1.- NIỆM PHẬT NÊN GIỮ Ý CĂN:
Ðã đem tâm này niệm
Phật, phàm tất cả việc tạp thiện, tạp ác đều không nên nhớ, tức hàng ngày chỉ
nên làm mọi việc với ý niệm vạn bất đắc dĩ, xong rồi thì xả, đừng để day dích,
sẽ chướng ngại tâm niệm của chúng ta. Vả lại, sở dĩ tâm niệm của chúng ta cứ
còn dây dưa mãi với những tạp thiện, tạp ác là vì ý địa chưa thuần; nếu ta niệm
Phật đến lúc tâm địa sáng tỏ, thời ý địa tự nhiên chuyên ròng nơi quán sát,
không duyên tạp sự. Phải biết, niệm Phật có thể chuyển Phàm thành Thánh, là
phương tiện giải thoát thứ nhứt của thế gian và xuất thế gian vậy.
2. NIỆM PHẬT NÊN GÌN KHẨU NGHIỆP
Ðã dùng
miệng này niệm Phật, phàm tất cả những việc SÁT, ÐẠO, DÂM, VỌNG không nên buông
lời nói càng, nói quấy. Một khi nói lỡ, nên tự nghĩ rằng: người niệm Phật không
nên nói như thế, rồi cố gắng niệm lớn ít tiếng danh hiệu Phật để trấn áp tâm
mình và gột tẩy ngay những lời bất thiện ấy.
3.- NIỆM PHẬT PHẢI CHỈNH THÂN NGHIỆP:
Ðã đem
thân này niệm Phật, thời trong mọi lúc cũng như trong mọi cử chỉ: đi, đứng,
ngồi, nằm, thân cần phải đoan chánh thì tâm mới được thanh tịnh. Người niệm
Phật nên tự nghiệm điều này, thật không bao giờ dối.
4.- NIỆM PHẬT LẦN CHUỖI
Niệm Phật
một tiếng, tay lần một hột. Chỉ nên niệm bốn chữ, đừng lộn sáu chữ, vì bốn chữ
rất dễ thành khối . Trong bốn chữ A Di Ðà Phật, hoặc lần chuổi tại chữ A, hoặc
lần tại chữ Ðà, hoạch định cho có phép tắc, không được lầm lẫn, đây là pháp
mượn chuổi để nhiếp tâm vậy.
5.- NIỆM LỚN TIẾNG
Nếu lúc
thần trí hôn trầm , hay khi vọng tưởng đua khởi, hãy nên trấn tỉnh tinh thần,
to tiếng niệm Phật, niệm cho được vài ba trăm tiếng tự nhiên đổi thành cảnh
giới an tịnh. Bởi vì nhĩ căn thính lắm, nên ngoại duyên dễ vào, tiếng làm cho
tâm động, tạp tướng nổi dậy, nên phải to tướng niệm Phật để giữ gìn nhĩ căn,
hầu mở tỏ tâm linh. Bấy giờ tâm chỉ nghe tiếng của chính mình, mỗi tiếng liên
tục, đầy đủ, tất cả những gì phải quấy, nên, hư tự nhiên phóng xả.
6.- NIỆM NHỎ
Nếu lúc
tinh thần tán thất, hoặc khi nhiều việc nhọc nhằn hay phải nhiều điều bức bách,
thì không cần phải niệm to, chỉ nên thấu liễm thần minh nhỏ tiếng niệm kỹ. Ðến
khi hơi thở điều hòa, tinh thần hứng khởi, an định tâm hồn mới nên niệm to
tiếng.
7.- NIỆM THẦM
Nếu tâm
khí không được điều hòa, hoặc người hay chỗ có ngại, niệm to, niệm nhỏ đều thấy
không tiện, thì chỉ nên động môi, dùng pháp niệm thầm (Kim Cang trì), không bắt
buộc nhiều ít, nhưng cấn nhứt: mỗi chữ, mỗi câu phải từ tự tâm lưu xuất.
8.- MẶC NIỆM
Lại hoặc
niệm to, niệm nhỏ đều không hợp, tay lần chuổi lại hiềm phiền phức, niệm thầm
vẫn thấy còn có dấu vết, thì xưa có phương tiện chí xảo là không cần động mồm,
không phát ra tiếng, chỉ bắt tâm niệm duyên chuyên một cảnh, âm thầm dùng lưỡi
gõ vào răng trước (răng cửa) hay tâm tưởng cũng được, tùy ý, chỉ phải làm sao
cho tiếng thật rõ ràng, nhưng tiếng không phải phát ra từ cửa miệng mà phải
phát ra từ tự tánh. Tánh nghe lại phải dung thông nội tâm, nội tâm lại phải in
nơi đầu lưỡi, đầu lưỡi kéo lấy niệm căn, tự tánh nghe nghe tự tánh, ba thứ dung
hội, niệm niệm viên thông, lâu sau sẽ được thành tựu pháp quán: Duy tâm thức.
