Lược giải những pháp số căn bản: Số một
Biên tập: Cư sĩ Hạnh Cơ
24/02/2010 06:04 (GMT+7)

Số 1

MỘT CON ĐƯỜNG (hay MỘT CỖ XE)

(nhất thừa - Phật thừa - nhất Phật thừa)

 

“Con đường” (hay “cỗ xe”) là chỉ cho giáo pháp (vì giáo pháp có năng lực đưa con người từ cõi vô minh đến nơi giác ngộ, cho nên lấy hình ảnh chiếc xe hay con đường làm ví dụ); “một”chỉ có một chứ không có hai, ba bốn, v.v… – tức là duy nhất.  Vậy, “một cỗ xe” là giáo pháp duy nhất đưa đến sự chứng ngộ tuệ giác viên mãn của chư Phật. 

 

Kinh Pháp Hoa (phẩm “Phương Tiện”) nói: “Chư Phật chỉ dùng một con đường (nhất thừa) để hoá độ chúng sinh, chứ không có con đường (thừa) nào khác, dù là hai hay ba…”; hoặc: “Thật ra chỉ có một con đường duy nhất (nhất Phật thừa), nhưng chư Phật tuỳ căn cơ mà dùng phương tiện, dạy có ba con đường (tam thừa).”

 

Các kinh luận thường dùng thuật ngữ này nhất thừa – để chỉ cho giáo pháp đại thừa.[1]

 

 

MỘT LÀ TẤT CẢ, TẤT CẢ LÀ MỘT

(nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất)

 

Có thể nói, đây là mệnh đề tóm tắt toàn bộ yếu nghĩa kinh Hoa Nghiêm.  Yếu nghĩa ấy nói về sự tương quan tương duyên chằng chịt của tất cả mọi sự vật trong vũ trụ: Sự vật này tức là sự vật kia, sự vật kia tức là sự vật này; một sự vật có mặt trong tất cả mọi sự vật, tất cả mọi sự vật có mặt trong một sự vật; một sự vật tức là tất cả các sự vật, tất cả các sự vật tức là một sự vật.

 

Nguyên lý duyên khởi cho ta thấy rằng, một sự vật không thể tự nó có mặt, mà đã do vô số các sự vật khác, không phải là nó, hợp lại cấu thành.  Một cuốn sách chẳng hạn, không phải tự nó hiện ra, nhưng đã do tất cả những cái “không phải là sách” (như giấy, mực, máy in, nhân công, những vật liệu làm ra giấy, làm ra mực, làm ra máy in, rồi những thứ đã nuôi sống thợ làm ra giấy, thợ làm mực, thợ in v.v…,  nhiều lắm, cùng khắp vũ trụ, không kể hết được!) hợp lại làm thành.  Bởi vậy, giữa cuốn sách và chiếc máy in không có gì ngăn cách; trong cuốn sách có mặt tất cả các thứ giấy, mực, máy in v.v…, kia.  Hành giả khi đạt được cái thấy này thì tâm ý tức khắc được giải thoát khỏi những ràng buộc, những hạn chế của ngã chấp và pháp chấp, chấm dứt khổ đau.

 

Kinh Hoa Nghiêm (phẩm “Công Đức của Người Mới Phát Tâm Bồ Đề”) nói: “Cái thấy của vị Bồ-tát phát tâm bồ đề rộng lớn thật không có giới hạn: không có gì khác nhau giữa thể giới thô lậu và thế giới vi diệu, vì thô lậu tức là vi diệu; không có gì khác nhau giữa thế giới nhỏ và thế giới lớn, vì nhỏ tức là lớn; không có gì khác nhau giữa một thế giới và vô lượng thế giới, vì một tức là vô lượng; không có gì khác nhau giữa thế giới dơ và thế giới sạch, vì dơ tức là sạch; một thể giới nằm trong vô lượng thế giới, vô lượng thế giới nằm trong một thế giới; …”

 

 

MỘT NIỆM BA NGÀN

(nhất niệm tam thiên)

 

Trong Phật học, thuật ngữ “một niệm” (nhất niệm) thường được dùng để chỉ một ý tưởng, một sát na, một khoảnh khắc, tức là cái khoảng thời gian ngắn nhất.  “Ba ngàn” ở đây tức là ba ngàn thế giới. 

