Trái lại, khi có tạp
niệm xen vào hoặc lúc lo âu
căng thẳng, sự phán đoán sẽ kém chính xác. Sự căng thẳng sẽ làm mệt bộ
não, cơ thể tiêu phí nhiều năng lượng mà việc giải quyết công việc lại
kém hiệu quả. Một sinh viên thiếu tập trung sẽ khó tiếp thu bài giảng.
Một công nhân đứng máy lơ đểnh sẽ dễ mắc tai nạn lao động. Một nhà
nghiên cứu mà tinh thần không ổn định sẽ khó có thể hoàn thành công
trình của mình. Ngoài ra, trong điều kiện phát triễn của nền văn minh
công nghiệp với tính cạnh tranh cao, con người luôn phải đối mặt với
nhiều loại áp lực thì việc phải gánh chịu stress làm giảm sức đề kháng
và dễ dẫn đến nhiều bệnh tật là điều đáng lo ngại. Từ những thực tế nầy
nhiều người đã tìm đến với thiền.
THIỀN LÀ GÌ?
Nói
một
cách đơn giản, thiềnlà những phương pháp
giúp hình thành thói quen tập trung tư tưởng để làm đúng công việc mà
chúng ta muốn làm và đang làm. Đặc biệt thiền giúp điều
chỉnh lại tình trạng mất cân bằng giữa hưng phấn và ức chế của hệ thần
kinh do quá trình sinh hoạt và làm việc căng thẳng gây ra.
Có
nhiều phương pháp thiền khác
nhau, nhưng tựu trung vẫn là giúp người luyện tập có thể tập trung chú ý
vào một điểm ở trong hoặc ngoài cơ thể, vào một đề tài, một hình ảnh
hoặc một câu "chú" nhất định nhằm đưa cơ thể tiến dần vào tình trạng
nhập tĩnh khi tâm không còn bất cứ ý niệm nào.
CÁC BƯỚC THÔNG THƯỜNG CỦA MỘT LẦN NGỒI THIỀN
1.
Chuẩn bị: Trước khi ngồi thiền, cần hoàn
tất các công việc thường nhật trong ngày để tư tưởng khỏi vướng bận;
Tắm rửa sạch sẽ, nới lỏng quần áo; Chọn một nơi yên tĩnh, thoáng mát,
không có ruồi muỗi.
2.
Tư thế: Có thể
chọn tư thế ngồi xếp bằng thông thường, ngồi bán già hoặc ngồi kiết già.
Lưng thẳng, cằm hơi đưa vào để cột sống được thẳng. Đầu lưỡi chạm nhẹ
nướu răng trên. Hai bàn tay buông lỏng đặt trên hai đùi hoặc đan chéo
nhau để trước bụng, miễn sao hai tay cảm thấy thoải mái, dễ giãn mềm cơ
bắp là được.
Tư
thế kiết già (thế hoa sen),
đặc biệt thích hợp cho việc ngồi thiền: Ngồi xếp bằng tự nhiên, dùng hai
bàn tay nắm bàn chân phải từ từ gấp chân lại và đặt bàn chân lên đùi
trái, gót chân ép sát bụng, lòng bàn chân ngửa lên trời. Kế tiếp dùng
hai bàn tay nắm bàn chân trái gấp lại, đặt bàn chân trái lên đùi phải,
kéo nhẹ gót chân vào sát bụng, bàn chân ngửa lên trời.
Các
đạo sư Yoga cho rằng vị thế
khóa nhau của hai chân trong tư thế kiết già sẽ tạo sức ép lên hai luân
xa ở dưới cùng của cơ thể, khiến dòng năng lượng có khuynh hướng đi lên
để nuôi dưỡng các trung tâm lực dọc theo cột sống và kiểm soát toàn bộ
hệ thần kinh. Những thí nghiệm khoa học về Yoga cho thấy chỉ cần ngồi tư
thế hoa sen, dù ta không cố gắng tập trung tư tưởng, vẫn có một sự thay
đổi ở sóng não từ nhịp Beta khoảng 20 chu kỳ mỗi giây xuống nhịp Alpha
khoảng 8 chu kỳ mỗi giây. Nhịp Alpha là tình trạng sóng não của một
người đang trầm tĩnh và minh mẫn. Điều nầy có nghĩa là tự thân tư thế
kiết già đã có công năng làm êm dịu thần kinh chưa kể đến những cố gắng
khác của việc ngồi thiền.
