khỏi, chốc lát, lại rơi vào,
là một sự thật 100% chứ không phải vì giận ghét mà nói như vậy. Xin quý vị lưu
ý Thuật giả sẽ nói rõ điều này, vì một ngày đêm dưới địa ngục lâu dài ngoài sức
nghĩ tưởng của chúng ta. Như trong kinh luận thường nói, ngày đêm ở cõi Trời (ở
đây Thuật giả dẫn các cõi Trời ở Dục giới rất lâu đối với ngày đêm ở nhân gian.
Vì ở cõi Trời Tứ Thiên Vương một ngày đêm bằng ở nhân gian 50 năm. Cho đến một
ngày đêm ở cõi Trời thứ 6 là Tha Hóa Tự Tại bằng 1.600 năm ở nhân gian. Thế là
chúng ta thấy hai nơi nhân gian và Thiên Thượng đã khác nhau quá nhiều rồi. Giờ
đây Thuật giả y theo kinh Quán Phật Tam Muội thì, một ngày đêm ở địa ngục A Tỳ
bằng ở nhân gian là 60 tiểu kiếp. Mà một tiểu kiếp ở nhân gian là 1680 vạn năm
(16.800.000 năm) mà tội nhân nơi đây (ngục A Tỳ) đời sống của họ trọn một đại
kiếp. Niên số của một đại kiếp ở nhân gian là 1.344.000.000 (một tỷ ba trăm bốn
mươi bốn triệu năm). Có điều nên lưu ý là, thọ số của tội nhân ở ngục A Tỳ một
đại kiếp tức là tính theo đại kiếp dưới địa ngục không phải ở nhân gian. Vì nếu
tính theo nhân gian thì một ngày đêm trong địa ngục A Tỳ đã 3/4 của một đại
kiếp. Vì một đại kiếp là 80 tiểu kiếp. Nói cho rõ thêm thì, một ngày đêm trong
địa ngục A Tỳ là 60 tiểu kiếp, tức là đã trãi qua 3/4 của một đại kiếp ở nhân
gian. Một đại kiếp là 80 tiểu kiếp. Về con số của đại kiếp hay tiểu kiếp ở nhân
gian hay âm phủ đồng nhau. Nghĩa là một đại kiếp thì 80 tiểu kiếp, nhưng chỉ
khác nhau ở điểm ngày dưới địa ngục A Tỳ, khác với nhân gian, như trên đã nói:
Một ngày đêm ở ngục A Tỳ là 60 tiểu kiếp ở nhân gian.
Thuật giả
nói đi nói lại là vì sợ quý vị không lưu tâm đến điểm này thành, sai chi hào
ly, thất chi thiên lý, hay tục ngữ có câu "Sai một con toán thì bán cái
nhà".Nam Mô A Di Đà Phật.
Kính thưa quý vị! Mỗi khi Thuật giả
nhớ đến việc này, trong tâm cảm thấy kinh hoàng khủng khiếp, rởn óc cả người, muốn
nhịn ăn bỏ ngủ để chuyên tâm niệm Phật cho kịp. Vì nếu lần lựa qua ngày mà lọt
vào trong khám lớn ATỳ thì vạn vạn lần nguy to. Biết như vậy mà không thực hành
được cũng là một điều đại tàm quý đáng buồn, đáng trách. Tại sao các vị Diêm
Vương đối với tội nhân có tâm đại từ như mẹ hiền đối với con thơ? Các Ngài thốt
ra những lời khuyên dạy tội nhân bằng một màu sắc từ bi đáng ái kính như vậy.
Vì mười vị Diêm Vương trong mười điện ( mười điện thế gian gọi là 10 cửa ngục)
toàn là chư Phật Bồ Tát hóa hiện không phải phàm phu. Sau đây xin nêu danh hiệu
của mười vị Diêm Vương trong mười điện, đồng thời cũng nêu rõ Thánh hiệu của
chư Phật Bồ Tát thị hiện làm mười vị Diêm Vương hóa độ tội nhân trong địa ngục,
để quý vị càng rõ đức Diêm Chúa khi thấy các tội nhân đang bị khổ não cực hình
trong chảo dầu sôi, mà nghe cảm Thánh hiệu của Đức A Di Đà Như Lai Giáo Chủ Tây
Phương Cực Lạc liền biến thành ao hoa sen, tất cả tội nhân đều an tọa trên đó.
Ngài mừng đến cực độ lập tức phóng thích anh chàng Bà La Môn và khuyên anh về
trần gian lo tu niệm, lại dùng kệ tán dương đức từ bi cao cả có một không hai
của đức Từ Phụ A Di Đà.
Quý vị A Bàn họ nói tội nhân ra khỏi
địa ngục chốc lát lại vào. Thuật giả xin tạm dùng một việc khác làm ví dụ để
quý vị dễ hiểu. Mỗi ngày lúc sáng điểm tâm, trước khi đi làm, quý vị bảo cháu
bé năm tuổi ra trước cửa ngõ mua cho má một ly cà phê và nửa ổ bánh mì đem vào
cho mau, theo Thuật giả nghĩ thời gian này có thể lâu hơn thời gian của mấy ông
A Bàn nói về sự ra vào của tội nhân ở địa ngục.
Đây là danh
hiệu của mười vị Diêm Vương trong mười điện ở Minh Đồ.