 

“Một niệm ba ngàn” -- nếu nói cho đầy đủ là “trong một niệm có đầy đủ ba ngàn thế giới” – là một mệnh đề khai triển từ mệnh đề “Một là tất cả, tất cả là một” ở trên.  Đó là một trong những điểm đặc sắc của giáo lý tông Thiên-thai (Trung-hoa).  Vị tổ của tông này, đại sư Trí-Giả (tức Trí-Khải), trong bộ luận Ma Ha Chỉ Quán, đã chia ra có 10 loại thế giới trong vũ trụ:

 

  1. Địa-ngục: thế giới của đau khổ vô cùng.

  2. Ngạ-qủi: thế giới của đói khát và bẩn thỉu cùng cực.

  3. Súc-sinh: thế giới của loài vật, của ngu si tăm tối.

  4. A-tu-la: thế giới của hận thù, cuồng bạo, chém giết.

  5. Người: thế giới của loài người, hạnh phúc và đau khổ đều có mặt.

  6. Trời: thế giới của an vui, phước đức cao hơn loài người.

  7. Thanh-văn: thế giới giải thoát do kết quả của công phu tu học theo đức Phật mà được giác ngộ.

  8. Duyên-giác: thế giới giải thoát do kết quả của công phu tự mình quán chiếu thực tại mà được giác ngộ, đó là một đức Phật nhưng không giảng dạy cho kẻ khác.

  9. Bồ-tát: thế giới của những vị luôn luôn đem tình thương yêu, trí hiểu biết, lòng cởi mở và chí dũng mãnh để phục vụ và giúp ích cho mọi loài, và tinh tiến tu tập mãi cho đến ngày thành Phật.  Nói cách khác, đó là những vị Phật tương lai.

  10. Phật: thế giới của các bậc giác ngộ và giải thoát hoàn toàn.

 

Giáo lý tông Thiên-thai nói rằng, mười thế giới ấy tương dung tương thiếp lẫn nhau, mỗi thế giới đều mang trong nó cả 9 thế giới kia.  Trong thế giới người chẳng hạn, cũng có sự hiện hữu của các thế giới Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, A-tu-la, Trời, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát và Phật.  Như vậy, trong vũ trụ không phải chỉ có 10 thế giới riêng lẻ, biệt lập nhau, mà có đến (10x10) 100 thế giới tương quan tương duyên với nhau.  Sự hiện hữu của một thế giới bao hàm sợ hiện hữu của cả một trăm thế giới.

 

Lại nữa, tất cả 100 thế giới này đều có cùng chung 10 tính chất.  Đó là 10 điều kiện tồn tại của các thế giới mà giáo lý tông Thiên-thai gọi là 10 “như”[2], gồm có: 1) tướng (hình dáng bên ngoài); 2) tánh (cá tính bên trong); 3) thể (yếu tố hình thành); 4) lực (năng lực nội tại); 5) tác (tác dụng do năng lực mà có);  6) nhân (nguyên nhân đưa đến kết quả); 7) duyên (điều kiện giúp cho nhân kết thành quả); 8) báo (quả báo nối tiếp do nhân, duyên và quả ở trên đem lại); 10) bổn mạt cứu cánh (từ điều kiện 1 cho đến điều kiện 9, hoàn toàn đều là “như” -- tức là tất cả đều là không, vì chính không là bản thể của vạn hữu)2.  Mỗi thế giới đều có 10 “như”; vậy 100 thế giới có (100x10) 1.000 “như” – cũng tức là 1.000 thế giới tương quan tương duyên với nhau.

 

Cả 3.000 thế giới ấy không ra ngoài một niệm, cho nên gọi là “một niệm ba ngàn”; cũng như kinh Hoa Nghiêm nói, một niệm không những bao quát cả quá khứ, hiện tại, vị lai, mà còn bao gồm cả không gian và vật thể.  Hay nói cách khác, bất cứ một niệm nào của tâm cũng bao gồm cả vũ trụ vạn hữu.

