Tứ pháp giới là 4 pháp giới đề cập trong Kinh Hoa Nghiêm, bao gồm :
1. Sự pháp giới: các pháp sắc và tâm của chúng sanh mỗi mỗi sai biệt, có giới hạn phân cách, nên gọi là “sự pháp giới”.
2. Lý pháp giới: các pháp sắc và tâm của chúng sanh dù có sai biệt, mà đồng một thể tánh, nên gọi là “lý pháp giới”.
3. Lý sự vô ngại pháp giới: Lý do sự mà hiển bày, sự do lý mà thành tựu, lý sự dung hợp lẫn nhau nên gọi là “lý sự vô ngại pháp giới”.
4. Sự sự vô ngại pháp giới: Tất cả
giới hạn, phân cách của sự vật xứng với tánh dung thông, một tức nhiều,
nhiều tức một, lớn vào nhỏ, nhỏ vào lớn, trùng trùng vô tận, nên gọi là
“sự sự vô ngại pháp giới”.
(trích trong Yếu chỉ Kinh Hoa Nghiêm của Thầy Duy Lực lược giải)
Lời giải thích trên quá vắn tắt nên người bình thường chúng ta khó
nắm bắt, khó hiểu rõ. Nay tôi xin mạo muội tìm hiểu cho rõ thêm.
Sự : là sự vật có hai hình thái : một là vật chất
như sơn hà đại địa, cái nhà, chiếc xe, con vật, con người; hai là phi
vật chất như tinh thần, tình cảm. Lòng tự ái, tình yêu nam nữ, tình cảm
gia đình giữa cha mẹ và con cái, anh chị em, tình yêu quê hương tổ quốc
đều là sự. Thế giới vật chất như vũ trụ vạn vật, năng lượng, và thế giới
tinh thần tình cảm của con người gọi chung là sự pháp giới. Chưa hết,
tất cả sáu đường (trời, người, a-tu-la, ngạ quỹ, súc sinh, địa ngục),
bốn loài (thai sanh, noãn sanh, thấp sanh _vi khuẩn_, hóa sanh), ba cõi
(dục giới, sắc giới, vô sắc giới) đều thuộc về sự pháp giới. Các sự vật
trong sự pháp giới có giới hạn, có sự phân cách giữa chúng với nhau, có
vẻ như riêng biệt, độc lập. Các sự vật được phân biệt dựa trên 6 hình
tướng gọi là lục tướng :
1/Tổng tướng. Ví dụ con người là một tổng tướng. Con người có đầu,
mình, hai tay, hai chân, có bộ não, có 6 giác quan hay còn gọi là 6 căn :
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể, não bộ. Bất cứ con người nào cũng có đầy
đủ các bộ phận như thế, gọi là tổng tướng.
2/Biệt tướng. Tuy con người có tổng tướng giống nhau, nhưng mỗi cá
thể lại có biệt tướng như người Anh, người Pháp, người Nga, người Trung
Quốc, người Việt Nam, mỗi mỗi khác nhau về vẻ bề ngoài, về ngôn ngữ, về
văn hóa, phong tục, tập quán đều khác nhau.
3/Đồng tướng. Là sự tương đồng trong các chức năng hoạt động cơ bản.
Ví dụ bất cứ con người nào cũng đều ăn, ngủ, thấy, nghe, nói năng, tiêu
hóa, bài tiết, đi lại, lao động sản xuất, tương tự như nhau.