Đệ nhất điện – Tần Quảng Minh Vương
Đệ nhị điện _ Sơ Giang Minh Vương
Đệ tam điện _ Tống Đế Minh Vương
Đệ tứ điện _ Ngũ Quan Minh Vương
Đệ ngũ điện _ Diêm La Minh Vương
Đệ lục điện _ Biến Thành Minh Vương
Đệ thất điện _ Thái Sơn Phủ Quân
Minh Vương
Đệ bát điện _ Bình Đẳng Minh Vương
Đệ cửu điện _ Đô Thị Minh Vương
Đệ thập điện _ Chuyển Luân Minh
Vương
Tiếp theo
đây nêu rõ Thánh hiệu của chư Phật Bồ Tát thị hiện làm Diêm Vương để lợi ích
chúng sanh ở Minh Giới.
_ Bất Động Như Lai: Đức Như Lai này
khi ở Minh Đồ thì thị hiện làm Tần Quảng Minh Vương, chủ coi về lễ cúng dường
tuần thất thứ nhất các vong linh.
_ Thích Ca Như Lai: Ở Minh Giới thị
hiện làm Sơ Giang Minh Vương, chủ coi về lễ cúng dường tuần thất thứ hai cho
các vong linh.
_ Văn Thù Đại Sĩ: Vị đại sĩ này thị
hiện làm Tống Đế Minh Vương ở Minh Giới, để coi về lễ cúng tuần thất thứ ba các
vong linh.
_ Phổ Hiền Đại Sĩ: Vị Đại Sĩ này thị
hiện làm Ngũ Quan Minh Vương ở địa ngục, chủ coi về lễ cúng thất thứ tư cho các
vong linh.
_ Địa Tạng Đại Sĩ: Vị Đại sĩ này khi
ở trong địa ngục thị hiện làm Diêm Ma (cũng gọi là Diêm La) Minh Vương, chủ coi
về lễ cúng dường tuần thất thứ năm cho các vong linh.
_ Di Lặc Đại Sĩ: Vị Đại Sĩ này biểu
hiện thân hình vào trong địa ngục làm Biến Thành Diêm Vương, chủ coi về lễ cúng
tuần thất thứ sáu cho chư vong linh.
_ Dược Sư Như Lai: Đức Như Lai này
biểu hiện thân hình vào Minh Giới làm Thái Sơn Phủ Quân Minh Vương, chủ coi về
lễ cúng tuần thất thứ bảy cho các vong linh.
_ Quán Âm Đại Sỹ: Vị Đại sĩ này biểu
hiện thân hình vào Minh Đồ làm Bình Đẳng Minh Vương, chủ coi về tuần bách nhật
cho các vong linh.
_ Đại Thế Chí Đại Sĩ: Vị Đại Sĩ này
biểu hiện thân hình vào Minh Đồ làm Đô Thị Minh Vương, chủ coi về lễ cúng tuần
tiểu tường cho các vong linh.
_ A Di Đà Như Lai: Vị Như Lai này
biểu hiện thân hình vào chốn địa ngục làm Ngũ Đạo Chuyển Luân Minh Vương để coi
về lễ cúng đại tường cho các vong linh.
Như trên là thành kính y trong Kinh
Thập Vương nêu Thánh hiệu Chư Phật Bồ Tát biểu hiện thân hình làm mười vị Diêm
Vương để tế độ chúng sanh trong Minh đồ. Đây chỉ lược nêu danh mà không giải
thích, vì quá rộng, lại ở đây cũng không phải cần điều ấy, mà chỉ cần rõ 10 vị
Diêm Vương là chư Phật Bồ Tát thương xót chúng sanh trong chốn u đồ mà thị hiện
thân hình làm Diêm Vương để tế độ đó thôi. Có một điều quan trọng nhất là chúng
ta đã có thân này, thì không ai mà lại chẳng có cha mẹ ông bà quyến thuộc, thế
nên trong những lễ thất tuần.. phải hết lòng thương nhớ thâm ân của cha mẹ ông
bà mà lo tạo phước hồi hướng cầu nguyện. Nếu thật hành như vậy thì chẳng những
trọn hiếu đạo cá nhân mình, mà chư Phật Bồ Tát cũng rất hoan hỉ.
Đồ biểu ghi
về điểm đồng dị ngày, tháng, năm, tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp của nhân gian
và địa ngục A Tỳ.
_ Nhân gian và địa ngục A Tỳ. (1)
1 tháng = 30 ngày
1 năm = 12 tháng
1 tiểu kiếp = 16.800.000 năm
1 trung kiếp = 336.000.000 năm
1 đại kiếp = 1.344.000.000 năm
_ Ngày, tháng, năm, tiểu, trung, đại
kiếp của địa ngục A Tỳ. (2)
1 ngày = 60 tiểu kiếp của nhân gian
1 tháng = 1.800 tiểu kiếp của nhân
gian
1 năm = 21.600 tiểu kiếp của nhân
gian
1 tiểu kiếp =
1 trung kiếp = đại kiếp =
Biểu số (1)
là nói về điểm tương đồng nhân gian và địa ngục A Tỳ. Nghĩa là ở nhân gian 1
tháng là 30 ngày, 1 năm là 12 tháng cho đến một đại kiếp là 1.344.000.000 năm.
Ở địa ngục A Tỳ cũng vậy, hoàn toàn không khác nhau ( trong đây riêng nói địa
ngục A Tỳ, các địa ngục khác cũng vậy, nghĩa là 1 tháng là 30 ngày).
Biểu số (2) nói về điểm tương dị của
nhân gian và địa ngục A Tỳ nghĩa là:
1 ngày đêm ở địa ngục A Tỳ bằng 60
tiểu kiếp ở nhân gian,
1 tháng dưới địa ngục A Tỳ bằng
1.800 tiểu kiếp ở nhân gian,
1 năm ở dưới địa ngục A Tỳ bằng
21.600 tiểu kiếp ở nhân gian.