9.- ÐIỀU HÒA HƠI THỞ
Hoặc lúc
khí tịnh, tâm bình , thì trước nên tưởng thân mình đang ở trong vòng hào quang
tròn, thầm quán trên đầu chót mũi, tưởng hơi thở ra vào, mỗi một hơi thở thầm
niệm một câu A Di Ðà Phật. Phương tiện điều hòa hơi thở, không hưởn không gấp,
tâm niệm và hơi thở nương nhau, theo nhau ra, vào; đi, đứng, ngồi nằm đều nên
làm như thế, đừng để gián đoạn. Thường phải tự “mật trì,” nhiếp tâm đã lâu, cả
hơi thở lẫn câu niệm, cả hai đều không còn phân biệt, tức thâm tâm này cũng
đồng với hư không. Trì đến thuần thục, tâm nhãn khai thông, tam muội thoạt
nhiên hiện tiền, chính là “Duy tâm tịnh độ” đó.
10.- TÙY PHẬN
Hoặc lúc
hôn trầm nhiều, thời nên kinh hành niệm Phật, hay khi tạp loạn nhiều thì nên
ngồi ngay thẳng, yên lặng mà niệm. Giả sử đi hay ngồi đều không hợp, thời hoặc
quỳ, hoặc đứng, cho đến tạm nằm, cũng đều cho phương tiện rộng rãi, có thể niệm
Phật được cả. Cốt yếu: bốn chữ hồng danh đừng để một niệm lãng quên, đó là yếu
thuật hàng phục tâm ma vậy.
11.- CHỖ NÀO CŨNG NIỆM PHẬT ÐƯỢC
Không
luận chỗ sạch hay chăng, hoặc chỗ vắng vẻ hay chỗ chộn rộn, chỗ vừa dạ hoặc nơi
thất ý, chỉ “Hồi quang phản chiếu” và suy nghĩ: những cảnh thế này ta đã gặp
hơn trăm ngàn muôn ức lần, từ nhiều kiếp đến giờ; chỉ có việc “niệm Phật vãng
sanh” là ta chưa có thể thực hành trọn vẹn được, nên vẫn còn bị trong vòng lẩn
quẩn luân hồi. Giờ đây ta cũng chẳng quản niệm được cùng chăng, chỉ thề giữ
chặt “tâm niệm Phật’ này, dầu chết cũng không để dứt “niệm đầu” . Tại sao? Bởi
niệm đầu mà để một phút gián đoạn , thời tất cả thiện, ác, vô ký bao nhiêu tạp
niệm lại sanh. Vì lẽ đó, nên dù lúc đi đại, tiểu tiện hay sản phụ lúc lâm bồn,
chỉ chăm chú việc niệm Phật, càng khổ càng niệm, càng đau càng niệm nhiều hơn,
như con thơ gọi mẹ, không sợ mẹ hiềm giận, nếu sợ mẹ giận mà không gọi nữa, ắt
đứa trẻ sẽ bị sa chân vào hầm phẩn nhơ nhớp, vì những sự dại dột do nó gây nên.
Như thế chỉ có chết mất đi mà không làm sao được gặp mẹ.
12. NIỆM PHẬT CÓ ÐỊNH THỜI HAY KHÔNG
Trong
pháp thứ mười một, không có định thời, nếu vậy sẽ ít người làm được. Bài này
phương tiện nói có định thời là: sớm, tối hai thời, hoạch định thường khóa, từ
nay đến suốt đời, không thêm, không bớt, ngoài ra trong suốt hai mươi bốn tiếng
đồng hồ, có thể niệm được một câu, thì nên niệm một câu, có thể niệm được nhiều
câu, thì nên niệm nhiều câu, bất luận niệm lớn hay nhỏ. Cổ nhơn có bảo: Ít nói
một câu tạp Nhiều niệm một câu Phật Ðẹp đẽ biết bao nhiêu!
13.- CÓ ÐỐI TRƯỚC TƯỢNG HAY KHÔNG TRONG KHI NIỆM PHẬT?
Lúc đối
trước tượng Phật, phải cho tượng này là thật Phật, không cần câu chấp một
phương hướng nào, chẳng luận một thân nào trong ba thân của Phật , chỉ tự nghĩ:
Ta chỉ nhứt tâm, tâm chỉ nhứt Phật, mắt nhìn tượng Phật, tâm niệm danh Phật,
thật hết sức thành kính, mà hết sức thành kính tất được linh cảm. Lúc không có
tượng Phật, nên ngồi ngay ngắn xoay mặt về phương Tây, lúc khởi tâm động niệm,
nên niệm tưởng hào quang của đức Phật A Di Ðà trụ trên đỉnh đầu ta, mỗi niệm,
mỗi câu, tự chẳng để rơi vào khoảng không, hắc nghiệp cũng có thể tiêu diệt.
14.- NIỆM
PHẬT TRONG LÚC BẬN RỘN
Nếu niệm
được một câu, thì nên niệm một câu, có thể niệm 10 câu, thì nên niệm 10 câu; chỉ
làm sao trong 100 điều bận rộn có được trong khoảnh khắc một chút rảnh rang
liền buông bỏ thân tâm sáng suốt tụng trì.
Ngài Bạch
Lạc Thiên có bài thi rằng:
Ði niệm A Di Ðà
Ngồi niệm A Di Ðà
Ví dù bận rộn như tên
A Di Ðà Phật niệm lên thường thường.
Người xưa dụng tâm như thế, thật không thể chê được!
