LỜI NÓI ĐẦU
Tuyển tập này rút từ những lời dạy của HT. Sayādaw U Janaka vào năm 
1983 khi Ngài tổ chức khoá tu tại Trung Tâm Thiền Học Phật Giáo Malaysia
(Malaysian Buddhist Meditation Centre) ở Penang. Tuyển tập này lúc đầu 
được Thượng toạ Sujīva, một phần rút từ các pháp thoại buổi tối do HT 
thuyết giảng, còn lại chủ yếu từ các bữa trình pháp của Thiền sinh tại 
khoá tu.
Vì tập sách mỏng này phần lớn là những cuộc phỏng vấn riêng giữa 
Thiền sư và Thiền sinh, cho nên phải nói là rất bổ ích khi Thiền sinh có
trong tay, vì toàn bộ những lời dạy trong tập sách mỏng này dường như 
thể là những lời dạy và lời khuyên trực tiếp từ Thiền sư.
Nguyên bản 1983 được Thượng toạ Paññāvaro hiệu đính năm 1989, nhằm giúp cho Thiền sinh tu khoá Thiền Quán (Vipassanā)
ở Úc do Hoà Thượng tổ chức. Năm 1999, nó được Tỳ-kheo Pesala hiệu đính 
một lần nữa, và được Thượng toạ trù trì U Rewata và Đại Đức U Khemisara 
của Thiền viện Chanmyay ấn hành để tặng cho Thiền sinh.

Những Nguyên Tắc Căn Bản Của Thiền Quán
Nguyên tác: VIPASSANĀ MEDITATION GUIDELINES
Tác giả: Sayādaw U Janaka
Dịch giả: Thích Giác Hoàng
CÁCH TU TẬP
Vipassanā hay còn gọi là Thiền Quán (hoặc là Thiền Minh 
Sát). Trên hết, đó là một quá trình thể nghiệm bằng kinh nghiệm của 
chính mình, dựa trên sự phát triển tỉnh giác một cách có hệ thống và 
thăng bằng. Nhờ cách quán sát và kinh nghiệm lộ trình của thân tâm từng 
sát na của Thiền sinh từ nơi mà tâm dán vào, từ đó tuệ giác phát sanh và
soi rọi vào bản chất của đời sống. Với trí tuệ đạt được nhờ tu tập 
Thiền quán, hành giả có thể sống một đời sống nhẹ nhàng hơn, giảm thiểu 
được sự bám víu, sợ hãi và quờ quạng hơn với thế giới xung quanh mình. 
Do đó, đời sống sẽ được định hướng bằng lòng vị tha, từ ái và trong sáng
hơn.
1. Tâm Ghi Nhận 
Đây là phương pháp niệm phồng xẹp nhằm để hướng tâm của Thiền sinh 
vào hiện tượng của thân tâm để từ đó hiểu được bản chất thật của nó một 
cách đúng đắn hơn.
Kim chỉ nam của thực tập Thiền Quán là quán sát những gì sanh khởi 
ngay lúc nó xảy ra – nghĩa là chỉ ghi nhận trong giây phút hiện tại, và 
do đó hành giả sống trọn với giây phút hiện tại.
Ghi nhận một cách chăm chú và chính xác. Ghi nhận một cách cạn cợt có
thể khiến cho tâm bị phân tán dữ dội hơn. Khi định bị yếu, tâm có 
khuynh hướng bỏ qua các sự vật hiện tượng đang xảy ra, thì lúc ấy các 
hành giả có thể sử dụng phương pháp “dán” một nhãn hiệu cho hiện tượng 
đó.[1]
Sự thật, những từ được dán vào bụng để định danh những gì đang xảy ra 
đó thật sự không cần thiết, nhưng nó lại rất hữu ích trong giai đoạn 
đầu. Cố gắng thực tập cách niệm ‘phồng - xẹp’ này dù cho ban đầu có thất
bại, cho đến khi khả năng ghi nhận tâm của hành giả trở nên nhạy bén 
hơn. Khi hành giả cảm thấy cách ghi nhận qua cách niệm “phồng à, xẹp à” 
trở thành nặng nề cho sự tu tập, thì cách niệm này không cần thực tập 
nữa.
Thiền sinh sẽ nhận chân được mục tiêu của Thiền quán bằng khả năng 
quán sát của sự thực tập ghi nhận này. Tiến trình này có thể giúp hành 
giả khám phá về bản chất thật của thân tâm như thế nào.
2. Thiền Toạ 
Khi Thiền toạ, thân và tâm của hành giả phải được thư giãn đến mức 
tối đa mà hành giả có thể thư giãn được. Phải duy trì tư thế ngồi một 
cách thăng bằng. Đừng có thay đổi tư thế một cách đột ngột và không 
chánh niệm trong thời Thiền toạ. Nếu hành giả muốn đổi tư thế, nên ghi 
nhận tác ý của mình trước rồi hãy thay đổi tư thế sau.
Để cho cân bằng trong Thiền tập, Thiền toạ một tiếng rồi thực tập Thiền hành một tiếng.
Khi thay đổi tư thế Thiền tập, dù là từ Thiền toạ sang Thiền hành hoặc ngược lại, hãy cẩn thận giữ niệm và định không gián đoạn.
Điểm khởi đầu trong Thiền toạ là hành giả phải thiết lập được tác ý 
trên các cảm thọ của vùng bụng khi nó thoi thóp (phồng xẹp). Điều này 
chỉ thực hiện được khi tâm ghi nhận hoặc khả năng niệm phồng xẹp cùng 
với các kinh nghiệm cảm thọ đang xảy ra một cách đồng bộ.
Một khi hành giả ghi nhận được sự thoi thóp của vùng bụng trở nên 
ngày một đều đặn và rõ ràng hơn, thì hãy gia tăng khả năng ghi nhận ấy. 
Nếu thấy rằng các cảm thọ, thoi thóp còn phức tạp thì hãy ghi nhận chúng
một cách tổng quát.
Nếu thấy có sự gián đoạn thoi - thóp ở vùng bụng, hãy ghi nhận thêm 
về trạng thái “đang ngồi” và, hoặc “xúc chạm.” (ghi nhận “đang ngồi” là 
một trạng thái tỉnh giác về các đặc tính hỗ trợ của phong đại.
Đừng có can thiệp vào hơi thở tự nhiên, tức là đừng có cố gắng thở 
mạnh hoặc thở sâu. Nếu thở mạnh hoặc thở sâu như vậy sẽ làm cho hành giả
mệt. Hơi thở nên giữ bình thường.
Khi đối tượng thứ hai xuất hiện và xâm chiếm tâm mình, như là âm 
thanh, tư tưởng, cảm thọ, v.v… thì hãy ghi nhận ‘nghe, nghe’, ‘suy nghĩ,
suy nghĩ’, ‘cảm thọ, cảm thọ’ v.v và v.v… Lúc đầu, thật không dễ dàng 
để ghi nhận toàn bộ các đối tượng đang xảy ra, nhưng khi chánh niệm vững
mạnh rồi thì hành giả có thể ghi nhận tất cả. Do đó, khi đối tượng thứ 
hai được nhận diện là thứ hai, hành giả trở lại ghi nhận đối tượng ban 
đầu, nghĩa là, sự thoi thóp của vùng bụng.
Mặc dầu hành giả được hướng dẫn là hãy bắt đầu bằng cách nhìn sâu sắc
vào sự thoi thóp ở vùng bụng, nhưng hành giả không nên bám chặt vào đó.
Vì đó cũng là một đối tượng trong những đối tượng của Thiền Quán mà 
thôi.
Chánh niệm về sự vận chuyển lên xuống của vùng bụng giúp hành giả có 
kinh nghiệm trực tiếp về phong đại, có nghĩa là đặc tính chuyển động, sự
rung động và đặc tính hỗ trợ của nó. Lúc ấy, hành giả có thể hiểu biết 
đúng đắn về bản chất thật của phong đại, do đó có thể đoạn trừ được sự 
sai lầm về bản ngã.
3. Thiền Hành
Hãy Thiền hành một cách nghiêm túc. Thiền hành một cách đúng đắn và 
nghiêm túc mới có thể giúp hành giả phát triển tỉnh giác một cách trọn 
vẹn, nghĩa là chứng được Thánh quả A-la-hán.
Hành giả bắt đầu thực tập bằng cách tác ý đến chân, rồi ghi nhận từng
bước một khi hành giả di chuyển bằng tác ý một cách rõ ràng. Hãy ghi 
nhận ‘phải, trái’ khi hành giả di chuyển từng bước chân khi Thiền hành.
Mở mắt vừa phải (mở một nửa) và dán nó vào trước mặt khoảng 4 – 5 
feet trước mặt. Hãy tránh nhìn dưới chân khi Thiền hành hay là tâm bị 
phân tán bởi chính bước chân đó.
Đừng để đầu nghiêng quá thấp bởi vì điều này sẽ khiến cho hành giả mau bị căng thẳng, khó chịu trong khi Thiền hành.
Các đối tượng trong khi Thiền tập cần phải tăng dần. Điều đó nghĩa là
số lượng các động tác của chân được quán sát cần phải tăng dần lên. 
Giai đoạn đầu của Thiền hành, hãy ghi nhận hai động tác khoảng 10 phút: 
‘trái, phải’ và ‘trái, phải’ mà thôi. Sau đó hãy ghi nhận 3 động tác của
chân: ‘giở chân, đưa chân tới, thả xuống’. Giai đoạn cuối hãy gia tăng 
khả năng ghi nhận: ‘tác ý, giở chân, đưa chân tới, thả xuống, chạm đất, 
đạp đất.’
Hãy lưu tâm điều này. Tâm của hành giả sẽ lang thang một vài lần khi 
Thiền hành trong một giờ. Do đó, đừng có nhìn xung quanh đó đây trong 
thời gian Thiền hành ấy. Hành giả đã có nhiều năm trong quá khứ để nhìn 
ngắm và cũng còn nhiều năm để ngắm nhìn nữa! Nếu hành giả cứ lơ đãng cặp
mắt trong thời gian tịnh tu, định của hành giả khó mà thiết lập được. 
Mắt vọng động quả thật là một vấn đề trở ngại đối với Thiền sinh. Do đó,
hãy hết sức lưu tâm và chánh niệm khi có ý niệm nhìn mọi sự vật xung 
quanh.
Để Thiền tập có hiệu quả, Thiền sinh phải dụng công ít nhất 6 tiếng 
Thiền hành và 6 tiếng Thiền toạ mỗi ngày. Đây là điều mà Thiền sư mong 
đợi!
4. Chánh Niệm Trong Đời Sống Hằng Ngày
Tỉnh giác trong các sinh hoạt hằng ngày là điều vô cùng thiết yếu đối
với Thiền sinh. Một khi không có khả năng quán sát các sinh hoạt hằng 
ngày của mình, thì hành giả đó đánh mất đời sống của chính mình. Điều đó
nghĩa là vị ấy không còn là một Thiền sinh thực thụ nữa, bởi vì niệm, 
định và tuệ đều vắng mặt!
Muốn cho niệm căn được vững mạnh thì hãy tỉnh giác liên tục, không hề bị gián đoạn trong mọi sinh hoạt hằng ngày của mình.
Sự duy trì chánh niệm như vậy có công năng phát sinh đại định, và chỉ
khi ngang qua đại định như vậy hành giả mới có thể nhận chân được bản 
chất cố hữu của hiện tượng thân tâm. Điều này dẫn đến hành giả chấm dứt 
mọi khổ đau.
Không ghi nhận được các sinh hoạt hằng ngày tạo nên khoảng trống lớn 
của thất niệm. Tiếp tục duy trì khả năng ghi nhận rất cần thiết để tỉnh 
giác phát triển từng sát na này đến sát na khác. Với cách Thiền tập này 
hành giả sẽ khám phá nhiều điều mới lạ ngay trong đời sống hằng ngày.
Suốt thời gian tịnh tu, tất cả những hành giả cần phải làm, đó là chánh niệm.
Không có gì để vội vã. Hoà thượng Mahāsi Sayādaw đã so sánh một hành 
giả Thiền Quán giống như một người yếu đuối, một kẻ bệnh tật cần phải di
chuyển rất chậm.
Làm mọi công việc chậm rãi giúp tâm của hành giả được định. Nếu hành 
giả muốn Thiền tập được phát triển, hành giả phải tập quen dần chậm rãi 
mà thôi.
Khi quạt máy quay ở tốc độ nhanh, bạn không thể thấy sự thật nó như 
thế nào. Nhưng khi nó được vặn chậm lại, bạn có thể thấy nó như thế nào.
Do đó, hành giả cần phải làm chậm rãi một cách có tác ý, từ đó mới thấy
được lộ trình thân tâm thật sự như bản chất của chúng.
Khi bạn đang đoanh vây bởi một nhóm người đang làm mọi việc vội vã, 
bạn sẽ lãng quên mọi thứ xung quanh. Thay vì như vậy, hành giả hãy tinh 
tấn ghi nhận các hoạt động của thân tâm mình.
Nói chuyện là nỗi nguy hại lớn lao cho lộ trình tu tập Thiền Quán. 
Năm phút nói chuyện có thể phá sạch Thiền tập niệm định của hành giả cả 
ngày!
5. Đau Nhức và Kiên Nhẫn
Đau là bạn hữu của hành giả. Đừng có trốn tránh nó. Nó có thể dẫn hành giả đến Niết-bàn (Nibbāna).
Đau không có thông báo hành giả nó sẽ đến lúc nào. Nó có thể không 
chịu tan biến. Nhưng nếu nó như vậy, hành giả rất có thể khóc vì nó. Một
số Thiền sinh đã rời trường Thiền vì nó!
Một khi đau được hành giả quán sát, không phải để nó mau chóng tan đi, nhưng để nhận chân được bản chất thật của nó.
Đau là chìa khoá mở cửa Niết-bàn.
Khi hành Thiền có định, đau không phải là một vấn đề. Nó là một quá 
trình tự nhiên. Nếu hành giả dụng công quán sát nó, tâm hành giả sẽ thể 
nhập với nó và khám phá ra bản chất của nó.
Khi đau đến, hãy ghi nhận trực tiếp với cơn đau ấy. Không để ý đến nó
chỉ khi nào nó xâm chiếm hoàn toàn và liên tục. Hành giả chỉ có thể 
vượt qua cơn đau nhờ an trú trong định, và định là kết quả của chánh 
niệm liên tục.
Nếu quá đau sinh khởi trong thời Thiền hành, thỉnh thoảng phải dừng lại và ghi nhận nó.
Hãy kiên nhẫn với bất cứ điều gì và mọi thứ có thể kích động đến tâm trí của hành giả.
Kiên nhẫn dẫn đến Niết-bàn (Nibbāna) – không kiên nhẫn dẫn đến địa ngục.
6. Ghi Nhận Các Trạng Thái Tâm 
Khi ghi nhận các trạng thái tâm hay các trạng thái tình cảm, hãy ghi 
nhận nó nhanh chóng, tinh tấn và chính xác, nhờ đó mà tâm ghi nhận được 
liên tục và mạnh mẽ.
Trừ phi hành giả có thể ghi nhận được các tư tưởng vọng động, bằng 
không hành giả đã bị đánh bại rồi khi nỗ lực tập trung tâm ý. Nếu tâm 
của hành giả có khuynh hướng vọng động, điều đó cũng là dấu hiệu hành 
giả thật sự chưa đủ mạnh để ghi nhận được các tư tưởng. Khả năng đòi hỏi
để làm được việc này quả thật là cần yếu.
Nếu hành giả ý thức được nội dung tư tưởng, các tư tưởng đó sẽ có 
khuynh hướng tiếp tục. Nếu hành giả ý thức được chính các tư tưởng đó, 
thì tư duy đó có thể được chấm dứt.
Đừng dính mắt đến dòng tư duy và học thuyết. Thiền định vượt ngoài 
thời gian và không gian. Do đó, đừng bị cột trói trong tư duy và học 
thuyết. Tuệ giác sẽ phát sinh khi có định. Tư duy có tính cách biện 
chứng và triết học sẽ đến khi tâm có định một cách hời hợt.