Đây là chỉ
lấy 1 ngày, 1 tháng và 1 năm dưới địa ngục A Tỳ để so sánh sự sai khác với nhân
gian. Còn tiểu, trung, đại kiếp con số quá lớn, Thuật giả kém về toán học, nên
không tính được. Vậy xin quý vị nương theo một ngày, 1 tháng và 1 năm để tính
tiểu, trung đại kiếp nhơn lên cho biết sự sai khác của hai nơi nhân gian và địa
ngục A Tỳ.
Nam
Mô A Di Đà Phật
Kính
thưa quý vị! Thuật giả nhận thấy 27 trang giấy này có nhiều khuyết điểm vậy xin
quý vị khi đọc cảm thông cho! Vì thâm ý của Thuật giả chỉ mong đem lại sự lợi
ích về việc tu hành được thoát khổ sanh tử, vãng sanh Cực Lạc là điểm chính.
Những
trang giấy này Thuật giả chẳng những không viết được một chữ, mà chỉ tự nói ra
và nhờ một Phật tử viết lại để nghe qua vậy thôi. Thế nên rất nhiều khuyết
điểm. Rất mong thông cảm hỉ xả cho!
Về Thuyết So Sánh Công Đức Niệm Phật
của Tuân Thức Đại Sư
Trong kinh
Đại Bát Niết Bàn thuyết minh rằng: Giả sử có thiện nam tín nữ nào phát nguyện
trong thời gian một tháng, thường đem y phục và các thức ăn uống cúng dường cho
tất cả chúng sanh ( tất cả chúng sanh không phải riêng chỉ cho nhân loại mà
toàn thể chúng sanh trong lục đạo đều gồm trong ấy, vả lại không phải riêng chỉ
cho chúng sanh trong một quốc độ nào, lại riêng nói một đạo trong sáu đạo là
bàng sanh tức là súc sanh, súc sanh do người nuôi mà mệnh danh như thế, bàng
sanh thì đúng hơn vì hình nó đi ngang đội trời mà đi, súc sanh chỉ số ít mà
thôi. Như trong kinh Lâu Thán, kinh Chánh Pháp Niệm Xứ thì bàng sanh chủng loại
sai khác không đồng nhau gồm có 40 ức, lại còn có các vi tế côn trùng bò bay
cựa động số ấy nhiều không thể nói được, đều thuộc trong bàng sanh, lớn nhất là
chim đại bàng, kim sí điểu và cá ma kiệt, cho đến nhỏ nhất như con kiến riện,
con mạt cũng nhiếp trong bàng sanh. Lại còn những thứ nhục nhãn không thấy như
vi trùng trong không khí, vi trùng trong nước, thiên nhãn mới thấy? Tại sao chỉ
nói đến bàng sanh đạo? Vì chúng sanh các đạo khác chư Thiên, quỷ, thần v.v..
nhục nhãn nhân loại không thấy được) công đức này rất lớn, nhưng không bằng có
thiện nam tín nữ nào, phát tâm chí thành niệm Phật trong một niệm. Chúng ta đem
công đức bố thí rất lớn nói trên mà so sánh với công đức niệm Phật trong một
niệm, thì công đức bố thí chỉ bằng một phần trong 16 phần mà thôi.
Giả sử có
thiện nam tín nữ nào dùng vàng đúc hình người rồi dùng xe ngựa vận tải đem đi
bố thí, cho đến dùng các vật quý báu khác mỗi thứ đủ số 100, cũng đem toàn bộ
đi bố thí, công đức này rất lớn, nhưng không bằng công đức của thiện nam tín nữ
nào phát tâm dở chân đi một bước đến chỗ Phật.
Giả
sử có thiện nam tín nữ đem xe voi lớn vận tải hết tất cả trân bảotrong nước Đại
Tần, và dùng chuỗi anh lạc đủ số 100 đem đi bố thí, cũng không bằng có thiện
nam tín nữ phát tâm cất chân đi một bước đến chỗ Phật.
Nếu
có thiện nam tín nữ dùng tứ sự ( tứ sự: 1- Thức ăn; 2- Y phục; 3- Đồ nằm; 4-
Thuốc thang) cúng dường cho tất cả chúng sanh trong tam Thiên đại Thiên thế
giới, công đức này rất nhiều, nhưng vẫn không bằng có thiện nam tín nữ phát tâm
cất chân đi một bước đến chỗ Phật, công đức của các tiện nam tín nữ đó vô lượng
vô biên không thể dùng toán số ví dụ mà xác định được.