15.- LÚC NHÀN RỖI NÊN NIỆM PHẬT
Trong đời
có nhiều kẻ quá ư khốn khổ, muốn chút rảnh cũng không sao có được, nên không
thể tu hành. Nay ta được rảnh rang, lại nghe biết được pháp niệm Phật này, cần
phải gắng gổ, tương tục thúc liễm thân tâm, chuyên trì Phật niệm; như thế mới
không uổng phí tấc bóng quang âm. Nếu để tâm niệm buông trôi, không làm được
việc gì, luống tiêu bao ngày tháng, cô phụ bốn ân, một mai vô thường thoạt đến,
sẽ lấy gì để chống cự đây?
16.- NGƯỜI SANG GIÀU PHẢI NÊN NIỆM PHẬT
Phước đức
của đời này đều từ việc tu hành kiếp trước. Những gì tôn quí vinh huê, quá nữa
là các bực cao tăng chuyển thế. Nhưng tuy có vinh huê mà không được trường cửu,
nếu lại tạo điều nghiệp chướng ắt khó thoát khỏi biển trầm luân. Vậy nên các
ngài phải tự suy nghĩ: những gì ta có thể mang theo được khi nhắm mắt? Ấy là
công đức niệm Phật. Cũng như thuyền đi nhờ nước. Thế nên, hoặc lập thất niệm
Phật, hoặc mời chư tăng hướng dẫn mình niệm Phật, in khắc kinh sách Tịnh độ,
hoặc đặt tượng Phật A Di Ðà để chiêm ngưỡng mà niệm, việc làm tuy ít, nhưng phải
dụng công cho nhiều, lại phải chí quyết vãng sanh, đó là con đường tu hành của
tất cả mọi người, chẳng luận giàu, nghèo, sang, hèn. Làm vị sứ giả của ngôi
Pháp vương còn gì tôn quý hơn!
17.- KẺ NGHÈO HÈN CŨNG NÊN NIỆM PHẬT
Than ôi!
Có kẻ đã đem thân làm nô lệ, bị người khác sai sử, vất vả, khổ sở, mà không cầu
mong thoát khỏi, thì về sau càng khổ hơn.
Nên biết
bốn chữ Hồng danh chẳng luận sang, hèn, giàu, nghèo, trẻ, già, trai, gái, chỉ
cần mỗi ngày vào lúc sáng sớm chí tâm xây mặt về phương Tây, niệm 10 câu danh
hiệu Phật, không xen, không dứt, để cầu sanh Cực Lạc, thì hiện đời sẽ được
hưởng nhiều lợi ích, khi thác tự được vãng sanh. Ðức Phật A Di Ðà thiệt là
chiếc thuyền cứu mạng cho mọi người trong biển khổ vậy.
18.- TỊNH TẾ NIỆM PHẬT
Ðã là người
có trí huệ thì đừng để bị mê hoặc, cần phải hết sức tịnh tế niệm Phật để cho
trí huệ được thêm kiên cố.
Phải
biết, người trí niệm Phật thì thiên hạ sẽ có rất nhiều người niệm Phật.Người
trí niệm Phật thời những kẻ tu hành theo ngoại đạo sẽ dễ trở về chánh đạo. Tại
sao? Vì tiếng tăm của người trí có thể mở lòng dạ họ, vì có tác dụng trí của
người trí cứu rổi họ.
19.- LÃO THẬT NIỆM PHẬT
Ðã không
cầu danh lợi, cũng không khoe tài năng, chắc thật tu hành thật là rất khó có
người làm được. Tổ sư dạy: Về phương diện tham thiền, bởi tìm một người si độn
cũng không có. Nay người niệm Phật chính lo mình không được si độn mà thôi. Hai
chữ Lão Thật là một đại lộ thẳng tắp đưa người sang Tây phương vậy. Tại sao? Vì
hai chữ Lão Thật là ngoài bốn chữ A Di Ðà Phật không thêm một mảy may vọng
tưởng nào.
20.- ÐƯỢC ÐIỀU VUI MỪNG, NHỚ NIỆM PHẬT
Hoặc nhơn
nơi người mà vui, hoặc nhơn nơi việc mà mừng, mối manh tuy nhỏ nhít, nhưng đều
là những cảnh vui vẻ của kiếp người. Song phải biết cái vui đó nó hư huyễn
không thật, không thể còn lâu, vậy nên nương nơi giây phút tươi vui đó, xoay
tâm niệm Phật, thời ắt được nhờ ánh hào quang của Phật, trong thuận cảnh ấy bỏ
dứt đi ít nhiều ác niệm, những điều tốt đẹp liên miên, như ý tu hành, mãi đến
lúc mạnh chung sẽ được vãng sanh Cực Lạc, há chẳng vui mừng lắm sao!
21.- HỨA NGUYỆN NIỆM PHẬT
Trì danh
niệm Phật nguyên để cầu vãng sanh nhưng oai phong của chư Phật không thể nghĩ
bàn hễ niệm danh hiệu của các Ngài thì sở nguyện đều tùy tâm. Vì lẽ đó, trong
kinh dạy: niệm Phật có 10 điều lợi ích (xin xem phần sau). Những việc cầu cúng
quỉ thần, tạp tu sự sám, khấn hứa nhiều ác nguyện, tin xằng những việc bói toán
xâm quẻ, không bằng dùng phương pháp niệm Phật để cầu nguyện.
Có kẻ
hỏi: Vả như niệm Phật mà không ứng nghiệm thì sao?
