Số 
4
BỐN CÁCH THU PHỤC
(tứ nhiếp pháp)
 
“Nhiếp” 
là thu phục người; và “nhiếp pháp” là cách thức tiếp xúc,
cư xử 
với người, làm thế nào cho người ta đến với mình bằng tình thân 
thiện và 
lòng tin tưởng. Nếu cuộc sống xã hội được hoàn toàn an lạc thì 
sự có mặt 
của hành giả chắc hẳn là không cần thiết. Nhưng cuộc sống lại 
đầy dẫy 
thương đau, oan nghiệt, nghi kị, hận thù, giả trá, cho nên sự có
mặt của 
hành giả trong cuộc đời thật là quan trọng với trách nhiệm giúp 
xoa dịu 
đau thương, đánh tan nghi kị, điều chỉnh giả trá, hóa giải oan 
nghiệt, 
và xóa bỏ hận thù. Đã vậy, muốn cho tiếng nói của mình được hữu 
hiệu, 
chương trình của mình được tin nhận, cũng như muốn có được sự 
cộng tác 
của mọi người, hành giả trước tiên phải lấy được lòng thân ái và
sự tín 
nhiệm của mọi người đối với mình; làm sao cho sự hiện diện của 
mình luôn 
luôn là cánh hoa tươi mát cho toàn thể mọi người. Bốn phương 
pháp thu 
phục nhân tâm sau đây sẽ giúp ích rất nhiều cho hành giả trong 
việc xử 
thế.
1. Bố thí.
“Bố thí” 
là chia sớt, giúp đỡ người bằng tài vật hoặc bằng ý kiến, lời 
khuyên, 
thì giờ, khả năng, tâm lực, hay giáo pháp.
2. Ái ngữ.
“Ái ngữ” 
là lời nói ôn hòa, thành thật và thân thiết. Lời nói như thế là 
phải 
phát xuất từ tình thương và sự hiểu biết; vì có tình thương thì 
lời nói 
mới êm dịu, thành thật, và có hiểu biết thì lời nói mới thích 
hợp cho 
từng người, từng lúc và từng hoàn cảnh.
3. Lợi hành.
“Lợi hành” 
là làm bất cứ việc gì có thể giúp ích cho người thăng tiến trong
đời 
sống tinh thần và vật chất. 
4. Đồng sự.
“Đồng sự” 
là quan tâm đến công việc của người và cùng giúp một tay với họ 
để hoàn 
tất công việc đó. 
(Các sách Đạo Phật Hiện Đại Hóa -
chương 
3; Đạo Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hằng Ngày - các chương 3, 4, 5 
và 6; và 
Giới Tiếp Hiện Chú Giải - các giới thứ 4, 5, 8, 9, 11 và 12, sẽ 
cho ta 
rất nhiều lời khuyên cụ thể trong việc thực hành “tứ nhiếp pháp”
này.)
 
 
 
BỐN ĐIỀU KIỆN
(tứ duyên)
 