( Như trên là thuộc về Kinh Văn. Sau
đây là lời phổ khuyến của Đại Sư. Tôi (lời của Đại Sư) thành kính khắp khuyên
tất cả thiện nam tín nữ Phật tử tại gia có tín tâm đối với Tam Bảo ( trong đây
Đại Sư chỉ khuyên nhắc hàng Phật tử tại gia vì hàng Phật tử xuất gia với việc
đi đến Phật đường là việc hằng ngày) mỗi ngày trong lúc sớm mai mặc y phục
chỉnh tề, giữ tâm thanh tịnh, đi đến Phật đường ( tức là chỗ thờ Phật), một
lòng thành kính chiêm ngưỡng lễ bái Phật như thấy tôn dung của Phật sống không
khác. (Liên tông Thập Tam Tổ thường dạy, khi lễ Phật phải một lòng thành kính
xem Phật Bồ Tát mình đang đảnh lễ như Phật Bồ Tát thật, đừng nghĩ là tượng
vàng, đồng, giấy v.v.. tức là tương tự với lời dạy của Tuân Thức Đại Sư) đừng
cho một ngày nào thiếu sót. Nếu vì quá bận rộn về việc công hay việc tư cũng
cần phải lưu tâm tạm vào Phật đường, đốt hương cúng dường, hai tay chấp lại chí
thành cung kính xá Phật ba xá, đoạn lui ra đi làm việc. Nếu những vị có thời
giờ rãnh rỗi, thì không hạn định trong lúc sớm mai, mà mai chiều hay tất cả
thời đều có thể đến Phật đường làm các Phật sự như lạy Phật, tụng kinh, sám hối
cho đến cúng dường hoa hương, hay lau chùi bàn Phật, tượng Phật v.v.. Quý vị
nên nhận chân thân người khó được, Phật Pháp khó gặp, cơ hội thuận tiện lại còn
khó hơn, vì sự vô thường không nhất định, giờ trước còn khỏe mạnh, giờ sau
chẳng biết thế nào.. Xin quý vị xem kỹ đoạn Kinh Văn trên nói về công đức niệm
Phật trong một niệm, và dở chân đi một bước đến Phật đường còn thù thắng đến
dường ấy, huống chi mỗi niệm mỗi niệm đều niệm Phật, mỗi bước mỗi bước đi đến
chỗ Phật, hay là nhiễu Phật niệm Phật, thì tội chướng được tiêu diệt, công đức
được tăng trưởng thật không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời luận bàn cho cùng
được.
Lời phụ:
Nguyên đề bài văn này là so sánh công đức niệm Phật của Tuân Thức Đại Sư.
Đại
phàm nói so sánh thì phải đem việc này so sánh với việc khác, như thế tại sao
chỉ nói so sánh công đức niệm Phật không thấy nói đem công đức gì để so sánh?
Sự việc này chúng ta không nên thắc mắc, cứ đọc Kinh Văn của Đại Sư đã trích
dẫn thì biết. Nghĩa là, Kinh Văn có nói rõ là đem công đức bố thí để so sánh
với công đức niệm Phật, và đem công đức bố thí để so sánh với công đức phát tâm
dở chân đi một bước đến Phật.
Trong
đây có điều nên lưu ý là, phát lòng thành kính niệm Phật trong một niệm, và
phát tâm cất một bước đi đến Phật, là để thấy rõ niệm Phật quá ít, cũng như cất
chân đi đến Phật chỉ một bước, mà công đức dường ấy. Thì mỗi niệm đều niệm
Phật, và mỗi bước đều để tâm đi đến Phật, thì công đức ấy làm sao diễn tả cho
cùng. Sự việc này trong lời khuyến tấn Đại Sư có nói rõ, ở đây Thuật giả chỉ
nhắc lại cho quý vị lưu ý mà dụng tâm niệm Phật trong mỗi niệm, và dù gần hay xa
cũng gắn đi cho tới chỗ Phật, đừng sợ nhọc tâm nhọc sức mà sanh lười nhác chỉ
niệm vài ba trăm câu rồi nghỉ, hay đi vài trăm bước sợ mỏi chân. Như thế thì
với công đức vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn kia không gặt hái được phần
nào, và trong đây nói đi đến chỗ Phật không nhất định như thờ Phật trong nhà,
đi vài chục bước thì tới, nếu từ nhà đến Chùa thì không nhất định là bao nhiêu
bước. Công đức phát tâm cất chân đi một bước đến chỗ Phật, cũng gồm nhiếp trong
công đức niệm Phật. Nên ở đề mục chỉ nói so sánh công đức niệm Phật là đủ và có
điều chúng ta nên ý thức là trong bài văn nói sự so sánh công đức niệm Phật
này, nói việc phát tâm đi đến Phật là thuộc về việc sau khi Đức Thế Tôn đã nhập
diệt. Thế nên lời khuyến tấn của Tuân thức Đại Sư có nhấn mạnh những vị bận rộn
việc công tư cũng nên lưu tâm vào Phật đường v.v..
Tiện đây
soạn giả xin y trong kinh Hiền Ngu kính dẫn một đoạn nói về việc Trưởng giả Cấp
Cô Độc phát tâm đi chiêm bái đức Bổn Sư Thích Tôn khi còn tại thế cũng tương tự
như trong kinh Niết Bàn đã nói trên. Sau đây là Kinh Văn:
Tu Đạt nghe
nói một việc (việc ấy thuộc Kinh Văn ở trên) quý hóa, vui mừng bủn rủn chân tay
một lòng tin kính, mong cho chóng sáng, để đến yết kiến Phật. Vì lòng thành
kính thiết tha có thần cảm ứng, đương nửa đêm tối trời mà ông tự thấy ánh sáng
tỏ soi khắp mặt đất như ban ngày, lòng hoan hỉ khôn xiết! Đứng dậy đi sang nước
La Duyệt Kỳ để yết kiến Đức Thế Tôn, vừa ra khỏi thành gặp ngôi miếu thờ thiên
thần, ông bước vào làm lễ, tự nhiên quên mất tâm khát vọng Phật, lại thấy tối
om, sợ mãnh thú ác quỹ, ông định trở về thành chờ đợi sáng sẽ đi.
Cũng
may ông có người bạn thân, chết được sanh lên cõi trời Tứ Thiên Vương, thấy ông
hối hận trở về, liền xuống bảo rằng: "Cư sĩ! Ông chớ e ngại nữa! Đi yết
kiến Phật được phúc đức vô biên, ví nay được một trăm cỗ xe chở châu báu, không
bằng cất chân một bước đi yết kiến đức Thế Tôn, còn được lợi gấp muôn ngàn.Cư
sĩ! Ông đi yết kiến Phật, chớ ngần ngại nữa, ví như kiếp này được một trăm con
voi chở châu báu, cũng không bằng rời chân một bước để đi yết kiến đức Thế Tôn
còn được lợi ích khôn kể.