Ðáp: Ông
chưa niệm Phật mà đã lo không ứng nghiệm, chính cái nhơn không ứng nghiệm đó
đem đến cái kết quả không ứng nghiệm vậy. Nhơn thế nào thì quả thế nấy, há
không đáng sợ lắm sao?
22.- NIỆM PHẬT ÐỂ CẦU CỞI MỞ
Phàm tất
cả nghịch cảnh quanh ta, đều do trái duyên nên có hiện (ta phải cố cam nhận
chịu) không nên lại khởi ác niệm, để phải dẫn khởi oan trái đến mãi về sau
không dứt. Ta phải nên tùy thuận nhận lãnh, có thể tránh được thời tránh, dứt
được thời dứt, chỉ tùy nhân duyên mà đừng quên niệm Phật. Phật có vô lượng trí
huệ, phước đức quang minh, Ngài sẽ gia hộ cho ta: dù gặp nghịch duyên, trái
cảnh, cũng chuyển thành thuận cảnh, thuận duyên ngay.
23.- HỔ THẸN TỰ GẮNG NIỆM PHẬT
Phàm đời
này hay kiếp trước, ác quả đã thành tựu, thì khổ báo ắt đến, mà một phần khổ ở
đời này tức là một phần ác trong kiếp trước, không thể đổ thừa cho vận mạng bất
tề, mà chỉ nên tự hổ phận mình chẳng sớm lo tu. Mỗi một khi tưởng Phật, tưởng
như lông trong thân đều dựng đứng, năm vóc như rã rời, buồn thương, cảm mến,
đau xót, không muốn sống. Như vậy thời mỗi câu, mỗi chữ từ trong gan, tủy mà ra
mới là chơn cảnh niệm Phật.
Ngày nay
kẻ tăng, người tục niệm Phật, hoặc miệng niệm mà tâm tán, hoặc chỉ nhiếp tâm
lúc niệm, dứt niệm thì tâm mê. Lại có người đang lúc niệm Phật xen nói chuyện
tạp. Thế thì dù niệm suốt đời cũng không linh cảm. Mọi người thấy vậy, cho
rằng: niệm Phật vãng sanh là những lời láo khoét. Lỗi ấy há do Phật sao?
24.- KHẨN THIẾT NIỆM PHẬT
Phàm
người ở trong tất cả hoàn cảnh khổ đáng thương, mà ta không thương, tất trái
với nhơn tính, nhưng ở trong tất hoàn cảnh đáng thương, ta chỉ thương suông thì
làm sao hợp được với tánh Phật? Ðã thương thì phải tìm phương thoát khổ, phải
tìm cách cho mọi người rốt ráo thoát khổ. Phải biết rằng: Phật sở dĩ được tôn
xưng là Ðấng Ðại Bi, vì Ngài hay cứu khổ cho chúng sinh. Ta do lòng từ bi niệm
Phật là cốt cầu lòng từ bi của Phật ban cho, cứu vớt khổ não cho chúng ta, thì
cái niệm đó phải khẩn thiết đến bực nào?
25.- CÚNG DƯỜNG NIỆM PHẬT
Phàm gặp
giai tiết (tiết đoan ngũ, tiết trung thu v.v...) hoặc ngày vía Phật, Bồ Tát thì
nên hương đăng hoa quả tùy phận cúng dường, nhưng đó chỉ là tài cúng, chưa phải
pháp cúng. Pháp cúng thuộc về tâm, quý hơn tất cả tài cúng. Gần đây, vì tà giáo
thạnh hành, bày đặt các pháp cúng kiến, la liệt quả phẩm, tam sanh, heo, dê,
gà, vịt có ích gì cho sự tu hành? Thậm chí, còn bày bố trận đồ, chiêu hồn dẫn
quỉ, tà mị, dị đoan, càng làm cho hao tài tổn mạng, dối dá bậy bạ, phỉnh gạt
người đời. Chỉ pháp môn niệm Phật thì vạn bịnh tiêu trừ không tốn không hao,
lại ít người chịu biết đến. Kính mong những trang thức giả đừng để bị lầm.
26.- NIỆM PHẬT ÐỂ BÁO ÂN CHA MẸ
Ân của
cha mẹ là cái ân to lớn nhứt phải làm sao báo đáp? Cung phụng tất cả những thức
uống ăn, lập công danh để hiễn đạt phụ mẫu, chỉ là phép báo đáp của thế gian;
mặc dầu không phải là bất thiện, song xét cho tột thì đây chưa phải trọn vẹn
(vì dù sao cũng vẫn còn trong vòng khổ lụy của kiếp người). Chỉ có cách là ta
niệm Phật và khuyên cha mẹ niệm Phật, đem công đức ấy hồi hướng Tây phương, đó
là gieo một hột giống kim cương, về sau ta và cha mẹ cùng tự được giải thoát.
Huống chi một câu niệm Phật lại có thể tiêu được vô biên tội chướng. Những ai
muốn báo thâm ân cha mẹ, không thể không biết pháp này.