Theo luật duyên sinh thì bất cứ 
một sự 
vật nào trong vũ trụ cũng đều do nhiều sự vật khác hợp lại sinh 
ra. 
Những sự vật khác đó gọi là “DUYÊN” – nghĩa là điều kiện. Theo 
Duy Thức 
Học thì có bốn loại điều kiện tất cả:
1. Nhân duyên, là điều 
kiện chính, 
là chủng tử, là cái nhân để sinh ra một vật. Hạt lúa là điều 
kiện chính 
để sinh ra cây lúa; chánh niệm là điều kiện chính để phát sinh 
trí tuệ, 
v.v...
2.
Tăng thượng 
duyên, là điều kiện phụ giúp. Dù hạt lúa là điều kiện
chính, nhưng nó không phải là điều kiện duy nhất và đầy đủ, 
vì nếu 
chỉ một mình nó không thôi, cũng không thể làm nẩy sinh ra cây 
lúa, mà 
phải nhờ đến nhiều điều kiện khác như đất, nước, phân bón, ánh 
sáng mặt 
trời, sức người, sức vật, máy móc v.v..., những thứ này là tăng
thượng duyên 
của hạt lúa. Những điều kiện phụ giúp này cũng có thuận 
và có 
nghịch, cho nên chúng có thể phân làm hai loại: những điều 
kiện giúp 
cho điều kiện chính phát sinh và tiến triển cho đến khi có được 
thành 
quả mĩ mãn, thì gọi là “thuận 
tăng thượng duyên”; 
ngược lại, những điều kiện đe dọa, ngăn cản, phá hoại, làm cho 
hạt giống 
không thể phát sinh được, thì gọi là “nghịch tăng thượng 
duyên”. 
Có điều nên chú ý, không phải lúc nào thuận tăng thượng duyên 
cũng là 
tốt và nghịch tăng thượng duyên cũng là xấu, mà cũng có trường 
hợp ngược 
lại. Nếu có những điều kiện thuận lợi nào đó đã giúp cho một tâm
niệm 
độc ác phát sinh thành hành động gây đau khổ thì đó là những thuận
tăng thượng duyên xấu; 
trái lại, khi một ý tưởng xấu vừa khởi lên mà người tu học biết 
dùng 
những phương pháp hữu hiệu dập tắt liền, không để cho phát hiện 
thành 
hành động, thì đó là những 
nghịch tăng thượng duyên tốt.
3.
Sở duyên duyên, 
là điều kiện đối tượng của nhận thức.  Danh từ “sở duyên 
duyên” 
gồm có hai danh từ nhập lại: “sở 
duyên” 
và “duyên”. “Sở duyên” nghĩa là đối tượng 
của nhận thức; 
và “duyên” nghĩa là điều kiện. Duy Thức Học nói, “nhận
thức 
luôn luôn bao gồm 
chủ thể 
nhận thức và đối tượng nhận thức”. 
Biết thì không thể biết suông, mà phải là 
biết cái gì; 
nhận thức luôn luôn phải là nhận thức một đối tượng, cho nên, 
không có đối tượng
thì không có nhận thức. Vì 
vậy, sở duyên là điều kiện thiết yếu cho thức, tức là 
điều kiện 
thiết yếu để vạn pháp có mặt.
4.
Đẳng vô gián 
duyên, là điều kiện tiếp nối liên tục, không 
gián đoạn 
của vạn pháp. Trong dòng sống của vạn pháp cần có sự liên tục, 
nếu gián 
đoạn thì sẽ không có gì được hình thành cả. Nếu tôi của phút thứ
nhất mà 
không có tôi của giây thứ hai tiếp nối thì sẽ không còn gì là 
tôi cả! Vì 
vậy, đẳng vô gián 
cũng là một điều kiện vô cùng quan trọng cho sự hiện hữu của sự 
vật.
Bốn điều kiện trên đây đã hợp lại mà làm nên sự 
vật. Chúng chính là nội dung của đạo lí 
“Duyên Sinh”, 
theo đó, vạn pháp trong vũ trụ, không có sự vật nào có thể tự 
mình sinh 
ra, không có tự ngã riêng biệt, cũng không thể tồn tại một mình.
Sự sinh 
thành và hoại diệt của một sự vật luôn luôn tùy thuộc vào sự 
sinh thành 
và hoại diệt của vạn pháp; vì vậy, Duy Thức Học nói, tự tính 
của 
vạn pháp là y tha khởi.
(Xin xem lại mục “Ba Tự Tính” ở trước.)
 
 
 
BỐN LĨNH VỰC QUÁN NIỆM
(tứ niệm xứ - tứ niệm trú)
 
Danh từ Phật học Hán Việt gọi lĩnh
vực quán niệm 
là “niệm xứ” hay “niệm 
trú”.
Niệm  là có ý thức, để tâm tới, thuật ngữ thiền 
học gọi là 
quán niệm. Xứ là chỗ, nơi, lĩnh vực, đối tượng; niệm
xứ là đối tượng hay lĩnh vực quán niệm – tức là nơi mà 
hành giả 
để tâm tới, đặt ý thức lên đó. Trú nghĩa là ở, như
trong 
từ ngữ “cư trú”, “an trú”; niệm trú là duy trì ý 
thức trên 
đối tượng quán niệm – tức là quán chiếu đối 
tượng trên ngay đối tượng đó.
Từ lâu nay người học Phật thường 
được dạy 
về bốn lĩnh vực quán niệm như sau:
1. Quán niệm rằng thân thể là 
không 
trong sạch (quán thân bất tịnh). Hành giả hãy quán niệm 
rằng, thân 
thể là xác thịt do cha mẹ sinh ra. Tất cả những gì làm nên và 
chứa đựng 
trong thân thể (như da, thịt, máu, mủ, phân, nước tiểu v.v...) 
đều dơ 
bẩn, hôi hám, không có thứ gì là trong sạch.
2. Quán niệm rằng mọi cảm thọ 
đều 
là đau khổ (quán thọ 
thị khổ). 
Hành giả hãy quán niệm rằng, dù cảm thọ có vui có khổ, nhưng ở 
thế gian 
không bao giờ có cái vui chân thật, còn cái khổ thì đầy dẫy. Nếu
có cái 
vui thì cũng chỉ là tạm bợ, và chỉ là cái khổ trá hình; rốt 
cuộc, cái 
vui lại là nguyên nhân của cái khổ. Bởi vậy, tất cả mọi cảm thọ 
đều chỉ 
là đau khổ. Có chỗ cũng giải thích “thọ thị 
khổ” 
là có nhận lãnh là có 
đau khổ. 
Trước tiên là nhận lãnh cái thân này, cái tâm này; sau đó là 
nhận lãnh 
các thứ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thuốc thang, mọi thứ vật dụng, 
rồi nào là 
sắc, thanh, hương, vị, xúc, v.v..., tất cả những gì ta thọ nhận 
trong 
đời sống đều là nguồn gốc sinh ra đau khổ.
3. Quán niệm rằng tâm ý là vô 
thường 
(quán tâm vô thường). Hành giả hãy quán niệm rằng, tâm ý 
luôn luôn 
thay đổi, từng phút từng giây, không bao giờ ngưng nghỉ. Không 
có một ý 
nghĩ, một trạng thái tâm lí nào là bền vững, chắc chắn.
4. Quán niệm rằng vạn pháp là 
vô ngã 
(quán pháp vô ngã). Hành giả hãy quán niệm rằng, vạn pháp ở 
thế gian 
đều do nhân duyên hòa hợp mà làm nên, không vật gì có bản tính 
độc lập, 
chân thật.
Mục đích của phương pháp quán 
niệm như 
trên là để hành giả tự cảnh giác trên đường tu tập. Khi đã thấy 
rõ 
thân thể là dơ nhớp 
thì hành giả sẽ nhàm chán nhục dục, sẽ diệt được những ham muốn 
thể xác, 
không để mình bị lôi cuốn bởi những quyến rũ của ái dục. Khi đã 
thấy rõ 
được tất cả mọi cảm thọ, 
mọi cái thọ nhận đều là đau khổ 
thì hành giả không còn để cho mình bị tham đắm vào những thú vui
thường 
tục, những nghiện ngập trác táng, những nhu cầu quá độ hay vô 
ích chỉ 
nhằm thỏa mãn lòng tham. Khi đã thấy rõ tâm ý là 
vô thường 
thì hành giả có thể tùy từng 
trường hợp, 
từng hoàn cảnh mà đối trị với những vọng tưởng, những tà niệm 
của chính 
