Tôi gọi, niềm tin, hạnh và
nguyện ấy là “bệ phóng” được xây dựng để đưa mình về Tây phương cực lạc!
Đường
về Tây phương không xa đâu, nếu ta có niệm Phật, có tin, có nguyện.
Trong ảnh: Lễ vía Đức Phật A Di Đà tại chùa Đức Hòa, Bình Dương - Ảnh:
Chí Giác Thông
Một chủ thể muốn đi đến một điểm nào đó mà không
có la bàn chỉ dẫn hoặc không có định hướng cụ thể thì biết đi như thế nào. Do
vậy, khi mình quỳ trước tôn tượng Đức Phật A Di Đà và nguyện rằng: “Con nguyện
làm tất cả những việc lành, tinh tấn niệm Phật và hồi hướng công đức ấy cho con
được về Tây phương cực lạc, tiếp tục tu hành cho đến ngày thành tựu ngôi vị
chánh đẳng chánh giác và trở lại hóa độ cõi Diêm Phù Đề, để ai cũng biết, cũng
đi tới con đường giải thoát như con”, thì cũng đừng nghĩ là mình tham lam, mình
mong cầu. Bởi lời nguyện ấy thực chất là một định hướng để phóng mình đi. Đi
đâu? Đi về quốc độ Tây phương cực lạc của Đức Phật A Di Đà. |
Phải tin sâu. Đó là lời nhắc
của mười Phương chư Phật với các đệ tử của mình, về tất cả những công hạnh,
cảnh giới lành tốt mà các Đức Phật đã tạo dựng từ chính tâm từ, tâm bi, và trí
tuệ sáng suốt (xuất thế gian) hầu cứu độ chúng sinh là một cõi lành tốt, có
thật. Phật nhắc như vậy bởi lẽ Ngài sợ đệ tử không tin, hoài nghi thì sẽ sinh
tâm coi thường, bất kính, và đó là nhân phải đọa địa ngục, mất con đường học
pháp, hành pháp giải thoát.
Chính vì vậy mà trong những thời pháp của mình,
Ngài thường thuận theo đại chúng mà nói, đại chúng phải thỉnh cầu, thể hiện rõ
sự cần cầu học hỏi, tu tập thì Ngài mới nói. Và những ai chưa đủ căn cơ, trình
độ để nghe, hiểu và tin thì Ngài cũng không ép để nghe, và tin theo kiểu thần
quyền ép buộc. Trong kinh Pháp Hoa ở phẩm Phương tiện thứ 2 ta thấy rõ điều đó,
khi có tới 5.000 vị rời khỏi đạo tràng bởi đó là những vị Tăng thượng mạn và
Đức Phật đã không cản.
Bối cảnh khi Đức Phật còn
tại thế còn như thế huống hồ thời mạt pháp như hiện nay. Tuy nhiên, nếu thời
mạt pháp mà ai nghe lời dạy khó tin của Phật mà tin nhận, thọ trì thì Ngài càng
khẳng định giá trị của niềm tin đối với pháp giải thoát của người ấy là tối
thượng, đáng kính, công đức vô lượng. Pháp Phật, đó là linh dược để chúng sinh
thoát khỏi nỗi khổ niềm đau.
Và phải tin thì mới uống, giống như khi bác sĩ cho
thuốc, mình tin rằng uống thuốc này bệnh sẽ khỏi thì mình mới uống. Chúng ta
thường tin bác sĩ chữa bệnh thân bởi cái thân đau là biểu hiện rõ ràng, cụ thể
ở điểm nào đó.
Song, cái tâm mình bệnh, với ba món độc (tham, sân, si) cắm rễ
trong mình mà mình nào có hay. Nhiều lúc nó não phiền, nó làm mình đớn đau
nhưng dường như mình không quan tâm nhiều, có lẽ do mình chấp tướng, nên cái gì
có hình tướng cụ thể thì mình mới cho đó là thật. Bởi sự mê mờ này mà mình
không chịu uống thuốc của Phật, nghĩa là không tin vị thầy thuốc chữa trị tâm
bệnh rất mầu nhiệm - Đức Phật.
Không uống thuốc nên cứ thế,
cái tâm mình rề rà bệnh tật và Đức nói rằng đó là vô minh nên sanh tử luân hồi.