27.- BỐ THÍ BẰNG CÁCH NIỆM PHẬT
Phàm thấy
người khổ não, trước phải giúp cho họ an thân (cho cơm, cho áo) rồi sau mới an
ủi khuyên họ niệm Phật. Bởi vì cứu cái khổ trong nhứt thời, bố thí là gấp, mà
cứu cái khổ nhiều kiếp, phương pháp niệm Phật lại gấp hơn. Hoặc thấy người hay
vật bị nạn, sức mình không cứu rỗi được phải gấp niệm Phật cầu an cho hồn thức
ấy. Hoặc đêm thanh tụng niệm cầu nguyện cho mọi loài thoát khỏi tai ương. Gặp
lúc đao binh, tật dịch, năm canh trì niệm Phật danh, cầu cho chúng sanh được
tiêu trừ mọi oan khổ. Nên quán tưởng: Một câu A Di Ðà Phật của ta đây, trên tột
trời Hửu đảnh dưới suốt đáy phong luân mọi loài chúng sanh một thời đều được
lợi ích. Cách bố thí đó thật không thể nghĩ bàn vậy.
28.- TỰ TÂM NIỆM, TỰ TÂM NGHE
Tâm
tưởng, rồi mới động đến lưỡi, lưỡi khua động thành tiếng lại trở vào tự tâm, là
pháp: Tâm niệm tâm nghe vậy. Mà hễ tâm niệm tâm nghe thời mắt không thể thấy
bậy, mũi không thể ngửi bậy, thân không thể động bậy, vị chủ nhơn ông (tự tâm)
đã bị bốn chữ A Di Ðà Phật bắt cóc mất rồi.
29.- NIỆM
PHẬT TRONG TIẾNG NIỆM
Tiếng
niệm Phật đã thuần thục rồi, thời trong sáu trần chỉ còn một thinh trần. Tất cả
sáu căn hoàn toàn gởi nơi nhĩ căn (lổ tai). Thân cũng không còn cảm biết tới
lui, lưỡi cũng không còn biết khua động, ý cũng không còn cảm biết phân biệt,
mũi cũng không còn cảm biết hít thở, mắt cũng không còn cảm thấy mở nhắm. Hai
thứ viên thông của hai ngài Quán Âm và Thế Chí cũng tức là một, không chi là
chẳng viên và chẳng chi là không thông cả. Vì căn tức là trần, trần tức là căn,
căn và trần tức là thức. Mười tám giới đều dung hợp thành một giới. Trước chưa
được thuần, lâu sau sẽ dần dần thâm nhập. Phàm trong khi niệm Phật, phải lựa
một chỗ vắng, yên, sạch sẽ, khoảng 4,5 thước vuông, đi nhiễu một vòng theo phía
tay mặt, rồi sau từ từ cất tiếng niệm Phật, tiếng cao lên dần dần, niệm như vậy
độ 3 vòng trở lên sẽ tự cảm thấy tâm, tiếng to bay vòng quanh khắp thái hư, bao
bọc cả 10 phương, trùm đầy toàn pháp giới. Ðó là cách an trụ thân tâm, thế giới
vào trong tiếng niệm Phật, và đó là đem thân, tâm của mình an trụ trong tiếng
niệm Phật mà niệm Phật. Ðây là cảnh thù thắng để tiêu diệt tâm địa phiền não
nhơ trược, hành giải cần phải gắng tập cho kỳ được. (Bài này chỉ vẽ rõ ràng,
không cần phụ giải)
30.- NIỆM PHẬT TRONG ÁNH SÁNG CỦA TỰ TÂM
Phàm
tiếng là tiếng của tự tâm, thì ánh sáng cũng là ánh sáng của tự tâm. Hễ tiếng
của tự tâm quanh lộn ở chỗ nào thì ánh sáng của tự tâm phóng ra ở chỗ ấy; nếu
ta an trụ trong tiếng của tự tâm mà niệm Phật, tức là an trụ trong ánh sáng của
tự tâm mà niệm Phật vậy. Ðây cũng là cảnh thù thắng diệt được lòng tham phiền
não nhơ bẩn, hành giả nên gắng siêng tu tập.
31.- NIỆM PHẬT TRONG THỂ CỦA TỰ TÂM
Tiếng nói
của tự tâm vòng quây và ánh sáng tự tâm chiếu phát, tự nhiên tâm thể phơi bày.
Một chơn tâm này như tấm gương tròn lớn (Ðại viên cảnh) rỗng thông sáng suốt,
không gì ngăn ngại, mười phương, ba đời, ta, Phật, và chúng sanh, vòng khổ của
đời trược, đài sen nơi cảnh tịnh đều là bóng trong gương cả. Cho nên niệm Phật
trong tiếng tức trong ánh sáng, trong ánh sáng tức trong gương không phải một,
khác. Ðây cũng là cảnh thù thắng tột cùng, diệt hẳn được tâm nhơ, cần phải gia
công hết lòng tu tập.
32.- KHÔNG DỨT
Buổi sáng
niệm, buổi tối cũng niệm; vô sự niệm, hữu sự cũng niệm; chỗ sạch niệm, chỗ nhơ
vẫn niệm, không một niệm nào mà không phải là niệm Phật. Giả sử hàng ngày có sự
thù tiếp bạn bè, đãi đằng khách khứa, có lúc gián đoạn, nhưng chỉ gián đoạn
thinh niệm, chớ không thể gián đoạn được tâm niệm. Niệm Phật mà công phu đến
thế, thì dễ thành Tam muội lắm.