mình; hoặc có thể giữ được tâm bình thản trước những oan nghịch,
những 
phản trắc của tình đời. Khi đã thấy rõ 
các pháp là vô ngã 
thì hành giả đã mở được con mắt 
tuệ cho 
chính mình, một niệm tham cũng không còn, tâm chấp trước cũng 
tiêu mất.
Đành rằng bốn phương pháp quán 
niệm trên 
là những hướng dẫn tốt cho sự tu tập, nhưng nếu nhìn kĩ lại, ta 
thấy 
chúng có mang tính cách giáo điều, khuôn khổ, gò bó. Tại sao khi
quán 
niệm thân thể thì chỉ thấy nó là bất tịnh, mà không thấy 
nó cũng 
là vô thường, vô ngã v.v...? Tâm là vô thường, chứ thân 
thể, cảm 
thọ và vạn pháp không vô thường sao? Về pháp cũng vậy. 
Những 
thuộc tính bất tịnh,
đau 
khổ, vô thường, vô ngã của
vạn 
pháp dĩ nhiên là có thực, nhưng hành giả phải quán chiếu để thấy
chứ 
không phải do người khác bảo như vậy thì biết như vậy. Sự thực 
thì công 
phu quán chiếu – và quán chiếu càng sâu sắc – sẽ đem lại cho 
hành giả 
những cái thấy sáng tỏ hơn nhiều về thực tại; như quán chiếu về 
thân thể 
chẳng hạn, hành giả sẽ thấy được những sự bất tịnh của thân thể 
mà đồng 
thời cũng thấy được cả những mầu nhiệm của thân thể; đối với 
cảm thọ, tâm ý 
v.v... cũng vậy.  Cuộc sống có mặt tiêu cực nhưng cũng có mặt 
tích cực; 
có khổ đau nhưng cũng có hạnh phúc; có những thọ nhận vô ích, 
tội lỗi, 
nhưng cũng có những thọ nhận hữu ích, tốt đẹp.
Vậy chúng ta hãy thực tập phương 
pháp 
quán niệm theo tinh thần kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm (Niệm Xứ
Kinh)
thử xem. Phương pháp của kinh này là quán chiếu thân thể,
cảm 
thọ, tâm thức và đối tượng của tâm thức (tức là “pháp”)
với tinh thần không chán ghét mà cũng không ham thích, không xa 
lánh 
cũng không vồ vập, không đè nén cũng không buông trôi. Cứ quán 
sát mà 
đừng đặt sẵn một định kiến nào, đừng tỏ một thái độ nào. Hãy cứ 
quán 
chiếu, và quán chiếu thật sâu sắc thì tự tính của vạn pháp tự 
nhiên sẽ 
hiển bày, và hành giả sẽ đạt được những cái thấy thật là mầu 
nhiệm về sự 
sống.
1. Quán niệm thân thể nơi thân
thể.
Quán niệm thân thể nơi thân thể 
là quán sát để có ý thức rõ 
rệt về 
mọi tư thế, trạng thái và hành động của chính thân thể mình. 
Hành giả 
luôn luôn có ý thức rõ rệt về hơi thở ra, hơi thở vào, hơi thở 
dài và 
hơi thở ngắn của mình. Hành giả biết rõ là mình đang đi, đang 
đứng, đang 
ngồi hay đang nằm. Hành giả biết rõ là mình đang ở đâu, làm gì, 
lúc nào. 
Những hành động của mình là có mục đích hay không có mục đích. 
Đặc biệt 
lúc thiền tọa, hành giả có thể quán chiếu để thấy rõ những yếu 
tố cấu 
tạo nên thân thể mình: yếu tố rắn 
chắc (thịt, xương v.v...); yếu tố lưu 
nhuận (nước, máu v.v...); yếu tố 
viêm nhiệt (sức nóng);
và yếu 
tố chuyển động (hơi thở).  Hành giả cũng quán chiếu để 
thấy rõ 
từng bộ phận và các chất chứa đựng trong thân thể mình, như da, 
thịt, 
xương, đầu, tóc, tay, chân, tim, phổi, máu, phân, nước tiểu, 
v.v... Hành 
giả cũng quán sát để thấy được quá trình sinh khởi, tồn tại và 
hủy diệt 
của từng tế bào trong cơ thể cũng như của toàn vẹn thân thể 
mình. Hành 
giả lại quán tưởng đến thân thể mình sau khi chết, máu khô thịt 
rữa, còn 
lại bộ xương trắng trong lòng đất lạnh. Hoặc giả bộ xương ấy 
cũng có thể 
nằm trơ vơ trên mặt đất, còn nguyên vẹn hay rã rời nằm rải rác 
đó đây, 
từ lúc còn rắn chắc cho đến khi hoàn toàn mục nát trộn lẫn với 
đất đá cỏ 
cây. Hành giả cũng lại quán niệm để thấy được rằng da thịt này, 
bộ xương 
này, thân thể này chính thật là ta, nhưng cũng không phải là ta.
Thân 
thể ta là hình hài này nhưng cũng không phải chỉ giới hạn, cục 
bộ và đơn 
độc trong hình hài này, mà ở đâu đâu cũng có thân thể ta: nơi 
ngọn cỏ, 
cành cây, rừng núi, sông hồ, chim muông, tinh tú...; ngược lại, 
tất cả 
những thứ ấy cũng hiện diện đầy đủ trong thân thể ta. – Ta chính
là sự 
sống vĩnh cửu của vũ trụ, mà thân thể này chỉ là một phần rất 
nhỏ của 
ta.
2. Quán niệm cảm thọ nơi cảm 
thọ.
Cảm thọ 
là những cảm giác phát sinh khi sáu giác quan tiếp xúc với đối 
tượng của 
chúng. Quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ là thường trực nhận 
diện mọi 
cảm giác phát sinh trong ta. Một cảnh tượng đẹp làm cho ta cảm 
thấy 
thích thú; một cảnh tượng bạo ác làm cho ta sợ hãi; một âm thanh
êm dịu 
hay chát chúa; một giọng nói ngọt ngào hay khó chịu; một mùi 
thơm của 
hoa; một vị ngọt của thức ăn; sự nóng bức hay giá lạnh của thời 
tiết; sự 
ngứa ngáy do muỗi đốt; sự đau nhức của vết thương; một ý kiến 
hay làm 
cho ta khoan khoái; một tư tưởng xấu làm cho ta hổ thẹn v.v... 
Tất cả 
những cảm thọ ấy, dù vui hay buồn, khoái lạc hay đau khổ, về vật
chất 
hay tinh thần, khi chúng vừa phát sinh thì hành giả biết rõ là 
chúng vừa 
phát sinh; chúng đang còn đó thì biết rõ là chúng đang còn đó; 
khi chúng 
đã tiêu mất thì biết rõ là chúng đã tiêu mất; ngay cả khi không 
có một 
cảm thọ nào có mặt thì hành giả cũng biết rõ là không có một cảm
thọ nào 
đang có mặt trong ta. Trong khi thiền tọa, hành giả có thể quán 
niệm để 
thấy rõ nỗi đau khổ, buồn phiền mà mọi người chung quanh ta đang
chịu 
đựng. Những nỗi khổ đau ấy hoặc là về vật chất, hoặc là về tinh 
thần, và 
gây ra do bệnh tật, đói khát, bất an, tham lam, thù hận, chiến 
tranh, 
ngu muội v.v... Hành giả cũng có thể quán tưởng đến một xã hội 
an lạc, 
trong đó mọi người được sống thanh bình, vì ai cũng hiểu biết, 
thương 
yêu và hòa thuận.  Hành giả cũng có thể quán chiếu để thấy rõ 
tất cả 
những cảm thọ như vậy ở cả trong đời sống của muôn loài: gia 
súc, cầm 
thú, cá tôm, rong rêu, hoa cỏ, núi rừng v.v...
 
3. Quán niệm tâm thức nơi tâm 
thức.
Tâm thức 
là tiếng dùng để chỉ chung cho các hoạt động phi sinh lí, phi 
vật chất, 
là các hiện tượng tâm lí như ý tưởng, suy nghĩ, tưởng 
tượng, phân 
biệt, hồi ức v.v... Quán niệm tâm thức nơi tâm thức là 
thường 
trực quán sát để nhận diện mọi hiện tượng tâm lí phát sinh trong
ta. Khi 
một ý nghĩ hoặc tốt hoặc xấu vừa phát sinh, hành giả nhận biết 
ngay rằng 
nó vừa phát sinh. Khi trong tâm có ý niệm tham dục thì hành giả 
biết rõ 
rằng mình đang có ý niệm tham dục. Khi trong tâm có ý niệm sân 
hận, oán 
thù hay bực bội thì hành giả biết rõ rằng mình đang có ý niệm 
sân hận, 
oán thù hay bực bội. Khi trong tâm không có các ý niệm tham dục,
sân 
hận, oán thù hay bực bội thì hành giả cũng biết rõ ràng như vậy.
Khi 
lòng mình đang mê loạn, không tỉnh táo thì hành giả biết rõ rằng
lòng 
mình đang mê loạn, không tỉnh táo. Khi tâm mình đang định tĩnh, 
sáng 
suốt, hành giả biết rõ ràng là tâm mình đang định tĩnh, sáng 
suốt. Khi 
có tâm khoan dung, từ ái, hòa thuận, hành giả biết rõ tâm mình 
đang như 
vậy. Khi có tâm kiêu mạn, nghi ngờ, ganh ghét, hổ thẹn, hối hận 
v.v..., 
hành giả đều biết rõ ràng là tâm mình đang như vậy. Khi tâm được
an 
nhiên, thư thái, giải thoát thì hành giả có ý thức rõ rệt về tâm
mình 
như vậy. Hành giả thường xuyên quán sát để thấy rõ quá trình 
sinh khởi, 
tồn tại, chuyển biến và hủy diệt của các trạng thái tâm lí ấy 
trong tâm 
thức mình. Khi chúng vừa phát sinh thì biết là chúng vừa phát 
sinh; còn 
đang tồn tại thì biết là còn đang tồn tại; có biến chuyển thì 
biết là có 
biến chuyển; đã tiêu mất thì biết là đã tiêu mất. Trong lúc 
thiền quán, 
hành giả có thể quán chiếu để thấy được tâm lí của người khác, 
một kẻ 
xấu mà ta đang để tâm thù ghét chẳng hạn. Ta có chịu khó quán 
sát thì 
mới hiểu được rõ ràng con người mà ta thù ghét, và nhờ đó mà ta 
có thể 
hóa giải mọi thù ghét một cách dễ dàng.
4. Quán niệm đối tượng của tâm
thức 
nơi đối tượng của tâm thức.
Đối tượng của tâm thức,
thường được gọi là “pháp”.
Trong 
đạo Phật, “pháp” là tiếng dùng để chỉ cho mọi hiện tượng 
trong vũ 
trụ. Duy Thức Học chia mọi hiện 
tượng này thành 100 pháp, gồm trong năm loại là sắc pháp 
(gồm mọi 
hiện tượng vật và sinh lí), tâm pháp (gồm các hiện tượng 
tâm lí 
đứng về phương diện nhận thức), tâm sở pháp (gồm các hiện
tượng 
tâm lí vốn là thuộc tính của nhận thức), tâm bất tương ưng 
hành pháp 
(gồm các hiện tượng không thuộc tâm, sinh hay vật lí), và vô 
vi pháp 
(gồm các hiện tượng không lệ thuộc vào nhân duyên)(1). 
Điều này cho ta thấy, chẳng những các hiện tượng sinh vật lí là đối 
tượng của tâm thức, mà ngay cả các hiện tượng tâm lí, các hiện 
tượng 
phi-tâm- sinh-vật-lí, và các hiện tượng đứng ngoài nhân duyên 
cũng đều 
là đối tượng của tâm thức. Mặt khác, Duy Thức Học nói rõ rằng: 
nhận thức 
luôn luôn là nhận thức một cái gì, như thế cũng có nghĩa là, tâm
thức và 
đối tượng của tâm thức chỉ là một, không có đối tượng thì chủ 
thể 
(tâm thức) cũng không có, và ngược lại, không có chủ thể thì
cũng 
không có đối tượng. Rốt cuộc, tâm thức và đối tượng của tâm thức
(trong 
đó có tâm thức) cũng đều là tâm thức, và “tâm quán 
tâm” là 
phương pháp mầu nhiệm để đạt tới tuệ giác. Đây không phải là 
điều nghiên 
cứu để hiểu, suy tưởng để thấy như người ta học một môn triết 
học, mà 
phải là nếp sống thường trực của người tu học.  Khi tâm được 
định tĩnh, 
hành giả có thể quán niệm về nhân duyên, vô thường, vô ngã và
từ bi, cho đến khi nào đạt được trình độ phá chấp, vô úy và 
đại bi 
của các vị Bồ-tát. Hành giả có thể lấy ngay bản thân mình để 
quán sát về 
hợp thể ngũ uẩn, về tính chất duyên sinh, vô thường, vô ngã 
v.v... của 
hợp thể ngũ uẩn ấy. Từ bản thân mình, hành giả quán chiếu hợp 
thể ngũ 
uẩn ấy trong vũ trụ, cho đến khi thấy rõ được sự tương quan và 
đồng nhất 
giữa mình và vũ trụ. Ta thấy ta trong ngòi bút, cuốn sách, cái 
bàn, cây 
xương rồng, ngọn xà lách, và ngược lại.  Quán niệm để thấy rõ 
niềm vui 
của ta là của người, nỗi khổ của người là của ta. Nói tóm lại, 
tất cả 
“pháp môn” đều phải là đối tượng của tâm thức mà người tu 
học thường 
xuyên quán chiếu để đem tâm thức thể nhập vào trong đối tượng 
của tâm 
thức – tâm thức và đối tượng của tâm thức là một. 
 
CHÚ 
THÍCH 
 (1) 
Xin xem mục “Một Trăm Pháp” ở sau.
 
 
 
BỐN LOÀI
(tứ sanh)
 
Các kinh điển Phật giáo thường 
dùng chữ
“bốn loài” (tứ sanh) để chỉ cho bốn cách thức từ đó các 
sinh vật 
được sinh ra ở thế gian:
1. Các loài sinh vật sinh ra từ bào
thai trong bụng mẹ (thai sanh), như loài người, các 
giống thú 
như bò, trâu, ngựa v.v...
 
2. Các loài sinh vật sinh ra từ trứng
(noãn sanh), như các giống chim, rắn, rùa v.v...
3. Các loài sinh vật sinh ra chỗ
ẩm 
thấp (thấp sanh), như các giống bọ, côn trùng v.v...
4. Các loài sinh vật sinh ra bằng
cách 
chuyển hóa (hóa sinh), như các giống tằm, bướm v.v...
Người Phật tử thường xưng tán đức
Phật là 
bậc “Đạo Sư của ba cõi”, và là đấng “Cha Lành của bốn 
loài”. 
Khi cứu độ chúng sinh, các vị Bồ-tát luôn luôn đem tình thương 
trải rộng 
một cách bình đẳng trên cả bốn loài.
 
 
 
BỐN LOẠI THỨC ĂN
(tứ thực)
 
Thức ăn là để nuôi sống cả thân 
lẫn tâm 
của chúng sinh. Có bốn loại thức ăn:
1. Thức ăn vật chất, ăn 
vào bằng 
miệng (đoàn, hay đoạn thực), là những thức ăn uống
trực 
tiếp nuôi sống thân thể, có khối lượng, có màu sắc, có mùi 
hương, có vị 
nếm, và chúng ta ăn vào bằng miệng, như cơm, bánh, trái cây, 
nước trong, 
trà, rượu v.v...
2. Các loại thức ăn tinh thần,
ăn 
bằng cách dùng các giác quan tiếp xúc với chúng (xúc thực),
như 
hình sắc, phim ảnh, âm nhạc, mùi hương, xúc chạm v.v... Những 
loại thức 
ăn này giúp chúng ta yêu đời để sống.
3. Ý chí muốn sống (tư 
thực), 
là những suy nghĩ, những tư tưởng, những quyết tâm, những tranh 
thủ 
v.v... của chúng ta để thực hiện bất cứ điều gì nhằm giữ gìn, 
bảo vệ 
mạng sống.
4. Tâm thức chính là nền 
tảng của 
sự sống – có tâm thức mới có sự sống (thức thực).
Vì thức ăn là để nuôi dưỡng thân 
tâm, trị 
liệu các bệnh khổ, cho nên trong khi “ăn” – dù là ăn theo nghĩa 
nào, 
người tu học cần phải giữ chánh niệm, để có thể thấy rõ thức ăn 
mình 
đang ăn là thực sự “bổ dưỡng” cho thân tâm hay chỉ là “chất độc”
làm hại 
thân tâm. Và dĩ nhiên là chúng ta chỉ ăn các thức có tính chất 
bổ dưỡng 
và trị liệu mà thôi.
 