 

 

MỘT TÂM BA PHÉP QUÁN

(nhất tâm tam quán)

 

Đây cũng là một yếu nghĩa của giáo lý tông Thiên-thai.  Đại sư Trí-Giả đã phối hợp giáo lý “ba phép quán” (tam quán) trong kinh Anh Lạc với tư tưởng “không có ngăn cách  giữa không và có” (không hữu vô ngại) của Bồ-Tát Long-Thọ mà lập nên giáo nghĩa “một tâm ba phép quán”, là một trong những giáo lý nền tảng của tông Thiên-thai.  Ba phép quán là:

1.      Không: quán niệm rằng tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà có, cho nên chúng không có bản chất chân thật, tất cả đều là không.

2.      Giả: quán niệm rằng tất cả mọi sự vật đều biến đổi luôn luôn (vô thường), không có tính đồng nhất; tuy chúng có hiện hữu, nhưng sự hiện hữu của chúng chỉ là giả tạm, không có gì tồn tại vĩnh viễn.

3.      Trung đạo: quán niệm rằng tất cả mọi hiện tượng vừa là không mà cũng vừa là giả, đồng thời, không phải là không mà cũng không phải là giả.

 

Ba phép quán này, nếu quán niệm một cách có thứ tự -- trước hết là quán niệm về không, thứ đến là về giả, sau cùng là về trung – thì gọi là “thứ đệ tam quán”; nhưng đó không phải là chủ trương của tông Thiên-thai.  Đại sư Trí-Giả của tông Thiên-thai đã phát triển ba phép quán trên đây đến chỗ viên dung, không ngăn cách, không thứ tự trước sau, vượt tất cả khái niệm: trong một phép quán gồm đủ cả ba phép quán, cho nên gọi là “nhất tâm tam quán” – hay cũng gọi là “viên dung tam quán”, “bất thứ đệ tam quán”, “bất khả tư nghị tam quán”.

 

Ba phép quán trên đây là ba chân lý của tông Thiên-thai: chân lý của Không, chân lý của Giả, và chân lý của Trung đạo.  Ba chân lý này không cách biệt nhau mà dung nhiếp nhau, ba trong một, một trong ba.  Mỗi một trong ba đều có giá trị toàn diện.  Vậy, “một tâm ba phép quán” là phép quán niệm như sau:

 

  • Khi quán niệm về không, một cái đã là không thì tất cả cũng đều là không; cả giả trung cũng đều không (nhất không nhất thiết không).

  • Khi quán niệm về giả, một cái đã là giả thì tất cả cũng đều là giả; cả khôngtrung cũng đều giả (nhất giả nhất thiết giả).

  • Khi quán niệm về trung, một cái đã là trung thì tất cả cũng đều là trung; cả khônggiả cũng đều trung (nhất trung nhất thiết trung).

 

Cũng cần nói thêm, “trung” không có nghĩa là ở giữa hai, mà là ở trên, vượt cả hai;  cũng có thể nói nó là cả hai.  “Trung” chính là thực tướng, gồm có không tướnggiả tướng.  Cả ba chân lý: không, giảtrung luôn luôn hợp nhất, dung hoà và bao hàm lẫn nhau.  


 

CHÚ THÍCH:

[1]   Xin xem thêm các mục “Hai Con Đường” và “Ba Con Đường” ở sau.

CHÚ THÍCH:

[2].  Chữ “như” có nghĩa là thể tính bình đẳng, không phân biệt, không có hai, là thật tướng của vạn pháp.  Kinh Pháp Hoa nói: “Những gì Phật đã thành tựu đều là pháp tối thượng, hiếm có, khó hiểu.  Chỉ có chư Phật mới thấu suốt được thật tướng của tất cả các pháp, tức là tất cả các pháp đều có tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, nhân như vậy, lực như vậy, tác như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, bốn mạt cứu cánh như vậy.”

2Xin xem Trái Tim Mặt Trời (Chương Bốn) của thiền sư Nhất-Hạnh để hiểu thêm về “như” và “không”.

Các tin đã đăng: