Thuyết vĩnh
cửu là sự tin tưởng rằng chúng ta
sẽ tiếp tục như chúng ta là,
dựa trên niềm tin nơi bản tánh
của riêng ta và sự tiếp tục
của nó. Điều này thì giống như
việc đòi hỏi một cây gậy chỉ
có một đầu: cây gậy bắt
đầu ở một nơi nào đó và
sau đó tiếp tục mãi mãi. Thuyết hư
vô là sự tin tưởng rằng không
có điều gì hiện hữu về mặt
bản chất. Nó nói rằng các sự
vật xuất hiện cùng một lúc trong
một vài cách thế tự nhiên, có
tính chất sinh lý học hay nhờ một
vài phương tiện hoá học, nhưng
không có trật tự thực sự cho nó hay
không có bối cảnh trong đó hiện
hữu một kiểu mẫu tiến hoá. Nó
là sự tin tưởng rằng không có
gì ngoài những gì ta nhìn thấy
với đôi mắt ta hay cảm nhận với
đôi bàn tay ta hoặc những mùi
hương với mũi ta. Nó là niềm tin
rằng, trong hoàn cảnh của chúng ta, ta
có thể kinh nghiệm nhân mà không kinh
nghiệm quả.
Đây
không phải là định nghĩa giáo khoa
về thuyết hư vô, nhưng nó là sự
mô tả thuyết hư vô như chúng ta kinh
nghiệm nó trong tâm thức ta. Ví dụ
như chúng ta có thể hiểu những giáo
lý của Đức Phật và nhận ra
tính chất luận lý của chúng, nhưng
lại có những hành động và lối
sống mâu thuẫn với niềm tin đó.
Chúng ta có thể thấu hiểu rằng
lòng bi mẫn gặt hái được những
kết quả tốt đẹp và đem chúng ta
lại gần sự giác ngộ hơn, vì
thế chúng ta biểu lộ thiện tâm và
có niềm tin. Tuy nhiên trong tâm ta, ta luôn
xét nét những người khác và
ôm giữ sự sân hận và tham muốn. Ta
cho rằng có thể chấp nhận được
việc xử sự tử tế với một
người cho dù cùng lúc đó ta
đang nghĩ ta muốn có những y phục của
người đó hay ta không thích
người đó. Đây thực sự là
một hình thức của hư vô chủ
nghĩa, bởi ta cảm thấy rằng những gì
người ta nhìn thấy thì chẳng có gì
quan trọng, mà không hiểu rằng ngay cả
những gì tồn tại trong những tư
tưởng và cảm xúc của ta cũng đem
lại những hậu quả. Ta không thực sự
thấu hiểu rằng những mối liên hệ
nhân và quả xảy ra từ những bình
diện vi tế nhất cho tới những mức
độ to lớn nhất, và là cơ cấu
tiềm ẩn của vòng luân hồi. Do
đó ta không hiểu rằng bổn tánh
của ta và của mọi sự là một
hoá thân của tâm thức ta. Chúng ta
thực hành thuyết hư vô một cách
bền bỉ bởi ta tin rằng điều duy nhất
được tính đếm bằng cách
này hay cách khác trong quyển sách
tính là những gì được nhìn
thấy và có thể được phán
đoán bởi những người khác.
Chúng ta
bằng lòng sống với loại tư tưởng
đó, không bao giờ nhận ra những kết
quả khủng khiếp mà nó đem lại. Ta tiếp
tục dấn mình vào hoạt động
không dẫn tới giác ngộ, bởi ta không
thấu hiểu chiều sâu và hậu quả
thăm thẳm mà nhân và quả đặt
lên chúng ta. Ta có thể hành động
trong một cách thế khi người ta chỉ
nhìn vào tâm ta, vào những chỗ bí
mật của ta nơi không ai nhìn, chúng ta
ích kỷ, xét nét, thiếu lòng trắc
ẩn, và ganh tị. Tất cả những phẩm
tính này ta cho phép hiện hữu trong tâm
ta, và ta không hiểu rằng nếu chúng
hiện hữu trong dòng tâm thức chúng
cũng sẽ xuất hiện bằng cách này hay
cách khác trong thực tại vật lý
của ta. Khi ôm giữ sự sân hận trong
dòng tâm thức của ta, hay sự ganh tị,
ích kỷ, bám chấp, sự cảm thấy
luôn luôn thiếu thốn, sự cảm thấy
là ta phải có thứ gì đó
để được hài lòng, việc hành
động trong một cách thế ích kỷ
trái ngược với giáo lý của
Đức Phật – những điều này
đem lại những kết quả tương tự
mà hoạt động thân xác của loại
cảm xúc đó đem lại, mặc dù ta
có thể không thấy lập tức những
hậu quả chắc chắn sẽ chín mùi.