33.- KHÔNG TẠP
Không xen
tạp niệm tức là Chỉ, Chỉ là nhơn của Ðịnh, dừng được tạp niệm, thì chánh niệm
(định) tự nhiên phát hiện. Tạp niệm có 3: Thiện, ác, và vô ký, trừ hết ba thứ
mới là không tạp. Tâm cần vắng lặng, vắng lặng thời các niệm thiện, ác không
sanh. Tâm cần sáng suốt, sáng suốt thời vô ký niệm không có. Ngoài Phật không
có niệm nên tường vắng lặng, trong niệm có Phật nên thường sáng suốt rõ ràng.
34.- KHÔNG DỪNG
không
dừng tức là Quán, Quán là nhơn của Huệ. Câu (niệm Phật) trước đã qua, câu sau
chưa đến, câu hiện tại cũng không dừng. Cứ thế mà quán sát, rõ ràng nhưng không
thể được (không câu chấp), không thể được nhưng lại rõ ràng. Ðuổi như vậy mãi
sẽ thấu đạt lẽ vạn pháp duy tâm, tức Phật tức tâm, tức tâm tức Phật.
35.- TỨC THIỀN TỨC PHẬT
Hoặc khởi
từ một câu thoại đầu gọi là tham thiền, hoặc ngồi mà dứt niệm gọi là tọa thiền.
Tham hay tọa đều là Thiền cả, Thiền hay Phật đều là tâm cả. Thiền tức là Thiền
của Phật. Phật tức là Phật của Thiền. Pháp môn niệm Phật đâu có gì ngại với
pháp tham thiền, tọa thiền? Vả lại, người tham thiền có thể dùng bốn chữ A Di
Ðà Phật làm một câu thoại đầu, niệm đến, niệm lui, niệm xuôi, niệm ngược, trở
lại, xây qua không rời đương niệm, mặc dù không nói tham thiền, mà thiền ở
trong đó rồi. Người tọa thiền cần phải đến giai đoạn một niệm tương ưng, hoát
nhiên như vinh vào hỗ hư không, mới là Ðắc thủ . Niệm Phật đến lúc nhứt tâm bất
loạn, không phải là tương ưng là gì?
Niệm đến
lúc tâm không, không phải vĩnh viễn tương ưng sao? Trong lúc niệm Phật, không
hôn trầm, không tán loạn, chỉ, quán, định, huệ mỗi niệm viên thành; nếu muốn
tìm thiền, thiền ở đâu nữa?
36.- TỨC GIỚI TỨC PHẬT
Trì giới
luật của Phật để trị thân, trì danh hiệu của Phật để trị tâm. Trì lâu thì thân
thuần, niệm lâu được tâm không. Tánh của niệm hay tánh của giới không hai; luôn
luôn trì giới thì tội lỗi không hiện, luôn luôn niệm Phật, thời lúc lâm chung
đánh tan được quỷ môn quan, vượt khỏi ba cõi. Nếu giữ giới đã có công phu, liền
đem công đức này hồi hướng Tây phương, chắc được về trung phẩm. Còn như chưa có
thể giữ trọn cả hai, thời nên phải siêng niệm Phật, như cứu lửa cháy đầu.
37.- TỨC GIÁO TỨC PHẬT
Một Ðại
tạng kinh đều từ tâm khởi, tâm nếu không Phật thì giáo lý cũng luống mà thôi.
Nhưng có tâm ai mà không Phật? Chỉ vì tự mình không niệm vậy. Người có học giáo
lý, ắt có coi kinh Lăng Nghiêm, mà cói coi kinh Lăng Nghiêm ắt có kẻ chê đức
Thế Chí mà trọng đức Quán Âm, một chút chấp trước đó cũng đủ kết thành nguồn
gốc sanh tử, dù học hay, thấy xa, hiểu rộng, chẳng qua chỉ giúp cho cái mầm khổ
thêm tuổi mà thôi, không giúp ích được gì trong việc thoát ly sanh tử. Xin hãy
mau bỏ đi, bỏ tất cả, để tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương, gần gũi đức Di
Ðà. Còn nếu không buông bỏ được thì hãy đem công đức học kinh, giảng thuyết này
hồi hướng Tây phương, phát bốn điều thệ nguyện rộng lớn, cũng được kết quả
không luống. Thoảng hoặc hoằng dương được pháp môn Tịnh Ðộ, nói cho người ta
hiểu công đức niệm Phật, thời nháy mắt, động niệm đều là trang nghiêm Tịnh Ðộ,
thế thì được vãng sanh thượng phẩm đâu còn nghi gì?
38.- KHÔNG TRÌ MÀ TRÌ
Khi vừa
làm xong một việc gì, hay lúc nói dứt một lời nào, còn chưa kịp đá động đến câu
niệm Phật, nhưng bốn chữ Hồng danh của Phật đã nổi hiện lên ngay. Ðây là trạng
thái dễ thành tam muội (chánh định).