4/ Dị tướng. Tuy chức năng hoạt động giống nhau nhưng sinh hoạt cụ
thể của các cá thể rất khác nhau. Ví dụ có người ăn lúa mì, có người ăn
lúa gạo, có người ăn chay, có người ăn mặn. Mỗi dân tộc sử dụng ngôn
ngữ, văn tự khác nhau. Trình độ sinh hoạt và văn minh của các cộng đồng
xã hội cũng khác nhau xa lắm. Thí dụ bộ lạc Kogi sống ở Nam Mỹ trong
hoàn cảnh khép kín giống như thời nguyên thủy, họ không có máy móc thiết
bị, rất ít tiện nghi, đời sống chủ yếu dựa trên khả năng tự cường của
cơ thể mỗi người; trong khi đó các xã hội văn minh hiện đại, lệ thuộc
rất nhiều vào tiện nghi của cộng đồng như điện, nước, khí đốt, hệ thống
thông tin liên lạc, đường sá, xe cộ, máy bay, tàu thủy v.v…
5/Thành tướng. Là quá trình hình thành và kiện toàn của sự vật. Ví dụ
một con người bắt đầu từ sự thụ tinh giữa trứng và tinh trùng, hình
thành bào thai, phát triển thành hài nhi trong bụng mẹ, được sinh ra và
lớn lên, trưởng thành cả về cơ thể và sự hiểu biết.
6/Hoại tướng. Là quá trình suy tàn đi tới diệt vong của sự vật. Ví dụ
con người khoảng 30 tuổi là đạt tới sự kiện toàn về cơ thể và trí tuệ
mà Nho giáo gọi là tam thập nhi lập, tức là 30 tuổi thì đứng vững,
trưởng thành đầy đủ. Sau đó là bắt đầu suy giảm, già yếu và cuối cùng là
tử vong.
Các sự vật khác cũng đều có đủ lục tướng. Chẳng hạn Phật pháp có tổng
tướng là một tông giáo cũng có giáo chủ là Đức Phật Thích Ca tương tự
như các tông giáo khác. Phật pháp có biệt tướng là một hệ thống giáo lý
rất đồ sộ được tập họp trong Đại Tạng Kinh với hàng ngàn bộ kinh, rất
khác với các tông giáo khác. Phật pháp có đồng tướng là sinh hoạt tông
giáo với chùa chiền rất nhiều cũng tương tự như nhiều tông giáo khác.
Nhưng Phật pháp có dị tướng là cách tu hành thiền định, nhất là Tổ Sư
Thiền, không kiến lập chân lý, không chấp thật thì không giống bất cứ
tông giáo nào khác. Thành tướng của Phật pháp là sự thành lập Tăng già
là đoàn thể Phật giáo được tổ chức tu hành qui củ, có kinh, luật, luận
để hàng xuất gia và hàng tại gia học tập và thực hành, ngày càng lớn
mạnh, truyền ra khắp thế giới. Hoại tướng của Phật pháp là nó đã và đang
trải qua các thời kỳ : chánh pháp hưng thịnh, số người tu chứng rất
đông; tượng pháp chỉ còn duy trì phần nào sự tu hành chân chính, số
người chứng đạo ít dần; mạt pháp chỉ còn hình thức bề ngoài, rất ít
người tu hành chân chính, không còn người chứng ngộ.
Tuy các sự vật có vẻ riêng biệt độc lập nhưng thật ra chúng có quan
hệ với nhau về nhân quả, trong bối cảnh không gian và thời gian chung.
Mối quan hệ đó được thể hiện trong Lý pháp giới.
Lý : là mối quan hệ tương tác giữa các sự với nhau.
Các sự vật trong pháp giới không phải rời rạc vô trật tự mà luôn có quan
hệ gắn bó mật thiết với nhau. Vật chất thì dính líu với nhau bằng các
lực tương tác. Người ta tìm thấy có 4 lực cơ bản kết nối vật chất với
nhau, đó là :
Lực hấp dẫn (force de gravité, gravitation) là lực hút giữa vật chất
với nhau, có tác dụng ở mặt vĩ mô. Lực điện từ (force électromagnétique,
electromagnetism) tạo ra từ trường trong đó điện tích cùng dấu thì đẩy
nhau, khác dấu thì hút nhau. Lực tương tác mạnh (force interactive
forte, the strong interaction) là lực liên kết các hạt quark tạo ra hạt
proton và hạt neutron, tạo ra sự vững bền của hạt nhân nguyên tử và giữ
cho electron chuyển động theo quỹ đạo nhất định. Lực tương tác yếu
(force interactive faible, the weak interaction) tạo ra hiện tượng phóng
xạ của các nguyên tố nặng (như uranium) tức là giải phóng một số proton
và neutron khiến nguyên tử dần dần bị phân rã. Lực điện từ và lực tương
tác yếu, từ năm 1983 khi khám phá hạt tương tác boson W và boson Z thì
có thể gom thành một lực chung gọi là lực tương tác điện yếu
(interaction of weak electromagnetic fields)
Các lực đó được coi là lý, vì nó đóng vai trò mối quan hệ, nhưng cũng
có thể coi là sự vì có thể phân biệt được nó với sự khác, tuy nhiên khi
tách riêng thì nó không còn là nó nữa mà biến thành một sự khác. Ví dụ
lực tương tác mạnh trong nguyên tử, khi lấy riêng nó ra bằng cách phá vỡ
nguyên tử thì nó biến thành năng lượng rất lớn mà người ta ứng dụng
trong các nhà máy điện nguyên tử. Các công thức, phương trình toán học
và vật lý học cũng đều là lý.