Hôn trầm có thể vượt qua chỉ khi hành giả gia công trong tu tập. Cách
niệm niệm ‘thoi thóp’ (phồng xẹp) liên tục quả thật là có tác dụng lớn.
Ghi nhận buồn ngủ một cách liên tục. Nếu hành giả chấp nhận sự lười 
biếng, có nghĩa là hành giả đã đi một nửa đoạn đường buồn ngủ rồi!
Thật ra, khả năng ghi nhận luôn luôn có mặt, nhưng điều chướng ngại 
là hành giả do dự để thực hiện điều đó. Thái độ tâm lý vô cùng quan 
trọng. Do đó, đừng có bi quan. Nếu hành giả lạc quan, hành giả sẽ cho 
mình một cơ hội. Hài lòng trong mọi tình huống sẽ làm cho hành giả ít 
phân tâm hơn.
Con người có khả năng vô tận và có đủ sức mạnh để làm được nhiều 
việc. Nếu hành giả muốn phát triển Thiền tập này cho đến mục tiêu tối 
hậu của nó là tỉnh giác hoàn toàn, hành giả cần phải hạ
quyết tâm khi dụng công. Nếu hành giả hạ quyết tâm trong công phu như 
vậy, hành giả sẽ đạt được giải thoát tối hậu, thoát khỏi những tập nhiễm
của chấp thủ, sợ hãi và vô minh.
HƯỚNG DẪN TRÌNH PHÁP
Tất cả Thiền sinh phải trình pháp mỗi ngày cho Thiền sư. Thiền sinh 
trình những gì Thiền sinh ghi nhận và kinh nghiệm trong ngày Thiền tập 
đó. Thiền sư sẽ điều chỉnh những chỗ sai lầm cho Thiền sinh, hướng dẫn 
các bước Thiền tập mới, và sẽ nâng niềm cảm hứng của Thiền sinh để Thiền
sinh có thể tiến bộ hơn nữa.
Vào thời trình pháp, cố gắng mô tả những gì ghi nhận được khi các 
trạng thái thoi thóp, các cảm thọ của vùng bụng, các ý tưởng, các tưởng 
tượng phóng tác của Thiền sinh, cũng như các sinh hoạt hằng ngày.
Hãy mô tả các điều trên chi tiết. Cố gắng chính xác và đi đúng vấn đề một.
Suốt thời trình pháp không cần ngưng lại để Thiền sư nhận định. Chỉ 
khi nào trình bày xong suôi tất cả kinh nghiệm của Thiền sinh, thì Thiền
sư sẽ cho nhận định và hướng dẫn tiếp.
Hãy lắng nghe cẩn trọng từng lời hướng dẫn của Thiền sư và hãy theo 
đó mà tinh cần tu tập. Nếu có nghi ngờ điều gì, hãy thưa hỏi Thiền sư.
Khi Thiền sinh được hỏi bất cứ điều gì thì hãy trả lời vấn đề đó, đừng có nói vấn đề khác.
Hãy trình bày tất cả kinh nghiệm, ngay cả chúng dường như không quan trọng đối với hành giả.
Nhiều Thiền sinh có kinh nghiệm là ghi lại vài hàng ngắn gọn sau mỗi 
giờ Thiền tập, thì điều đó rất hữu ích cho vị ấy, nhưng cũng nên nhớ là 
không nên quan trọng hoá quá mức, cố gắng nhớ mọi thứ trong khi Thiền 
tập. Điều này sẽ trở ngại cho trạng thái định.
(Hết)
[1]
Điều này được giải thích trong phần Thiền Toạ phía dưới. Cách “định 
danh” này rất đơn giản. Vì khi hành giả mới thực tập Thiền quán, vọng 
tưởng khởi lên nhiều quá, Thiền sinh không có khả năng quán sát thân tâm
mình, nên Thiền sư đã chế ra cách, khi hít vô, bụng phình hơn một chút,
mình niệm thầm “phồng à”, khi thở ra bụng xẹp lại một chút, hành giả 
niệm thầm “xẹp à” để giúp hành giả trong những ngày đầu dễ tập trung hơn
(Lời người dịch).
Nội dung này được Sc.Như Nguyện, thiền sinh đang theo học khóa thiền tại Myanmar cung cấp