39.- TRÌ MÀ KHÔNG TRÌ
Trì danh
niệm Phật không mỏi chán, khoan khoái lại càng khoan khoái hơn. Trong lúc niệm
Phật, trì niệm bốn chữ thật rõ ràng, niệm đầu không lay động, bốn chữ bỗng
nhiên tạm dừng. Cũng không phải có cái niệm tức bốn chữ, cũng không có cái niệm
ngoài bốn chữ, như thế có thể tạm gọi là được thắng cảnh, chớ chưa phải thật
tâm không. Nhưng siêng năng niệm Phật, cảnh này thường hiện, thời dần dần được
tâm không. Nếu nhơn một niệm tâm không liền bị hôn trầm thì gọi là không có
Huệ. Phải biết rằng: tâm càng không thời niệm càng linh, tâm càng không thời
niệm càng tịnh, đem cái ta trong tâm Phật mà niệm Phật ở trong tâm ta, không và
bất không (có) đâu còn xứ sở? Ví như mặt trời, mặt trăng rực rỡ nơi bửu cung,
vòng quanh núi Tu Di, châu lưu chiếu thiên hạ. Ôi! Còn gì bằng Diệu giác được
viên minh!
40.- CÔ THÂN NIỆM PHẬT
Tỳ kheo
tu hành không cần bạn lữ. Cảnh niệm Phật càng cô tịch càng hay! Cao thấp tùy
hợp, hưởn gấp tùy phần, cốt mong cầu được thành một khối (nhứt tâm). Chính lúc
bấy giờ nên biết: thân côi nhưng tâm không côi, vì tâm của chư Phật và đức Di
Ðà chưa từng tạm rời ta. Móng lòng là Phật biết, khởi niệm thì Phật hay, lo gì
cô tịch? Nếu Pháp môn Tịnh độ còn điều gì chưa thiệt hiểu rõ, nên tìm kinh sách
Tịnh độ mà coi. Như kinh A Di Ðà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Thiên Thai Trí Giả
Ðại Sư Thập Nghi Luận, Thiên Như Hòa Thượng Tịnh Ðộ Hoặc Vấn, Ðại Hựu Thiền Sư
Tịnh Ðộ Chỉ Quy, Long Thơ Tịnh Ðộ Văn, Tịnh Ðộ Thần Chung, Tây Phương Công Cứ,
Tây Phương Xác Chỉ, Di Ðà Sớ Sao v.v... Ðây chỉ dẫn một ít điều rõ ràng dễ hiểu,
ngoài ra, còn nhiều thứ hay ho hơn, không kể xiết. Nên tìm học hỏi nơi các bậc
cao minh thông hiểu Tịnh độ.
41.- KẾT KỲ NIỆM PHẬT
Kết kỳ là
kết thất (7 ngày làm một kỳ), nếu kết kỳ một mình, thì nên sắm bốn thứ để ăn:
cơm khô, trái cây, gừng sống, dầu mè; tám thứ để dùng: lư hương, đèn dầu, bồ
đoàn (đồ để ngồi thiền), ghế dựa, áo bông (đồ ấm), khăn hay mũ, thùng vệ sinh,
giấy vệ sinh (giấy sút). Ngoài 12 thứ đó, không để một thứ gì cả. Có thể trong
suốt một tuần, không cho ai lai vãng, để rảnh rang niệm Phật.
Nếu có 5,6 người đồng phát tâm kết kỳ niệm Phật, thời cần phải thỉnh một vị hộ
thất, lập qui điều cho nghiêm chỉnh dán ở trước cửa. Tất cả mọi cử động, uống
ăn, hương hoa đăng quả, đều do vị hộ thất cung cấp đầy đủ, thời những người
đồng thất cũng có thể suốt trong bảy ngày chí tâm niệm Phật. Nếu còn hạn cuộc
trong tình chấp buộc ràng, chưa biết những điều lợi hại của việc tu hành, thì
đừng nên sớm khinh suất mà làm việc này.
42.- TỤ HỘI NIỆM PHẬT
4,5 người
hẹn nhau hội họp tu pháp niệm Phật. Trước hết phải đặt điều ước, trật tự, sau
mới bắt đầu niệm. Lúc đầu niệm thì một tiếng mỏ một tiếng niệm, một người xướng
bao nhiêu người niệm theo, đều đều không nên so le, lộn xộn mà làm loạn động
tâm người đồng niệm. (Pháp này không kết thất như pháp trên, mà tùy phương tiện
tu tập thế thôi, bao nhiêu người cũng được, bao nhiêu ngày cũng không hạn
cuộc.)
43.- NIỆM PHẬT ÐỂ THÀNH TỰU CHO NGƯỜI
Hoặc ở
yên một chỗ niệm Phật mà cầu nguyện cho người, hoặc đồng với người khác kết kỳ
niệm Phật. Hoặc đem pháp môn niệm Phật chỉ dạy cho người biết, hoặc cho người
mượn sách Tịnh Ðộ mà xem, hoặc phá những mối nghi lầm của người khác trong pháp
môn này, hoặc khuyên người bền chí niệm Phật, những việc ấy đều tốt và đều có
công đức cả. Nhưng nếu người trong lúc lâm chung mà có mình đến hộ niệm, khiến
cho người bịnh luôn luôn nhớ câu niệm Phật, vừa nhớ vừa niệm, làm cho người ấy
sau khi tắt hơi rồi được vãng sanh về cõi Tây phương, đó là thành tựu pháp thân
huệ mạng cho người, công đức này còn thù thắng hơn. (Pháp này không có gì là
khó hiểu cả.)
44.- KHI CÓ TAI NẠN NÊN NIỆM PHẬT
Phàm lúc
xảy ra tai nạn, mà nhớ phát tâm niệm Phật, tất có kỳ ứng (ứng nghiệm lạ
thường). Tuy rằng một nước bị can qua hay một làng bị dịch lệ, mà niệm Phật để
cầu, thì một người niệm một người an, trăm người niệm trăm người an. Không phải
Phật có lòng riêng, lúc nào cũng trong ánh sáng bình đẳng, vô tâm mà ứng hiện.