Luân hồi trong vòng cuốn xoáy của lục đạo, xuống lên sáu đường. Niềm tin Phật
pháp mình không đủ mạnh nên mình không hành, nghĩa là không có sự thực tập nên
mình không có thực chứng những hạnh phúc nho nhỏ, bắt đầu từ niềm tin giáo
pháp.
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình - Ảnh minh họa
Có thể hiểu nôm na việc thực
tập Phật pháp như là việc mình bỏ tiền Ngân hàng vậy. Khi mình tin cậy Ngân
hàng nào đó và mình gửi tiền vào thì mình liền có lãi tùy Ngân hàng. Cũng vậy,
sự thực tập Phật pháp, hay cụ thể là việc tin vào con đường thoát khỏi luân hồi
sanh tử từ việc thực tập niệm Phật thì mình sẽ bắt đầu thực hành nó trong đời
sống. Sáng mở mắt niệm Phật, đi đường niệm Phật, tối niệm Phật…
Mọi lúc, mọi
nơi có thể thì cứ niệm, và khi ấy hành giả chắc chắn sẽ lắng dịu tâm mình. Hạnh
phúc của tâm lắng diệu và sự an lạc thông qua câu niệm danh hiệu Phật, tiếp xúc
với năng lượng từ bi của Ngài là hạnh phúc có thật như khi ta gửi Ngân hàng và
nhận tiền lãi vậy.
“Lãi” (hay hoa trái) của sự
thực tập niệm Phật là tâm lắng dịu, bằng an. Nên có thể khi niệm Phật trong một
ngày, mười ngày hoặc một đời này ta chưa đủ lực để sinh về Tây phương cực lạc
(ví dụ vậy) thì ta cũng đã gửi vào “Ngân hàng” những khoản tiết kiệm nho nhỏ và
đã có “lãi” liền lập tức. Thế thì tại sao mình lại từ chối việc niệm Phật mà
lại đi niệm những cái làm cho tâm mình lao xao, loạn động, phiền não, và cứ thế
mù mờ lên xuống sáu đường?
Tới đây ta thấy, niềm tin và
sự thực tập là một trong hai cái chân vững chắc cho “bệ phóng” Tây phương. Còn
lời nguyện, giống như là định vị phương hướng để phóng vậy. Một chủ thể muốn đi
đến một điểm nào đó mà không có la bàn chỉ dẫn hoặc không có định hướng cụ thể
thì biết đi như thế nào.
Do vậy, khi mình quỳ trước tôn tượng Đức Phật A Di Đà
và nguyện rằng: “Con nguyện làm tất cả những việc lành, tinh tấn niệm Phật và
hồi hướng công đức ấy cho con được về Tây phương cực lạc, tiếp tục tu hành cho
đến ngày thành tựu ngôi vị chánh đẳng chánh giác và trở lại hóa độ cõi Diêm Phù
Đề, để ai cũng biết, cũng đi tới con đường giải thoát như con”, thì cũng đừng
nghĩ là mình tham lam, mình mong cầu. Bởi lời nguyện ấy thực chất là một định
hướng để phóng mình đi. Đi đâu? Đi về quốc độ Tây phương cực lạc của Đức Phật A
Di Đà.
Suy tư về điều đó, như là
cốt tủy của việc thực tập pháp môn niệm Phật cũng có nghĩa là mình đang vẽ một
bản vẽ xây dựng “bệ phóng” Tây phương. Hiểu nôm na như thế, chỉ còn việc bắt
tay vào: sáng niệm Phật, đi đường niệm Phật, tối niệm Phật…
Mỗi thời niệm một
cách thành kính, đầy tin tưởng và thiết tha với nguyện về Tây phương cực lạc
thì chắc chắc Đức Phật A Di Đà cùng thánh chúng sẽ tiếp dẫn mình về với các
Ngài. Tôi tin vào điều đó, thiết tha và càng tin rằng: cứ đi rồi sẽ tới, “bệ
phóng” mình đã xây từ chính bản vẽ tín-hạnh-nguyện kiên cố nên niềm tin ấy
không hề mông lung, mù quáng!
Lưu Đình Long (GNO)