Cư sĩ! Ông
nên đi chớ ngần ngại nữa, chính như ông có được vàng bạc châu báu, đầy cõi Diêm
Phù chăng nữa, cũng không bằng dời chân một bước đi yết kiến đức Thế Tôn, còn
được lợi trăm muôn ngàn triệu.
Cư sĩ! Ông
nên đi chớ ngần ngại nữa, ví như kiếp này ông được vàng bạc châu báu đầy bốn
thiên hạ, cũng không bằng cất chân một bước đi viếng đức Thế Tôn, còn được lợi
ích gấp trăm muôn ngàn triệu kể trên.
Muốn
Khỏi Tam Tai Phải Gấp Niệm Phật
Tam Tai
trong Tam Tạng Thánh giáo nói có hai thứ: 1- Đại tam tai, 2- Tiểu tam tai,
nhưng đại tam tai ít nói đến, mà thường nói là tiểu tam tai. Với đề mục muốn
khỏi tam tai trong bài này là chính nói về tiểu tam tai.
Tiểu tam
tai ở trong tiểu kiếp. Tiểu kiếp là một trong 20 tiểu kiếp của thời kỳ trụ.
Thời kỳ trụ là một trong bốn thời kỳ (thành, trụ, hoại, không) của một đại
kiếp. Mà 20 tiểu kiếp trong thời kỳ trụ hiện tại thuộc về tiểu kiếp thứ 9.
Trong tiểu kiếp này có bốn đức Phật xuất thế. Thánh hiệu bốn đức Phật ấy như
sau:
Một là, Câu Lưu Tôn Phật. Khi ngài
xuất thế thì tuổi thọ của nhân loại giảm đến sáu vạn tuổi. Nghĩa là từ 84.000
giảm còn sáu vạn.
Hai là, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật. Khi
ngài xuất thế thì tuổi thọ của nhân loại giảm còn bốn vạn tuổi.
Ba là, Ca Diếp Phật. Khi Ngài xuất
thế thì tuổi thọ của nhân loại giảm còn hai vạn tuổi.
Bốn là, Thích Ca Mâu Ni Phật. Khi
Ngài xuất thế thì tuổi thọ của nhân loại giảm đến 100 tuổi. Hiện nay đức Bổn Sư
Thích Ca của chúng ta nhập diệt đã 2540 năm, thì thọ mạng của nhân loại còn chỉ
75. Nhưng hiện tại cũng có những người sống đến 80 hay nhiều hơn nữa, đây chỉ
là thiểu số mà thôi. Vì theo trong kinh nói, nhân loại ở châu Diêm Phù không
nhất định về đời sống, nên có lắm người mới sanh thì chết, hoặc 2, 3, 4, 5..
cho đến 30. 40, 50 tuổi.. không nhất định, không như nhân loại ở Bắc Câu Lô
Châu thọ số nhứt định 1000 tuổi, sự việc này không phải phần chính của bài này,
xin gác qua.
Giờ đây xin
nói vào phần chánh là tiểu tam tai. Trong tiểu kiếp thứ 9 này. Như trên đã nói,
hiện tại thọ mạng của nhân loại còn 75 tuổi. Cứ 100 năm giảm 1 tuổi, giảm đến
30 tuổi thì có tai nạn đói khát phát sanh. Tai nạn này trải qua thời gian bảy
năm bảy tháng bảy ngày. Trời không mưa một hạt, thế là quả đất khô thành bột,
ngũ cốc hoàn toàn không trồng tỉa được, đến nổi không có một cọng cỏ, chúng ta
thử tưởng tượng nhân loại làm sao sống còn?! Vì lí do này trong một ngày một
đêm bị chết đói vô số không thể nói được. Bởi nhân duyên này, nhân loại bấy giờ
có những người sanh tâm cực nhàm chán với tội ác, thiện niệm phát sanh, do vậy
mà tai nạn đói khát chấm dứt. Từ đây nhân loại giảm đến lúc 20 tuổi thì có tai
tật dịch (bệnh dịch, bệnh thời khí) phát sanh, trải qua bảy tháng bảy ngày nạn
dịch tiếp tục lan tràn nhân loại bị bệnh ấy hoành hành chết gần hết, cái thảm
kịch này không sao tả xiết! Do dó có những người cực chán cho cái khổ bệnh dịch
hành hung, nên khởi niệm lành thì nạn thời khí chấm dứt. Từ đây thọ số con
người giảm đến 10 tuổi thì nạn đao binh nổi dậy, do ác tâm của nhân loại lúc
này quá mãnh liệt, nên gặp nhau như kẻ thù địch lập tức giết hại, lại do nghiệp
lực của ác nghiệp, khiến cho tất cả cỏ cây trên quả địa cầu đều thành gươm giáo
đụng đến là chết. Tai nạn đao binh này trải qua bảy ngày đêm, nhân loại chết vô
số. Bởi đó, có những người thấy vậy sanh tâm cực chán, trước kia thấy nhau như
kẻ thù địch, giờ đây ngược lại vừa thấy nhau như mẹ hiền thương con thơ, có
người ôm nhau hôn rồi tự nói chúng ta ngu si quá, ác độc quá, giết hại lẫn nhau
gần hết, giờ đây phải thương nhau như cha mẹ thương con, để mà sống còn đừng
giết hại nhau nữa, nên tai nạn đao binh đình chỉ, và ngang đây (nhân loại 10
tuổi) thì thời kỳ kiếp giảm đã hoàn toàn chấm dứt. Trở lại đến thời kỳ kiếp
tăng, cũng cứ 100 năm tăng lên một tuổi, tăng mãi cho đến tám muôn bốn ngàn
(84.000) tuổi.