Đức
Phật dạy chúng ta rằng có những
nguyên nhân khác nhau mà ta nắm giữ trong
dòng tâm thức của ta đã tạo
nên những hoàn cảnh khiến ta bị tái
sinh trong sáu cõi khác nhau của luân
hồi sinh tử.
Trái
ngược với triết học Hiện đại
nói rằng ta luôn luôn đạt
được một sự tái sinh cao hơn, hay do
bởi giờ đây ta là con người ta
có thể luôn luôn hy vọng ở loài
người trong những sự tái sinh trong
tương lai, Đức Phật dạy rằng
chúng ta thành tựu sự tái sinh phù
hợp với nội dung hay cơ cấu của dòng
tâm thức của ta. Ví dụ như nếu ta
ôm giữ rất nhiều sự căm thù hay
giận dữ, ta có thể bị tái sinh trong
những cõi thấp nhất được gọi
là các cõi địa ngục. Những
cõi này cực kỳ khó chịu; chúng
rất nóng hay rất lạnh khiến không
chịu đựng nổi. Việc sống ở
đó thật quá sức chịu đựng
khiến ta không thể thực hành. Nó
giống như việc bạn cố gắng thiền
định trong khi có người đang cưa
đứt đầu gối bạn. Tất cả
những gì bạn có thể nghĩ tới
là kêu la, gào thét, và làm thế
nào nhanh chóng thoát ra khỏi nơi
đó. Đó là bản chất của
các cõi địa ngục.
Nếu bạn kinh nghiệm rất nhiều
sự tham muốn, bám chấp, và sự thiếu
thốn, bạn sẽ bị tái sinh trong nơi
được gọi là cõi ngạ quỷ.
Cõi giới này thì tràn đầy sự
thèm khát tới nỗi chúng sinh không
có thân xác ở đó có những
cái miệng nhỏ xíu như một lỗ kim
và bao tử của họ thì lớn như
Núi Tu Di. Không thể làm thoả mãn
họ. Đó là kinh nghiệm của sự tham
lam vô độ. Chúng sinh ở đó rất
trống rỗng và không thể hiểu
được điều gì cần thiết.
Nếu chúng ta kinh nghiệm sự
trầm trệ, ngu đần hay vô minh, chúng ta
sẽ bị tái sinh trong cõi súc sinh. Những
thú vật được coi là không thể
có loại tư tưởng cần thiết trong
việc lập nên những quyết định
toàn giác. Chúng là nạn nhân của
bất kỳ đau khổ nào mà con người
có thể đổ lên chúng. Những con
bò phải kéo những cỗ xe nặng nề
suốt ngày với rất ít thực phẩm,
những con vật phải chịu đựng sự
thí nghiệm – những con vật này
không thể tự cứu mình và đau
khổ khủng khiếp. Những thú vật trong
chốn hoang dã bị ăn thịt hay bị những
con vật lớn hơn săn đuổi mà không
biết nương tựa vào đâu. Ngay cả
những con vật cưng của chúng ta cũng
không biết làm thế nào để tự
lo cho mình. Nếu ta nuôi chúng thì
chúng được nuôi dưỡng, nếu ta
quên chúng thì chúng bị lãng
quên.