Kết quả trên cũng phù hợp với những lý luận của y học cổ
truyền khi biết
rằng ở thế kiết già, xương mác ở cẳng chân trái đã tạo một sức ép khá
mạnh lên đúng vị trí huyệt Tam âm giao ở chân phải (huyệt Tam âm giao ở
chỗ lõm bờ sau xương chày, trên mắt cá chân trong khoảng 6cm). Như vậy,
trong suốt thời gian ngồi kiết già, huyệt Tam âm giao sẽ được kích thích
liên tục. Tam âm giao là huyệt giao hội của 3 đường kinh âm: Tỳ, Can và
Thận nên tác động kích thích này sẽ có tác dụng "thông khí trệ", "sơ
tiết vùng hạ tiêu" và điều chỉnh những rối loạn nếu có ở những kinh và
tạng có liên quan, đặc biệt là tác dụng "Dưỡng âm kiện Tỳ" và "Sơ Can
ích Thận" mà các thầy thuốc châm cứu đều biết khi tác động vào huyệt
này. Những người có dấu hiệu căng thẳng thần kinh, những bệnh nhân "Âm
hư hỏa vượng" hay gặp các cơn bốc hỏa về chiều và những phụ nữ đang ở
tuổi mãn kinh sẽ dễ dàng cảm nhận được hiệu quả khi ngồi vào thế kiết
già.
3.
Giảm các kích thích giác
quan: Một trong những yếu tố quan trọng để dễ nhập tĩnh là không
bị các kích thích bên ngoài quấy nhiễu. Người xưa gọi là "bế ngũ quan".
Trên
thực tế, những quan sát qua
điện não đồ cho thấy chỉ cần nhắm mắt để loại bỏ thị giác là đã giảm
được 50% các kích thích từ bên ngoài. Do đó, nên nhắm mắt lúc ngồi
thiền. Khi nhắm mắt chỉ cần khép hờ để bảo đảm không có sự căng cơ ở
vùng mặt.
4. Giãn mềm cơ bắp: Ngày nay, khoa
học đã biết rất rõ tác động qua lại giữa 2 yếu tố thần
kinh và cơ. Khi thần kinh căng thẳng, trương lực cơ bắp cũng gia tăng.
Ngược lại, nếu điều hòa trương lực cơ bắp ở mức thư giãn thì thần kinh
cũng sẽ được ổn định. Chúng ta dễ dàng nhận thấy điều này khi quan sát
một người đang giận dữ. Khi tức giận, gân cổ nổi lên, cơ bắp căng cứng,
bàn tay nắm chặt...; đó là lúc thần kinh quá căng thẳng. Ngược lại, hãy
nhìn một người đang ngồi ngủ gật trên xe. Lúc người này thiếp đi là lúc
thần kinh ở mức thư giãn, tâm không còn ghi nhận ý niệm gì cụ thể và cơ
bắp cũng giãn mềm nên đầu dễ dàng ngoẹo sang một bên. Vì vậy, trong quá
trình hành thiền, việc chủ động giãn mềm cơ bắp sẽ thúc đẩy nhanh quá
trình thư giãn, nhập tĩnh.
Trên thực tế, chỉ cần quan tâm
giãn mềm cơ mặt và cơ bàn tay là đủ. Điều này căn cứ vào hai quy luật:
Thứ nhất, mặt và hai bàn tay là những vùng phản chiếu có các điểm tương
ứng với toàn bộ cơ thể, do đó nếu thư giãn được vùng mặt hay hai bàn tay
sẽ thư giãn được toàn thân. Thứ hai, theo học thuyết Paplop, khi tập
trung gây ức chế thần kinh một vùng hoặc một điểm ở vỏ não (qua hiệu ứng
thư giãn) thì sự ức chế này sẽ lan tỏa gây ức chế toàn bộ vỏ não.
5. Tập trung
tâm ý: Đây là giai đoạn chính của buổi hành thiền. Như đã nói ở
phần trên,
thiền chính là sự tập trung tư tưởng vào một điểm hoặc một đề mục duy
nhất để dần dần đạt đến tình trạng trống rỗng, không còn vướng mắc vào
bất cứ một ý niệm nào. Để thư giãn thần kinh hoặc để chữa bệnh, chỉ cần
duy trì tình trạng tập trung vào điểm hoặc vào đề mục tập trung trong
một thời gian nhất định là đủ. Điều quan trọng là nên tập đều đặn hàng
ngày, mỗi ngày một hoặc hai lần. Lúc đầu, ngồi khoảng 15 phút mỗi lần,
dần dần tăng lên. Sau một thời gian, khi não bộ đã ghi nhận thói quen
thiền thì việc ngồi vào tư thế, nhắm mắt, việc đầu lưỡi chạm nhẹ nướu
răng trên hoặc ám thị giãn mềm cơ bắp sẽ hình thành nên những phản xạ có
điều kiện để đưa người tập vào trạng thái thiền định.
Về điểm để tập trung tư tưởng,
một vị trí ở vùng bụng dưới mà nhiều trường phái thường chọn làm điểm
tập trung khi ngồi thiền là huyệt Đan điền, cách dưới rốn khoảng 3cm.
Nên tập trung vào điểm này vì nhiều lẽ.
Theo y học cổ truyền, "thần đâu
khí đó". Do đó, khi tập trung vào một điểm ở vùng dưới cơ thể thì khí và
huyết sẽ lưu chuyển về phía dưới, làm nhẹ áp lực ở vùng đầu, dễ dẫn đến
nhập tĩnh.