Mối quan hệ giữa các sự vật trong tự nhiên được người ta đúc kết
thành quy luật, định luật và gọi chung là lý, như vật lý, sinh lý hoặc
gọi là học như hình học, toán học. Tinh thần tình cảm của con người cũng
vận động theo một số nguyên tắc, cũng được đúc kết thành các quy tắc
ứng xử cũng gọi là lý như tâm lý học (Psychology). Trong xã hội, quan hệ
giữa con người với nhau thì gọi là luân lý hay đạo đức học. Các hoạt
động của con người cũng có những quy tắc nhất định được đúc kết trong
kinh tế học, nông học, y học, hội họa, kiến trúc, âm nhạc…Tất cả các
ngành học của con người đều là lý. Lý đó có giá trị trong một hoàn cảnh
không gian và thời gian nhất định, tức hữu hạn thôi chứ không phải vĩnh
cửu.
Tất cả lý thuộc đủ mọi ngành, mọi nơi, gọi chung là Lý pháp giới
Lý Sự Vô Ngại : ý nói giữa lý và sự không có mâu
thuẫn, không gây trở ngại cho nhau. Lý làm rõ sự. Ví dụ công thức nổi
tiếng của Einstein E=MC2 đó là lý, nó nêu rõ rằng một khối
lượng vật chất khi được giải phóng hoàn toàn, tức là phá vỡ lực liên kết
trong hạt nhân nguyên tử, thì sẽ sản sinh một năng lượng khổng lồ, bằng
khối lượng vật chất đó nhân với bình phương vận tốc ánh sáng. Sự do lý
mà thành tựu. Ví dụ từ công thức đó, người ta ứng dụng để sản xuất điện
năng, biến một khối lượng uranium nhỏ thành một năng lượng khổng lồ,
năng lượng đó làm chạy các tua-bin máy phát điện, đủ để cung cấp điện
cho cả một thành phố lớn.
Khi giữa lý và sự có mâu thuẫn không hợp với nhau, thì lý đó sai. Một
lý đúng cũng có thể sai ở một không gian thời gian khác, hoặc ở một
tầng cao khác. Ví dụ lực trọng trường, tức sức hút của trái đất, luôn
luôn hút một vật về tâm điểm của địa cầu. Nhưng khi phi thuyền bay lên
quỹ đạo không gian cách mặt đất chừng 400 km trở lên, thì lực trọng
trường không còn nữa, tức lý đó mất tác dụng. Những vệ tịnh địa tĩnh
cách xa mặt đất 36.000 km thì không bao giờ còn rơi xuống mặt đất nữa.
Nhưng điều quan trọng khiến cho lý sự vô ngại là do bản chất ảo của
chúng. Theo cái thấy của Phật, Bồ Tát, hay Tổ Sư như Huệ Năng thì không
một vật gì có thật (Bổn lai vô nhất vật). Tất cả sự đều là ảo, tất cả lý
cũng đều là ảo, nên không thể gây trở ngại cho nhau được. Ảo không phải
là không có, nhưng không phải là thật. Đây là điểm mấu chốt khiến cho
Phật giáo không giống bất cứ tôn giáo nào khác. Đây cũng chính là trọng
điểm mà chúng ta cần lý giải.
Tại sao sự vật không có thật ? Bởi vì vật chất không có thực thể, các
hạt cơ bản hình thành nên nguyên tử vật chất như quark, electron hay
các hạt khác như photon, neutrino… đều là hạt ảo. Chúng không thể độc
lập tồn tại, chúng chỉ tồn tại trong quan hệ liên kết với nhau. Cái ta
thấy và gọi là nguyên tử không phải là vật, mà chỉ là một ảo tưởng trong
tâm thức. Ta chỉ thấy mối liên hệ gắn kết giữa các hạt quark thành ra
hạt proton và hạt neutron. Ta chỉ thấy mối liên hệ gắn kết giữa các hạt
proton và neutron thành hạt nhân nguyên tử. Ta chỉ thấy mối liên hệ gắn
kết giữa hạt nhân nguyên tử và electron thành nguyên tử vật chất. Nguyên
tử vốn không phải là vật và không có thật, nó chỉ có trong nhất niệm vô
minh của con người. Một số nhà khoa học cũng nhận ra điều này và họ đã
nói tới sự kết thúc của vật lý học. Năm 2002, Stephen Hawking công bố
bài giảng “Gödel & The End of Physics” (Gödel & sự kết thúc của vật lý học), thể hiện một sự thay đổi mang tính cách mạng trong nhận thức của ông về “Lý thuyết Cuối cùng” (Final Theory) của vật lý học, khác xa với những gì ông đã trình bầy trong cuốn “Lược sử thời gian” 11 năm trước.
Sự kết thúc của vật lý học theo Stephen Hawking là vì Kurt Gödel đã
chứng minh định lý bất toàn. Vật lý học sẽ không bao giờ đi tới lý
thuyết cuối cùng có thể giải thích tất cả mọi sự lý trong vũ trụ, bởi vì
luôn luôn có mâu thuẫn phát sinh trong bất cứ hệ thống duy lý nào, dù
cho chặt chẽ như toán học hay khoa học máy tính. Mâu thuẫn khiến không
bao giờ có được lý thuyết cuối cùng hay lý thuyết giải thích được mọi
thứ (Theory Of Everything – TOE). Nhà toán học David Hilbert và nhà
khoa học thiên tài Albert Einstein là những người cay đắng nhất trong
công cuộc tìm kiếm TOE, cuối cùng đành chịu thất bại bởi vì không thể có
một lý thuyết như vậy.
“ Vậy thực tại (hay sự vật) là gì? Hiện nay đó là sự khủng hoảng
của ngành vật lý, đó là cái không thể biết. Vật lý học lượng tử thật là
nhất quán và xuất sắc khi trả lời những biến cố có tính chất thống kê.
Do đó các hệ thống điện từ (thí dụ nhà máy phát điện) vận hành đúng như
con người tính toán và tiên đoán. Nhưng khi tìm hiểu sự vận hành của các
đơn vị vật chất riêng lẻ, thì tính ngẫu nhiên trong vật lý lượng tử
không thỏa mãn được nhiều nhà vật lý…
Thực tại là cái gì đó nhiều chiều hơn không gian ba chiều của
chúng ta. Phải chăng thế giới này là một projection (hình chiếu) của
thực tại mà thôi. Chúng ta tạm gọi thực tại là một cái x nào đó thì vũ
trụ này của chúng ta là một mảnh chiếu của thực tại trong không gian ba
chiều này? …
Trong hướng đó, David Bohm, một nhà vật lý học lượng tử xuất
sắc, ông mất năm 1992, ông đã đề ra một mô hình, tôi xin nói ngắn: các
hạt chúng ta đang thấy, khi ẩn khi hiện đó, nó vận động như vậy nhưng
chúng nhận thông tin từ một quantum potential, từ một trường lượng tử.