Được tái sinh trong cõi
người được coi là hoàn cảnh
tốt lành nhất bởi ở đây
người ta có thể thực hành Phật
Pháp và kinh nghiệm sự giác ngộ
đích thực. Mặc dù cần có rất
nhiều công đức mới được tái
sinh trong loài người, nhưng cũng có
một nguyên nhân tiêu cực đối với
sự tái sinh này, và đó là
sự nghi ngờ. Là con người chúng ta
thường xuyên kinh nghiệm sự hoài nghi. Nó
lan rộng tới nỗi ta không hiểu sự
hoài nghi của ta to lớn ra sao. Nếu ta thực
sự khảo sát bản thân, ta sẽ khám
phá rằng ta suy nghĩ và cảm xúc
khác biệt với cách ta tin tưởng về
mặt trí thức. Ta có thể theo một
triết học nào đó, nhưng ta không bao
giờ theo bất kỳ triết học nào một
cách bền bỉ bởi ta quá đầy
ngập sự hoài nghi. Trong việc theo giáo
lý Đạo Phật thì cũng thế. Ta sẽ
theo nó ở bề ngoài, nhưng không kiên
định cho tới khi ta tới gần sát sự
chứng ngộ và có thể tự mình
hiểu biết đầy đủ và trọn
vẹn về những mối liên hệ nhân
quả.
Nếu chúng ta kinh nghiệm rất
nhiều sự ganh tị và tranh đua, nếu
tâm ta có một đặc tính thích tranh
đấu, ta sẽ tái sinh ở nơi
được gọi là một cõi trời ganh
tị. Chúng sinh ở đó có rất
nhiều năng lực với những kinh nghiệm siêu-nhiên.
Họ rất mạnh mẽ, thường xuyên gây
chiến tranh. Không có hoà bình, không
có sự an toàn, không có thì giờ
để suy nghĩ, cảm xúc hay thương yêu.
Chỉ có một nhu cầu thường xuyên
là tự bảo vệ mình để đối
phó với sự xúc phạm và tấn
công, và một nhu cầu thúc bách là
gây hấn khi ôm giữ bất kỳ điều
gì có vẻ là của bạn.
Cái cuối cùng trong sáu
cõi là cõi trời. Nó được coi
là cõi cao nhất bởi nó là cõi
nhiều lạc thú nhất và hỉ lạc
nhất. Chúng sinh ở đây tuyệt đẹp
với những mùi hương kỳ ảo, những
màu sắc chói lọi, và âm nhạc hoan
lạc tới nỗi nếu ta nghe thấy ta sẽ
lập tức lành bệnh. Thân thể các
vị trời thuần khiết và ngát
hương. Không có một chút tàn tạ,
mồ hôi, vi khuẩn, tuổi già hay bất
kỳ tiến trình nào khiến ta có
những mùi hôi. Đó là một vẻ
đẹp vượt khỏi sự hiểu biết
của ta, hoàn toàn không có sự xấu
xí hay suy hoại nào. Kiêu ngạo là
nguyên nhân chính để bị tái sinh
ở đây, và mặc dù những vị
trời sống hàng ngàn năm, nhưng cuộc
đời ở đó không tồn tại
mãi. Thực sự là cần có một
khối lượng khổng lồ thiện nghiệp
và đức hạnh thanh tịnh để
được tái sinh trong cõi trời, nhưng
trong thời gian ở đó bạn dùng cạn mọi
thiện nghiệp bạn tích tập được
rất nhanh chóng, giống như một chiếc
máy V-8 khổng lồ đốt ga chạy lên
đồi. Thình lình sau một thọ mạng
rất dài, sự suy hoại bắt đầu.
Đức hạnh mà ta tích tập
được trở nên cạn kiệt và
cái chết tới gần. Thật là khủng
khiếp đối với họ bởi là những
người không kinh nghiệm điều gì
khác ngoài sắc đẹp, việc không
có mồ hôi, sự hỉ lạc, âm nhạc
kỳ diệu, và thực phẩm của cõi trời,
giờ đây họ sắp sửa trải qua nỗi
đau khổ ghê gớm. Sự vô thường
này là nỗi khổ trội vượt nhất
trong cõi trời.
Là con người, chúng ta có
trong dòng tâm thức của mình mọi
hạt giống của những đau khổ kỳ
lạ và những đặc tính bất hạnh
được liên kết với sáu cõi
luân hồi sinh tử. Đức Phật khuyên
dạy ta đừng sử dụng giáo lý
này một cách tượng trưng, nhưng
hãy dùng nó một cách tuyệt
đối. Ngài có thể thực sự nhìn
thấy sáu cõi và có thể nhớ
lại việc Ngài đã từng sống trong
những cõi đó. Sau khi đạt
được sự giác ngộ cao quý, Ngài
có thể nhớ lại Ngài đã di
chuyển từ những cõi này tới sự
giác ngộ ra sao. Vị lãnh đạo của
dòng truyền thừa của chúng ta, His Holiness
Penor Norbu Rinpoche, đã nói rằng giá như
bạn có thể vén lên những tấm
màn ngăn che đôi mắt bạn, giá
như bạn nhìn thấy trong giây lát
sáu cõi luân hồi sinh tử ra sao và
làm cách nào bạn đến và đi
trong từng cõi giới, và bạn đã kinh
nghiệm điều gì và bây giờ bạn phải
kinh nghiệm điều gì do bởi những phẩm
tính cố hữu trong sự suy tưởng của
bạn – nếu bạn có thể thấu hiểu
điều này bạn sẽ không làm
điều gì ngoài việc liên tục
trì tụng thần chú OM MANI PADME HUM. Bạn
sẽ không bao giờ ngừng lại.
Thần chú của Đức Chenrezig
(Quán Thế Âm) là OM MANI PADME HUM. Chenrezig
là Đức Phật của lòng Bi mẫn,
và có trong dòng tâm thức của
Ngài một sự tỉnh giác trong trẻo
và thuần tịnh như pha lê tương tự
như tâm giác ngộ. Hiện diện bẩm sinh
trong tâm thái đó là những phẩm
tính đem lại việc chấm dứt sự
tái sinh trong tất cả sáu cõi. Sự
tỉnh thức thường xuyên về Đức
Chenrezig, và việc học tập để phát
triển tâm ta như Đức Chenrezig nhờ việc
sử dụng sự quán tưởng, thần
chú, sự trì tụng và ý hướng
thanh tịnh, có thể tạo nên việc chấm
dứt sự tái sinh trong vòng luân hồi sinh
tử, ngay cả trong một đời người.
Tính chất luận lý ở
đây là trong sự thực hành bạn
là người phát triển chính mình
như Bồ Tát Chenrezig. Bạn thành tựu
tâm thái thanh tịnh này để làm
lợi ích chúng sinh. Như vậy sự chấm
dứt thực sự nỗi đau khổ có thể
được hiểu như năng lực của
bạn để phát triển bản thân bạn
như vị Bồ Tát của lòng Bi mẫn
đó, bằng cách ấy trở thành
nguyên nhân cho sự chấm dứt mọi nỗi
khổ. Khi làm như thế, ta cũng đem lại
sự chấm dứt đau khổ của riêng ta.
Thần chú OM MANI PADME HUM của
Đức Chenrezig có sáu âm. Mỗi âm
có khả năng tiệt trừ những
nguyên nhân của việc tái sinh trong mỗi
một trong sáu cõi, bởi tự bản thân
thần chú và mỗi một âm
được coi là một sự cô đọng
kỳ diệu của trí tuệ. Nhờ hoạt
động của Guru Rinpoche (Đức Liên Hoa Sanh),
chúng ta có thể kinh nghiệm trong việc
lắng nghe hay trì tụng những âm này
và quán tưởng bản thân ta như
Đức Chenrezig, sự tịnh hoá toàn hảo
những nguyên nhân cho việc tái sinh trong
tất cả sáu cõi luân hồi sinh tử.
Điều này hoàn toàn có thể
thực hiện được. Bạn được
hứa hẹn rằng nếu bạn thực hành
điều này mỗi ngày bạn có thể
thành tựu việc chấm dứt sự tái sinh
trong các cõi thấp. Và nếu nó
được thực hành trong sự nối kết
với những thực hành khác thì nó
là một bộ phận của một khoa kỹ
thuật đã được thử thách
để chấm dứt đau khổ trong tất cả
các cõi.
Nguồn:
Phật Giáo Việt Nam Net (phatgiaovnn.com)