Thuật giả
đã y kinh mà lược thuật về tam tai như trên chúng ta thấy rõ. Chúng sanh trên
thế giới tu tập pháp lành thì tuổi thọ tăng, lại đời sống an lành. Trái lại tạo
ác nghiệp thì tuổi thọ giảm, đời sống chịu nhiều đau khổ, đây là luật nhân quả,
mà cũng là pháp duyên sanh, nó tự nhiên như vậy. Không phải do một đấng thiêng
liêng tạo hóa nào làm ra. Mà là do nghiệp chúng sanh chiêu cảm. Chúng ta biết
rõ cái kịch khổ ấy rồi, thì phải làm sao để tránh hay thoát hẳn cái khổ ấy, chỉ
trong hiện đời? Thuật giả xin thưa, muốn chắc chắn thoát hẳn khổ ấy, có một con
đường duy nhất là thành kính tin lời Phật huyền ký. Dưới đây thể văn chỉnh cú:
Thật vì sanh tử
Phát lòng Bồ đề
Tin sâu nguyện thiết
Nhất tâm niệm Phật
Xem cái kịch khổ
Sanh tử luân hồi
Như lửa cháy đầu
Cùng với cái khổ
Của tiểu tam tai
Nó cũng gần bên
Ngày cũng niệm Phật
Đêm cũng niệm Phật
Đi đứng nằm ngồi
Không rời Phật hiệu
Thật hành như thế (1)
Cho đến thời kỳ
Vô thường nó đến
Từ Phụ Di Đà
Cùng với Thánh chúng
Đồng đến trước mặt
Tiếp về Tây Phương
Ở trong lúc này
Đối với cái khổ
Sanh tử luân hồi
Vĩnh viễn thoát ly
Chừng ấy cái tên
Của tiểu tam tai
Không còn nghe đến
Huống là thật sự
Chịu cái khổ ấy
Chúng ta đã được
Về Cực Lạc rồi
Ở tại nơi đây,
Đủ mọi thắng duyên
Không các chướng ngại
Một mặt tiến tu
Chứng vô sanh nhẫn
Nương thuyền từ nguyện
Trở lại Ta bà
Và cũng phân thân
Trần sát mười phương
Cứu vớt chúng sanh
Đồng về An Dưỡng
Cuối cùng Thuật giả
Một lòng thành kính
Hy vọng nhân loại
Khắp trên thế giới
Đây là nói chung
Toàn thể Phật tử
Trong giới xuất gia
Cũng như tại gia
Đây là nói riêng
Là người có trí
Đừng có lầm lẫn
Cho khổ là vui
Nói cho rõ hơn
Đừng cho sanh tử
Là cảnh an vui
Đến kỳ tam tai
Khổ không nói được
Dù cho gặp lúc
Nhằm thời kỳ tăng
Tuổi thọ nhân loại
Tám muôn bốn ngàn
Hưởng vui tự nhiên
Nhưng cũng vẫn còn
Trong vòng sanh tử!
Ghi chú (1)
Đây là nói
những vị rảnh rỗi, trái lại những vị bận rộn vì việc sanh nhai, cũng gắng nhín
chút thì giờ mỗi ngày hai thời, tối trước khi đi ngủ và sáng mai khi mới thức
dậy lạy Phật niệm Phật phát nguyện hồi hướng trong 30 phút nếu quá bận thì khi
mới thức dậy tu theo pháp thập niệm rất gọn cũng được vãng sanh, chỉ cần dụng
tâm chí thành thì có kết quả vãng sanh. Dù là phẩm thấp cũng thoát luân hồi,
xin cố gắng. Đừng để trôi qua đời sống con người. Một khi sa vào ác đạo khổ
không nói được chừng ấy ăn năn cũng chẳng ích gì.
Kính thưa
quý vị! Trong tam tạng Thánh giáo, đức Phật dạy về việc tu hành có 84.000 pháp
môn, nhưng tóm tắt lại chia ra làm hai loại: Một là tự lực, hai là tha lực.
_Một là về tự lực, phải trãi qua ba
cái vô số kiếp mới chứng Phật quả, vả lại ở trong ba vô số kiếp ấy, khi thăng
khi trầm chứ không phải một mặt đi thẳng tới, vì thế trong Kinh Luận có khẳng
định sự tu hành tiến được một bước, thối lùi vạn bước.
_Hai là về tha lực, ý nghĩa của môn
tha lực nầy như trong thể văn chỉnh cú đã nói, nhưng đây là việc thuyết minh về
việc hành trì.
Ngoài ra
như trong Kinh Luận tán dương về đặc điểm của tha lực thường dùng, ví dụ như
người đi thuyền gặp nước xuôi lại trương buồm theo chiều gió thuận, người què
mà được ngồi trên xe kim luân của Thánh Vương, con trùng ở trong cây tre 100
đốt mà đục ngang để ra khỏi v.v.. Tu theo pháp môn niệm Phật chóng thoát sanh
tử luân hồi cũng tương tự như vậy.
Ở đây Thuật
giả thành kính nêu lên hai pháp môn tự lực và tha lực để quý vị tự chọn lựa và
khỏi nghĩ rằng khuyên người chuyên tu theo pháp môn Tịnh độ là thuộc về thiên kiến.
HAI CÂU KINH VĂN
Phiên âm:
Quá khứ sanh tử thạch kiếp nan cùng
Vị lai luân hồi giới thành mạt tận.
