Dù gọi là “thiền” (tiếng Việt), “chan” (tiếng Hoa) hay “zen” (tiếng
Nhật)… thì cũng đều có nguồn gốc từ “dhyana” (tiếng Sanskrit) hay
“jhanas” (Pali). Theo ngữ nguyên, “jha” là nhìn, quan sát (tự nhìn lại
bản thân), theo dõi, “ana” là thở, hơi thở, khí. “Jhanas” hay “dhyana”
là quan sát hơi thở, nhận thức, ý thức rõ, cảm nhận được việc thở! Nghe
thì có vẻ đơn giản nhưng thực ra không giản đơn chút nào! Vấn đề là tại
sao và làm cách nào để chỉ từ một việc có vẻ rất đơn giản là quan sát
hơi thở lại có thể dẫn tới tuệ giác, một sự chuyển hóa từ “khí” thành
“trí”?
Quan sát hơi thở
Câu hỏi đặt ra là tại sao quan sát hơi thở? Quan sát hơi thở có gì hay?
Tại sao không chọn các đối tượng khác để quan sát? Thật ra quan sát cái
gì cũng được, nhưng quan sát hơi thở có lợi thế hơn. Tim đập lúc nhanh
lúc chậm, khó theo dõi, hoàn toàn ngoài ý thức, khó can thiệp. Dạ dày
làm việc âm thầm, khó quan sát. Các bộ phận khác cũng vậy. Trừ hơi thở!
Hơi thở dễ quan sát nhất vì nằm ngay trước mũi, ngay dưới mắt mình! Lúc
nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Quan sát hơi thở thì không ai
nhìn thấy, chỉ một mình mình biết!
Mỗi phút phải thở cả chục lần. Lúc nhanh lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc
phì phò lúc êm dịu. Hơi thở lại rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh
đẹp, ta nín thở. Lúc lo âu, ta thở hổn hển. Lúc sảng khoái, ta thở lâng
lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp, ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn
trạng. Nhờ đó mà ta quan sát được cái tâm của mình.
Thở cũng gắn với các hoạt động cơ bắp. Khi mệt, ta thở bở hơi tai, mệt
đứt hơi, mệt hết hơi. Khi khỏe, ta thở nhẹ nhàng, sảng khoái! Nhờ đó mà
ta quan sát được cái thân của mình. Rõ ràng chỉ có hơi thở mới là sợi
dây nhạy cảm buộc thân vào tâm, là cầu nối giữa thân và tâm. Không những
thế, thở vừa là ý thức, vừa là vô thức, như không cần ta, như ở ngoài
ta, như không có ta. Quan sát hơi thở, ta còn có dịp đào sâu xuống… vô
thức. Ta thấy thở gắn với sự sống chết của kiếp người. Còn sống là còn
thở, chết là hết thở, là tắt thở, là ngừng thở. Để ý một chút sẽ thấy
đời người thực ra chỉ là… một hơi thở! Khi chào đời, em bé khóc một
tiếng thật to để hít mạnh không khí vào buồng phổi để rồi khi lìa đời,
cụ già lại thở hắt ra một cái, trả lại cho đời tất cả những gì mình đã
vay mượn! Giữa hai lần hít vào thở ra đó là những đợt thở… lăn tăn như
những gợn sóng nhỏ, nối kết lại với nhau, ta có cuộc “rong chơi trong
cõi Ta bà”!
Mỗi hơi thở vào ra trung bình khoảng 5-10 giây. Mỗi giây, trong cơ thể
con người đã có hàng trăm triệu hồng cầu bị hủy diệt và hàng trăm triệu
hồng cầu khác được sản sinh. Do đó, quan sát hơi thở giúp ta thấy được
sự sinh diệt. Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng, chuyển hóa cảm xúc
và cả hành vi của mình. Đang giận sôi người mà kịp nhớ lại, quan sát hơi
thở của mình thì sẽ quên giận, hơi thở được điều hòa trở lại lúc nào
không hay, do điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Nói khác đi,
ta có thể dùng việc quan sát hơi thở để kiểm soát cảm xúc và hành vi.