Trường lượng tử điều khiển các hạt bằng thông tin, tương tự như một đứa
bé điều khiển đồ chơi điện tử bằng bản điều khiển từ xa. Theo David
Bohm, trường lượng tử đó có tính chất nonlocal (bất định xứ), không biết
tới không gian, nó tác động tức thì, chúng ta hiểu đó là trường lượng
tử chứa tâm, chứa thức” (Nguyễn Tường Bách – Khi Vật lý gõ cửa Bản thể học)
Bất cứ ai hễ còn chấp thật, còn cho rằng có một thế giới khách quan ở
ngoài ý thức, thì đều còn vướng mắc, không thể giải thoát và không thể
thực hiện được lý sự vô ngại. Lý sự vô ngại chỉ thông suốt khi đã ngộ
rằng cả sự và lý đều là ảo và vận dụng được sự thật này.
Tóm lại, vì bản chất của lý và sự đều là không có thật, đều là ảo,
nên về hình tướng thì có khác nhau nhưng về bản chất thì không khác
nhau. Sự khác nhau về hình tướng là do tâm chúng sinh phân biệt dựa trên
nhất niệm vô minh. Sự là một cấu trúc ảo, do các hạt ảo như quark và
electron hợp thành. Nếu tách riêng một hạt electron, bắt nó dừng lại để
quan sát thì nó không tồn tại, vì nó chỉ là hạt ảo không có thực thể.
Một dòng electron tự do, tức chúng đã thoát khỏi nguyên tử, chạy trong
dây dẫn bằng kim loại như đồng chẳng hạn, thì tạo ra dòng điện. Nếu
không sử dụng năng lượng của dòng điện do máy phát điện tạo ra, để tạo
ra công năng như chạy mô-tơ , tạo ra nhiệt trong bếp điện…thì năng lượng
điện cũng bị mất, do không thể để dành được các hạt electron. Về hạt
quark thì hiện nay nhân loại chưa có khả năng phá vỡ hạt proton hoặc hạt
neutron để tách riêng chúng ra, người ta gọi tình huống này là hiện
tượng giam hãm (confinement) vì hạt quark bị giam hãm vĩnh viễn trong
hạt proton/neutron. Đối với Phật giáo thì hiện tượng giam hãm này tương
ứng với tâm cố chấp kiên cố của chúng sinh. Khoa học muốn phá được hiện
tượng giam hãm phải cần tới một năng lượng vô hạn, là điều họ không thể
làm được. Còn người chứng ngộ trong Phật giáo thì có thể làm được khi đã
phá được tâm cố chấp. Tâm là một dạng năng lượng vô hạn nên khi đã phá
chấp ở trong tầng sâu vô thức, thì dễ dàng tách được các hạt quark, đưa
vật chất trở về không, hoặc cấu trúc lại thành nguyên tử khác, vật chất
khác theo ý muốn. Đó là một dạng thần thông, gọi là thân như ý thông. Có
người bẩm sinh có được thứ thần thông này như Trương Bảo Thắng. Anh ta
có thể đưa thân thể của mình và bức tường bằng gạch đá hoặc sắt thép trở
về không, do đó chúng vô ngại, và có thể dễ dàng đi qua bức tường. Đây
chính là ý nghĩa của sự sự vô ngại.
Sự Sự Vô Ngại : Các cố thể vật chất không gây trở
ngại cho nhau vì bản chất của chúng là ảo, là không, không có thực thể.
Vật chất sở dĩ kiên cố là do tâm chấp trước. Nếu tâm không chấp trước
thì chúng vô ngại. Trương Bảo Thắng đã biểu diễn tính vô ngại của vật
chất như sau :
Xác thực, năm 1982 lúc anh còn ở Trung Y học viện Liêu Ninh, thầy
giáo Vương Phẩm Sơn và đồng nghiệp từng phát hiện anh có công năng dùng
ý niệm di chuyển vật, đặc biệt là cách tường di chuyển cả một bao đường
trắng ra ngoài. Các giáo viên đã đến kho kiểm tra kỹ lưỡng, kết quả :
cửa kho khóa, cửa sổ đã đóng chết. Trong kho đường trắng bị các bao lớn
đường vàng đè lên trên. Nếu xét thể lực của Trương Bảo Thắng lúc đó, anh
không có đủ sức để dời các bao đường vàng đi để lấy được bao đường
trắng. Bất luận phân tích thế nào, người ta vẫn còn hoài nghi không biết
anh thực sự có bản lĩnh của Lao Sơn đạo sĩ không. Do đó Vương Phẩm Sơn
và các giáo viên tổ chức một hoạt động. Họ nói với Trương Bảo Thắng :
- Anh có thể nào đi vào Đại Lễ Đường mà không bị người ta phát hiện không ?
- Thử một cái xem ! Trương Bảo Thắng cười đáp ứng.
Hoạt động bắt đầu. Có người dẫn Bảo Thắng ra xa khỏi Đại Lễ
Đường. Sau đó các giáo viên bố trí sinh viên đứng quan sát ở tất cả cửa
ra vào và cửa sổ của Đại Lễ Đường, kể cả các cửa sổ, cửa nhỏ bên hông.
Tất cả bố trí xong. Thầy trò đều mở to mắt nhìn, đề phòng Bảo Thắng dở
trò ảo thuật. Vài phút trôi qua, rồi mười mấy phút trôi qua, lúc mọi
người đều hướng về lễ đường tìm kiếm, Trương Bảo Thắng đã ở bên trong lễ
đường kêu to : “Tôi ở đây này !” Tức thì mọi người chạy ùa vào lễ
đường.
Sau sự kiện đó, mọi người truyền nhau : có người nói Trương Bảo
Thắng có thuật ẩn thân, có người nói anh có khả năng xuyên tường tẩu
bích. Bảo Thắng trả lời rất giản đơn : “Trái với thông thường, các ông
không thể ngăn trở tôi được”.
Lại có một lần, người ta đem Trương Bảo Thắng khóa nhốt trong một
căn phòng, bên ngoài có người canh giữ, bảo anh ta có cách nào rời khỏi
căn phòng, đi qua một con phố nằm ngang, đi vào tòa lầu đối diện, vô
một căn phòng đã bị khóa, dùng điện thoại báo cho những người giám trắc
anh.
Hoạt động bắt đầu. có người đứng ở cửa phòng nơi Bảo Thắng bị
khóa bên trong, có người đứng trên con phố quan sát, có người đứng giữ
nơi phòng người ta yêu cầu anh đi vào, có người đứng canh bên máy điện
thoại. Mọi người cũng không biết anh cần bao nhiêu thời gian để đi ra.
Có người phỏng đoán : “Chắc là anh ta không thể đi ra ngoài được”.
Vài chục phút trôi qua, chuông điện thoại cuối cùng reo vang. Mọi
người mở cửa hai căn phòng khác nhau , Trương Bảo Thắng đã từ căn phòng
anh bị khóa, đi vào căn phòng anh cần vào, quay số điện thoại gọi đến
người đang chờ điện thoại của anh mà không bị ai phát hiện.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thời đó như nguyên soái Diệp Kiếm Anh
(Chủ tịch Quốc Hội), Bạc Nhất Ba (Bộ trưởng Tài chính, Chủ nhiệm Văn
phòng Quốc Vụ Viện- tức Nội Các, Phủ Thủ tướng) đều rất coi trọng Trương
Bảo Thắng.
Các nhà khoa học Trung Quốc gọi khả năng kỳ lạ của Trương Bảo Thắng
là nhân thể đặc dị công năng tức là công năng đặc biệt lỳ lạ trong cơ
thể con người. Kinh điển Phật giáo thì gọi đó là thần thông, công năng
của Bảo Thắng có thể gọi là “thân như ý thông” Khả năng thật sự của anh
chỉ là một phần nào đó của thân như ý thông, chứ chưa phải hoàn toàn
vượt qua mọi giới hạn. Còn pháp giới Hoa Nghiêm Sự Sự vô ngại là hoàn
toàn vô ngại không có một hạn chế nào. Các vị Phật, Bồ Tát thập địa mới
có khả năng này. Ví dụ Đức Phật A Di Đà đã tạo ra cả một thế giới tây
phương cực lạc để tiếp dẫn những người thực hành đầy đủ tín, nguyện,
hành của pháp tu Tịnh Độ. Kinh điển mô tả thế giới đó như sau :
Cực lạc (zh. 極樂, sa. sukhāvatī) còn được gọi là An lạc quốc
(zh. 安樂國), là tên của Tây phương Tịnh Độ, do Phật A Di Đà giáo hóa và
tiếp dẫn chúng sinh. Tịnh Độ này được A Di Đà tạo dựng lên bằng thiện
nguyện của mình và thường được nhắc đến trong các kinh điển Đại Thừa
Tịnh Độ tông cho rằng nhờ lòng tin kiên cố nơi Phật A Di Đà và kiên trì
niệm danh hiệu của ngài cùng giữ đúng tín, nguyện, hành, hành giả sẽ
được tái sinh nơi cõi này và hưởng một đời sống an lạc cho tới khi nhập
Niết Bàn. Tịnh Độ này được nhắc nhiều trong các bộ A-di-đà kinh (sa. amitābha-sūtra), Vô Lượng Thọ kinh (sa. sukhāvatī-vyūha), Quán vô lượng thọ kinh (sa. amitāyurdhyāna-sūtra).
Theo kinh sách, Cực lạc tịnh độ nằm ở phương Tây cách địa cầu 10 vạn ức
cõi Phật (Thuộc vũ trụ khác, không nằm cùng vũ trụ với cõi thế gian,
nhưng cũng trong Tam thiên đại thiên thế giới, bao gồm Cõi trời, Sắc
giới và Vô Sắc giới). Đây là một nơi vô lượng quang, vô lượng thọ. Thế
giới này tràn ngập mùi hương thơm, đầy hoa trời (hoa mạn-đà-la) nhạc
trời và châu báu. Ở đó không có các đường ác mà chỉ có các bậc Bồ Tát,
cùng chúng Thanh Văn, Duyên Giác, xuất sinh nhờ nguyện lực được sinh về
thế giới này từ trong hoa sen (liên hoa hóa sinh), mọi mong cầu sẽ được
như ý, không còn già chết bệnh tật. Trong thế giới này, mọi chúng sinh
đều cầu pháp và sẽ được nhập Niết-bàn.
Cõi giới đó trang nghiêm, thanh tịnh, chúng sinh ở cõi giới đó do hóa
sanh, không phải thai sanh, đất đai bằng phẳng, không có hầm hố nguy cơ
gây tai nạn. Đất đai cấu tạo bằng một chất liệu thuần túy thanh tịnh,
vững chắc như vàng ròng, không phải bằng đất đá, bụi cát. Trong lòng đất
cũng không có khối dung nham nóng chảy sôi sùng sục, không có những
đường nứt gãy địa chất. Do đó không bao giờ có núi lửa, động đất, không
có sóng thần, phong ba, bão tố.
Tóm lại, pháp là do tâm tạo. Tâm thanh tịnh thì tạo ra thế giới thanh
tịnh. Ở cõi thế gian, tâm chúng sinh có thiện có ác, nên cõi giới có
vui có khổ. Ở cõi địa ngục, tâm chúng sinh toàn ác nên chỉ có toàn cảnh
khổ.
Bốn pháp giới là mô tả toàn bộ tâm giới. Sự pháp giới và Lý pháp giới
là cõi giới tương đối của thế gian, có không gian, thời gian và số
lượng nên có sự hạn chế. Lý Sự vô ngại pháp giới và Sự Sự vô ngại pháp
giới là cõi giới tuyệt đối, giác ngộ, không còn cố chấp, tập khí thế
gian đã hết, không còn không gian, thời gian và số lượng nên không có sự
hạn chế, cảnh tùy tâm mà biến hiện. Biểu diễn của Trương Bảo Thắng
chứng tỏ sự sự vô ngại là có thật chứ không phải nói suông không bằng
chứng.
Truyền Bình
http://duylucthien.wordpress.com