Dịch nghĩa:
Sự sanh tử thời quá khứ dùng thạch
kiếp
Thí dụ cũng không cùng
Việc luân hồi thuở vị lai đem giới
thành
Thí dụ vẫn chẳng hết (Kinh Bồ Tát
Anh La�c Bổn Nghiệp).
Lược thích: Chia làm ba đoạn.
1- Chữ kiếp
2- Hai câu kinh văn
3- Tìm phương thoát khổ
1/ Chữ�
kiếp: là tiếng nói tắt từ kiếp ba của tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là phân biệt
thời tiết, chính là chỉ cho thời tiết quá lâu xa rộng lớn ( trường huyễn quảng
đại) không thể dùng năm tháng ngày giờ thông thường trong thế gian mà tính biết
cho được nên cũng gọi là đại thời.
2/ Lược thích hai câu Kinh văn: Hai
câu kinh văn đã dịch nghĩa như trên, ai đọc qua cũng hiểu không cần giải thích.
Tuy nhiên cũng nên nói sơ lược ý nghĩa, nghĩa là hai câu Kinh văn ấy chính là
từ kim khẩu của Bổn Sư Thích Tôn tuyên thuyết. Đức Phật Ngài dùng Phật nhãn
thấy rõ sự sanh tử luân hồi của tất cả chúng sanh về thời gian quá khứ thì vô
thỉ vô thỉ, về thời gian vị lai thì vô chung vô chung, tức là không có đầu mối
cũng không có kết cuộc. Nên Đức Phật Ngài quá thương xót chúng sanh, sanh tử tử
sanh ở trong cảnh luân hồi vô biên bất tận như thế, mà vẫn không hay không
biết. Vì lí do ấy nên Ngài dùng hai thí dụ: Thạch Kiếp, Giới Thành, để chúng
sanh nương theo đó mà biết tự mình chìm đắm trong sanh tử đã quá lâu xa, phải
mau tỉnh ngộ tầm đường giải thoát.
Thạch kiếp: Nói cho đủ là Bàn thạch
cùng với Giới tử thành mà thí dụ cho ý nghĩa của kiếp sanh tử luân hồi quá lâu
xa. Giờ đây trước tiên giải thích Từ Bàn thạch kiếp.
Bàn thạch: tức là chỉ cho tản đá rất
to, nghĩa là dụ như tản đá vuông vức 40 dặm, có một trượng phu nam tử trường
thọ vô biên vô số (đây là thí dụ chứ không ai thọ số lâu dài như vậy) cứ mỗi
một trăm năm đến nơi tảng đá ấy dùng chiếc thiên y rất mềm mịn phất lên tảng đá
( cũng có chỗ gọi là núi đá) lớn nói trên một cái, cứ làm mãi như vậy chừng nào
tảng đá mòn hết, nhưng kiếp sanh tử của chúng sanh cũng không cùng. Nên trong
Kinh văn nói Thạch kiếp nan cùng.
Giới tử thành kiếp: Như trên đã nói
tản đá vuông vức 40 dặm, giờ đây Giới tử thành kiếp cũng như thế. Nghĩa là có
một thành quách rộng lớn 40 dặm trong ấy hoàn toàn không chứa đựng một vật gì
ngoài hạt cải ra, dĩ nhiên là trong đại thành ấy chỉ chứa toàn là hạt cải (giới
tử). Cũng như trên, nghĩa là cứ mỗi một trăm năm có một nam tử trượng phu
trường thọ đến nơi đại thành chứa hạt cải lấy đi một hạt, chừng nào hạt cải
trong thành ấy hết, nhưng kiếp luân hồi của chúng sanh vẫn chưa hết. Nên trong
Kinh văn gọi là Giới thành mạt tận.
_ Như trên đã lược thích ý nghĩa hai
câu kinh văn thì chúng ta thấy rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh ngoài đức
Phật ra không một ai thấy được tường tận như vậy. Chúng ta cũng nên biết Phật
dùng hai thí dụ ấy để chỉ rõ sự sanh tử luân hồi trường viễn không thể gì nói
cho cùng. Nhưng đức Phật đã nhấn mạnh "thạch kiếp nan cùng"-
"giới thành mạt tận" là cốt để cho chúng ta thấy rõ sự sanh tử luân
hồi theo tỷ dụ đức Phật đã dạy lâu xa như thế cũng chưa chấm dứt. Nghĩa là
phỏng sử có Bàn thạch 40 dặm, cùng với Giới tử thành 40 dặm, lại cũng có trượng
phu nam tử trường thọ thực hành công việc như trên, chừng nào tản đá mòn và hạt
cải trong đại thành kia hết. Nhưng kiếp sanh tử luân hồi chúng sanh cũng vô
cùng bất tận ( đây là Thạch kiếp Giới tử thành thứ hai).
_ Chúng ta cũng nên hiểu thâm ý của
đức Phật dùng thí dụ để nói lên sự sanh tử luân hồi của chúng sanh trong tam
giới vô cùng bất tận như thế để làm gì? Đương nhiên là muốn cho chúng ta đối
với luân hồi sanh tử nên sanh tâm ghê sợ mong cầu thoát ly.
Trái lại dù nghe thấy lời Phật dạy
mà vẫn vui ở trong sanh tử không một niệm chán nhàm, sợ hãi thì thực có thể gọi
là người sắt đá, nếu là người huyết nhục thì ai cũng phải rùng mình rởn óc. Tại
sao thế? Vì chúng sanh luân hồi trong tam giới hưởng vui nhân thiên trong chốc
lát, thọ khổ trong tam đồ quá lâu dài. Sự việc này muốn biết rõ thì nên xem
trong các Kinh Luận như Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, Luận Câu Xá v.v..
Tuy nhiên ở
đây xin nói lược: Như trong Luận Câu Xá thuyết minh về niên số của cõi người,
cõi Trời và địa ngục như sau:
Một ngày một đêm ở cõi Trời Tứ Thiên
Vương đem so sánh với cảnh nhân gian này trải qua 50 năm (nửa thế kỷ).
Cõi Trời
Đao Lợi thứ hai một ngày một đêm, ở nhân gian trải qua một trăm năm (một thế
kỷ).
Cứ như thế
nhân lên đến cõi Trời thứ sáu là Tha Hóa Tự Tại Thiên, thì một ngày một đêm cõi
Trời này, ở cõi nhân gian đã trải qua 16 thế kỷ, mà thọ mạng nhất định của hàng
nhân thiên ở cõi Trời thứ sáu này một vạn sáu nghìn (16.000) năm . Đem thọ số
trọn đời của người cõi Trời thứ sáu nàylà một vạn sáu nghìn năm mà so sánh với
Viêm-Nhiệt địa ngục thứ sáu trong 8 đại địa ngục thì chỉ là một ngày một đêm
của tội nhân trong địa ngục ấy .
Nói sơ lược như trên để thấy rõ
chúng sanh trong cảnh luân hồi hưởng vui ở cõi nhân thiên chỉ là chốc lát, thọ
kịch khổ trong địa ngục quá lâu dài. Hơn nữa trong các cõi Trời dù được hưởng
thọ vui ngũ dục thắng dịu nhưng cũng còn cái khổ ngũ suy tướng hiện. Trong cõi
người dù nói vui ấy chẳng qua là tương đối với tam ác đạo. Thực ra vui ít khổ
nhiều, một điển hình rất rõ rệt, chúng ta vào trong các bệnh viện và các trại
lao, trại cùi sẽ thấy cái kịch khổ trong ấy dường như cảnh địa ngục ngạ quỷ,
thế có gì gọi là vui! Đây là chưa nói đến cảnh lao ngục của những tội nhân bị
hành hình..
3-Tìm phương thoát khổ: Chúng ta vì
si mê nên không thấy rõ sanh tử luân hồi trong tam giới, do đó từ vô lượng kiếp
đến nay đã trải qua sanh tử không biết bao nhiêu lần ( điều này nên xem lại hai
câu kinh văn đức Phật dạy trên) mà cứ sống say chết ngủ, khác nào những con phù
du trên mặt nước mai sanh chiều chết, mà vẫn cho là an vui tự tại. Hôm nay có
chút phước lành được làm thân người, dù không có phước duyên gặp Phật xuất thế,
nhưng còn gặp được Chánh Pháp của Phật để lại, do đó mà được biết rõ lời vàng
ngọc của Ngài đinh ninh dạy bảo.
Về sự sanh tử luân hồi quá lâu xa
như trên đã diễn tả. Vậy chúng ta phải mau thức tỉnh tìm phương thoát khổ,
nhưng muốn được thoát khỏi cái khổ luân hồi trong ba cõi cũng chẳng phải là
việc dễ dàng, vì cần phải đoạn hai thứ phiền não Kiến tư, mà Kiến hoặc là thứ
thô thiển nhậm lẹ dễ đoạn, nhưng đoạn được nó cũng rất khó khăn, khác nào ngăn
chặn dòng nước từ 40 dặm chảy xuống, kiến hoặc mà còn khó đoạn dường ấy, huống
chi Tư hoặc là một thứ vi tế lại ám độn khó đoạn gấp trăm nghìn lần. Vì thế Đức
Bổn Sư Thích Tôn xuất hiện trong thế gian này, tùy cơ thuyết pháp 49 năm, giảng
kinh hơn 300 hội. Pháp môn nhiều đến tám muôn bốn nghìn (84.000) trong ấy chỉ
có pháp môn niệm Phật (Tịnh Độ) là một pháp tối thắng độc tôn. Tại sao vậy? Vì
pháp môn này có hiệu lực làm cho tất cả chúng sanh mau thoát ly sanh tử luân
hồi và thẳng tiến đến Phật quả. Vả lại luận về căn cơ thì gồm thu nhiếp cả ba
căn: Thượng, Trung, Hạ.
Luận về phần hạ thủ công phu thì dễ
thực hành, mà thành công cao nên nếu người nào có đủ lòng tin sâu, chí nguyện
thiết, nhứt tâm niệm Phật thì chỉ trong một đời này bảo đảm 100% được thoát
khỏi cái khổ sanh tử luân hồi vô cùng bất tận như đã nói trên. Cuối cùng tôi
rất mong những người thiện căn vì lòng mong muốn thoát ly sanh tử luân hồi
trong tam giới nên phát tâm Bồ đề khởi niệm tin sâu nguyện thiết nhất tâm trì
Thánh hiệu của Đức Từ Phụ A Di Đà, cầu vãng sanh Cực Lạc, trên cầu thành Phật
quả, dưới cứu độ chúng sanh, thì nơi tự mình chẳng những không phụ được thân này,
vì có được thân người này rất khó như đất dính trong móng tay, mà cũng đền đáp
thâm ân của Bổn Sư Thích Tôn và chư Phật trong sáu phương (nói 6 phương tức gồm
đủ 10 phương) đồng đinh ninh dạy bảo khuyến hóa. Chúng ta và tất cả chúng sanh
phát nguyện vãng sanh Cực Lạc.
Toàn
bài văn này tôi nương theo ý của lời Phật, Bồ Tát, chư Tổ thuật lại không có
một lời nào thuộc về tự ý của kẻ phàm phu si ám này. Vậy mong quý vị đừng vì
người hèn mà bỏ qua diệu Pháp.