Vì sao? Vì động niệm thành tiếng tự mình rõ biết hào quang sáng của đức Phật A
Di Ðà trụ trên đỉnh đầu ta, thời tự nhiên mỗi niệm đầy đủ, mỗi niệm bền chắc,
mỗi niệm dài lâu, thời hào quang của Phật chiếu đến gia hộ các vị thiện thần độ
trì, tự mình có thể lìa khỏi nạn tai, xin đừng chuyển niệm.
45.- NIỆM
PHẬT TRONG LÚC CHIÊM BAO
Nguyện
lực bền chắc, công phu tinh nhuần, ban ngày giữ niệm khăn khăn, ban đêm vẫn giữ
niệm khư khư, thời trong giấc chiêm bao tự mình có thể niệm Phật, đó là triệu
chứng sắp vãng sanh, vậy phải giữ điều hòa và phải cố gắng lên mãi, đừng lui
đừng loạn.
46.- NIỆM PHẬT TRONG LÚC BỊNH
Bịnh là
cơ sắp chết, chết là mối quan hệ của các thánh, phàm, tịnh, uế. Trong lúc bịnh
(bịnh nặng) phải khởi tưởng niệm là sẽ chết (để không sợ chết). Phải siêng niệm
Phật, quyết định chờ chết, ắt có hào quang của Phật đến tiếp dẫn, làm toại chí
nguyện vãng sanh của ta. Nếu trong lúc bịnh, dừng không niệm Phật thì tất cả sự
ái luyến sợ sệt, phiền não hiện lên rần rần, các thứ tạp niệm nhứt tề nổi dậy.
Thế thì con đường sanh tử lấy gì cứu vớt? Ngày xưa có một vị Tăng bịnh nặng,
rên thành tiếng “Ôi cha.” bỗng tự biết người tu lúc nghĩ nhớ đến đạo mà lại rên
như thế là sai, liền khởi niệm A Di Ðà Phật. Nhưng cơn đau không chịu dứt, nên
một tiếng rên “ôi cha” là một tiếng niệm Phật tiếp theo, ngày đêm không dứt.
Khi bịnh lành, thầy bảo mọi người: “Trong lúc bịnh tôi rên thành tiếng “ôi cha”
và chen một tiếng niệm A Di Ðà Phật, hôm nay bịnh lành, tiếng A Di Ðà Phật hiện
còn mà tiếng rên “ôi cha” chẳng biết biến đâu.” Hy hữu thay! Ðây là trường hợp
tinh tấn trong lúc bịnh vậy.
47.- PHÚT LÂM CHUNG NÊN NIỆM PHẬT
Phút lâm
chung nên cố gắng ghi nhớ 4 chữ A Di Ðà Phật đừng để sót quên. Nếu niệm lớn
được thời niệm, còn không niệm lớn được thì niệm nhỏ. Trường hợp lớn nhỏ đều
không niệm được (vì quá mệt) thì nên ghi khắc thầm tưởng 4 chữ trong thâm tâm,
đừng cho quên sót. Những người hầu hạ chung quanh phải thường nhắc nhở khuyến
khích người bịnh nhớ Phật, niệm Phật. Phải biết rằng: trong nhiều đời, nhiều
kiếp, vì ta bị loạn niệm trong lúc này (gần chết) mà phải luân hồi mãi trong
vòng ba cõi. Tại sao? Vì sanh tử, luân hồi đều do nhứt niệm làm chủ. Nếu nhứt
niệm chuyên chú niệm Phật, thì thân tuy chết nhưng tâm thần không tán loạn,
liền theo nhứt niệm ấy vãng sanh Tịnh độ. Vậy nên hãy nhứt tâm ghi nhớ bốn chữ
A Di Ðà Phật đừng quên!
48.- PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI NIỆM PHẬT
Than ôi!
Trong đời có thiếu gì kẻ không biết niệm Phật, có người cho niệm Phật là dị
đoan nên không chịu niệm, người xuất gia cho niệm Phật là việc tất nhiên của
mình phải làm, chớ không biết tại sao phải niệm, kẻ cuồng huệ biết có Phật,
nhưng lại không khứng niệm, kẻ ngu si không biết Phật nên không niệm. Ðây là
đem so sánh, còn có những ngu phu, ngu phụ, nghe nói lý nhơn quả cũng biết niệm
Phật, nhưng lại mong cầu được phước báo đời sau, vẫn không thoát khỏi hột giống
luân hồi.
Tìm kẻ thật vì đường sanh tử mà niệm Phật trong trăm người họa chăng chỉ có một
hai! Nên biết rằng, người đã niệm Phật, tức xứng hợp với lòng từ của Phật, phát
thệ nguyện rộng lớn tế độ chúng sanh. Tất cả tội cấu oan khiên thảy đều sám
hối. Tất cả những công đức dù nhỏ dù lớn đều đem hồi hướng Tây phương, như thế
mới là CHÁNH NHƠN NIỆM PHẬT.
Thuật
giả: Giang Ðô Trịnh Vi Am
Dịch giả: Sa môn Thích Tịnh Lạc