Quan sát hơi thở cũng lôi kéo ta trở về hiện tại tức khắc, không còn đắm
mình trong dĩ vãng hay tương lai!
Thiền định
Sự hô hấp thật sự không phải xảy ra ở phổi mà ở trong từng tế bào. Do
vậy, khi có cách điều chỉnh được lượng khí ra vào, hiệu ứng sẽ tác động
đến từng tế bào riêng lẻ. Não bộ, với trọng lượng rất nhỏ, chỉ khoảng 2%
thể trọng, đã tiêu dùng đến 30% lượng ôxy đưa vào cơ thể. Khi giận dữ,
lo âu, sợ hãi, cơ thể tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Cho nên những lúc
đó ta luôn cảm thấy kiệt sức, rã rời! Ngủ là một cách giảm tiêu hao năng
lượng, nhưng vẫn còn bị co cơ, vẫn còn chiêm bao. Một đêm nằm ác mộng
sẽ thấy bải hoải toàn thân khi thức giấc! Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ
năng lượng một cách đáng kể, còn hơn cả giấc ngủ. Một khi cơ thể giảm
tiêu thụ năng lượng thì các tế bào được nghỉ ngơi, nên toàn thân cảm
thấy thấy nhẹ nhàng, sảng khoái.
Phổi như một máy bơm đưa khí vào ra nhờ áp suất thay đổi. Khi áp suất
trong phổi và các phế nang âm thì khí bên ngoài tự động tràn vào lấp đầy
phổi và các phế nang, đến khi lượng khí bên trong đầy thì chuyển sang
áp suất dương, phổi sẽ đẩy khí ra. Trong quá trình đó, có một thời điểm
áp suất cân bằng nhau, tức áp suất bằng không, thì khí bên trong cơ thể
và bên ngoài vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt. Đó chính là
quãng lặng. Quãng lặng đó ở cuối thì thở ra - trước khi hít vào trở lại -
thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng, yên tịnh, vì không hề tốn năng
lượng. Như cánh chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe ngon trớn ở số
không, không tốn nhiên liệu! Đó chính là giai đoạn “prana”. “Pra” là
trước “ana” là hít vào (cũng có nghĩa là sau thì thở ra). Trong yoga có
pranayama, kiểm soát hơi thở. Trong thiền định, không còn phải là vấn đề
kiểm soát hơi thở nữa mà hơi thở tự kiểm soát! Đến một lúc nào đó hành
giả không cảm nhận mình thở nữa. An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Có thể nói
đến một phương pháp thiền tập - tạm gọi là “Pranasati”, tức là đặt niệm
vào quãng lặng - ở đây chăng? Những hành giả giàu kinh nghiệm (thiện
xảo) cho biết họ có thể vào định ngay hơi thở đầu tiên có lẽ nhờ rèn
luyện mà quãng lặng của họ ngày càng dài ra, mênh mông như không còn
biên giới, như hòa tan vào hư không, lắng đọng, thanh thoát. Lúc đó họ
không còn ý niệm về không gian, thời gian, về ta, về người… Tiến trình
hô hấp vẫn diễn ra sâu trong các tế bào (thâm hô hấp), nhưng ở mức thấp
nhất, nhẹ nhàng nhất, tiêu thụ năng lượng tối thiểu và do vậy nhu cầu
cung cấp năng lượng không còn đòi hỏi cao nữa!
Khi nói đến thiền, ta thường nghĩ ngay đến việc ngồi thiền. Thiền thực
ra không nhất thiết phải ngồi, không nhất thiết phải kiết già, bán già.
Đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền được vì đi đứng nằm ngồi gì đều phải…
thở! Người Nhật, người Tây Tạng đều có cách “ngồi” thiền riêng của mình,
người phương Tây còn khác hơn nữa, miễn sao có một tư thế thoải mái, dễ
chịu, buông xả toàn thân là được. Thế nhưng cách ngồi tréo chân (kiết
già, bán già) lại có lợi thế hơn cả. Tại sao? Vì khi ta đứng, ta đi, các
bắp cơ phía trước của hai chân co lại để nâng đỡ thân mình, trong khi
các bắp cơ phía sau thì duỗi ra. Lúc ngồi tréo chân, ta đã làm cho các
bắp cơ đổi chiều, một thứ “đối chứng trị liệu” hiệu quả nhanh.