Đan điền còn gọi là Khí hải hay
Khí huyệt, ngụ ý là nơi "luyện thuốc", là "bể chứa khí". Đan điền là một
huyệt quan trọng trong việc luyện dưỡng sinh của các đạo sĩ, các nhà
khí công. Có nhiều trường phái khác nhau và việc tu luyện rất phức tạp.
Tuy nhiên, các công phu của đạo gia nói chung và việc phát sinh nội
khí để chửa bệnh nói riêng đều dựa vào bí quyết "hồi quang nội thị"
hoặc "ngưng thần nhập khí huyệt". Tâm không duyên ra ngoài,
hướng đôi mắt vào trong gọi là hồi quang, tập trung thần vào bên
trong cơ thể gọi là nội thị. Ngưng thần nhập khí huyệt
chính là tập trung tâm ý tại Đan điền để phát sinh nội khí. Lâu dần
chân khí được sung mãn sẽ khai thông các kinh lạc bế tắt hoặc bồi bổ cho
ngủ tạng để tăng cường sức khoẻ.
Một số người tâm dễ xao động có
thể cần một phương pháp kiểm soát tâm chặt chẽ hơn. Trường hợp này, nên
kết hợp quan sát hơi thở với việc tập trung tại Đan điền bằng cách quan
sát sự phồng lên và xẹp xuống tại bụng dưới. Lúc hít vào bụng dưới hơi
phồng lên, lúc thở ra bụng dưới hơi xẹp xuống. Chỉ cần thở bình thường.
Không cần quan tâm đến thở sâu hay thở cạn, đều hay không đều. Điều quan
trọng ở đây là tập trung quan sát để biết rõ ta đang hít vào hay đang
thở ra thông qua chuyển động phồng lên hay xẹp xuống ở bụng dưới. Sở dĩ
chọn quan sát hơi thở ở bụng dưới mà không phải ở đầu mũi hoặc ở ngực là
nhằm tạo quán tính thở sâu kết hợp với việc phát sinh nội khí ở Đan
điền như đã dẫn ở phần trên. Thỉnh thoảng sẽ có những lúc tâm bị phân
tán, các tạp niệm xen vào. Điều này là bình thường. Chỉ cần khi nhớ ra
hãy tập trung trở lại Đan điền hoặc tiếp tục quan sát hơi thở vào ra là
đủ. Lâu dần, những tạp niệm sẽ bớt đi, thời gian tập trung sẽ dài hơn,
hơi thở sẽ đều, chậm và nhẹ hơn, cho đến lúc không còn ý niệm và quên
luôn cả hơi thở. Nếu thường xuyên đạt đến tình trạng này, có nghĩa người
tập đã tiến được một bước rất dài. Không chỉ là không bệnh tật mà còn
là sự tự tin, cảm thông và hoà hợp để dần dần đạt đến điều mà người xưa
gọi là thiên nhân hợp nhất.
6. Xả thiền: Sau
khi ngồi thiền, trước khi đứng dậy cần làm một số động tác để cơ thể hết
tê mỏi và khí huyết lưu thông bình thường. Từ từ buông thõng hai chân,
xoay người qua lại nhiều lần, xoay ở vùng hông và vùng cổ. Dùng hai tay
vuốt nhẹ hai bên sóng mũi từ đầu mũi xuống chót cằm, vuốt ấm vành tai.
Xoa hai lòng bàn tay vào nhau cho ấm rồi áp vào mắt. Dùng hai bàn tay
xoa bóp dọc theo hai chân, từ đùi dài xuống bàn chân. Xoa ấm hai lòng
bàn chân.
Việc xả thiền tùy thuộc vào mỗi
buổi thiền. Nếu chỉ thiền khoảng 15 phút hoặc khi có công việc cần đứng
lên gấp thì chỉ cần co duỗi hai chân và xoay người, hoặc lắc cổ qua lại
nhiều lần là đủ.
NGỒI THIỀN CÓ GÂY NGUY
HIỂM GÌ KHÔNG?
Một vấn đề cuối cùng mà những người
mới tập thiền thường thắc mắc là liệu ngồi thiền có gây nguy hiểm gì
không? Câu trả lời sẽ tùy thuộc vào phương pháp và động cơ của việc ngồi
thiền. Một số phương pháp thiền có phối hợp với vận khí hoặc có sự hỗ
trợ khai mở một số trung tâm lực trong cơ thể nhằm thúc đẩy nhanh quá
trình sinh khí và gia tăng nội lực. Các phương pháp này có thể gây những
nguy hiểm đi kèm nếu người tập thiếu những kiến thức về khí công, về y
học truyền thống hoặc không có đạo sư hướng dẫn để vận dụng và kiểm soát
kịp thời nguồn năng lực mới phát sinh. Trái lại, nếu ngồi thiền để đạt
đến sự tĩnh lặng trong tâm trí, để thư giãn thần kinh và tăng cường sức
khỏe, không vận khí, không bám víu vào bất cứ ảo giác, âm thanh hoặc
hình ảnh nào thì không có gì nguy hiểm./.
Lương y VÕ HÀ (phatgiaovnn.com)