Giữ lưng thẳng đứng cũng là một yêu cầu vô cùng quan trọng trong thiền.
Ta dễ có khuynh hướng chiều theo độ cong tự nhiên của cột sống dưới sức
nặng của cơ thể do trọng lực, và nhất là tuổi tác, do đó dễ dẫn đến cong
vẹo cột sống hoặc đau cột sống cổ, đau thắt lưng. Ở tuổi trung niên,
nhiều người đã bị những cơn đau dữ dội đến phát khóc. Nguồn gốc sâu xa
là do cách sống căng thẳng, chịu đựng, dồn nén lâu ngày. Cơn đau là
tiếng chuông báo động để ta “tỉnh ngộ”! Giữ lưng thẳng đứng trong lúc
ngồi thiền là điều cần thiết. Kết hợp với tập thể dục cho phần bụng,
nghĩa là tập cho thắt lưng được dẻo dai, cũng sẽ làm chậm quá trình lão
hóa.
Trong thiền, một yếu tố quyết định nữa là sự thả lỏng toàn thân,“buông
xả” toàn thân. Tiếng Việt có một từ rất hay là xả hơi! Khi quá mệt, quá
căng thẳng thì nghỉ xả hơi! Khi đó, không một bộ phận nào của cơ thể còn
phải căng, phải gồng nữa, kể cả vỏ não. Tiêu hao năng lượng cho trương
lực cơ và hoạt động của vỏ não sẽ giảm thấp nhất có thể được. Y học đã
chứng minh việc tiêu hao năng lượng trong thiền rất thấp, dưới mức
chuyển hóa cơ bản, thấp hơn cả khi ngủ, nhờ vậy mà năng lượng được tích
lũy tốt hơn.
Cơ thể ta có hơn 10.000 tỉ tế bào. Mỗi tế bào thực chất là một cái túi,
một loại “sinh vật” háo ăn, háo làm, háo tiêu thụ ôxy - kết hợp với thức
ăn qua những phản ứng oxy hóa - để tạo ra năng lượng. Nhưng oxy hóa
càng mạnh thì càng tạo thêm các gốc tự do và các chất… bã, làm cho cơ
thể mau mệt mỏi, già nua! Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức
giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể, cũng sẽ thấy bớt cần thiết
phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn. Ăn ít đi mà vẫn đáp ứng đủ nhu
cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc,
tinh thần sẽ sảng khoái. Các nghiên cứu gần đây cho thấy những sinh vật
bị cho nhịn đói vừa phải thì sẽ sống lâu hơn và trẻ hơn.
Bầu khí quyển chúng ta thở hôm nay so với cách đây 700 triệu năm (khi có
những sinh vật đơn bào đầu tiên trên trái đất) cũng chẳng có sự khác
biệt! So với người “anh em” đơn bào đó, ta cũng đang cùng hít chung một
bầu khí, cùng bú chung một “núm vú” vũ trụ, cùng với muôn loài khác nữa!
Các sinh vật cùng chia sẻ một cách… bình đẳng, không phân biệt. Ta hít
lấy ôxy của không khí, lại tạo ra carbonic, trong khi cây cỏ hút
carbonic, tạo ra ôxy. Bầu khí quyển vẫn không thay đổi, không thêm bớt.
Nhưng con người có thể làm hại môi trường sống của mình mà không hay nếu
cứ theo đà hủy diệt sự sống của thiên nhiên và muôn loài trên hành tinh
xanh này!
Đừng tìm đâu cho mất công. Hãy quay về nương tựa chính mình. Bởi xét cho
cùng, ai có thể “thở” giùm ai? Ai có thể “thiền” giùm ai?
Theo BS Đỗ Hồng Ngọc (*) - SGTT