 
 
 
BỐN LỜI NGUYỆN LỚN
(tứ hoằng thệ nguyện)
 
Những người phát tâm tu học và 
thực hành 
hạnh Bồ-tát đều phải phát bốn lời nguyện lớn như là hành 
trang 
tinh thần cho họ vào đời để thực hiện sứ mạng của mình. Không 
phát bốn 
lời nguyện này thì công phu của hành giả sẽ trở nên vô nghĩa.
 
1. Lời nguyện thứ nhất: 
Chúng sinh không số lượng, thệ
nguyện 
đều độ khắp.Lời nguyện này phát xuất từ đức tính từ bi
của đạo Phật. Nhìn thấy chúng sinh là nhìn thấy đau khổ. Có nhìn
thấy 
đau khổ mới có ý chí chấm dứt khổ đau. Chữ “độ” ở đây 
không có 
nghĩa gì khác hơn là chấm dứt khổ đau để đạt tới giải thoát, an 
lạc. Do 
đó chúng ta thấy, nội dung của lời nguyện thứ nhất này gắn bó 
rất chặt 
chẽ với sự thật thứ nhất –nhận thức về khổ đau (khổ
đế) 
– của giáo lí Bốn Sự Thật. (Xin xem mục “Bốn Sự
Thật” ở 
sau.) Với lời nguyện này, 
hành giả đã 
nói lên ý chí của mình là quyết tâm chấm dứt khổ đau để kiến tạo
hạnh 
phúc, an lạc cho mình và cuộc đời.
2. Lời nguyện thứ hai: Phiền 
não không 
cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch.
Lời nguyện này phát xuất từ đức 
tính 
hùng lực (hay dũng mãnh) của đạo Phật. Phiền não là 
tất cả 
những gì đã gây ra đau khổ cho chúng sinh. Sở dĩ đau khổ cứ 
triền miên 
đè nặng cuộc sống là vì con người không thấy được nguyên nhân 
gây ra đau 
khổ; hoặc giả có kẻ thấy được thì lại không có đủ lòng từ bi để 
cứu khổ 
mà đôi khi còn nhân đó làm cho khổ đau tăng thêm, chồng chất 
mãi; hoặc 
giả có người muốn chấm dứt khổ đau nhưng lại không có đủ hùng 
lực để 
diệt trừ phiền não là nguyên nhân gây ra đau khổ. Cho nên lời 
nguyện này 
đã nói lên ý chí của hành giả quyết tâm đem dũng lực của mình để
dứt 
sạch mọi nguyên nhân đã gây nên đau khổ. Nội dung của lời nguyện
có liên 
hệ mật thiết với sự thật thứ hai – nguyên nhân của khổ 
đau 
(tập đế) – của giáo lí Bốn Sự Thật.
3. Lời nguyện thứ ba: Pháp môn
không 
kể xiết, thệ nguyện đều tu học.
Lời nguyện này phát xuất từ đức 
tính 
trí tuệ của đạo Phật. Pháp môn là tất cả những phương
pháp 
hành động chân chính dùng để tận diệt phiền não, chấm dứt khổ 
đau và xây 
dựng hạnh phúc, an lạc. Đó là những lời Phật dạy được ghi chép 
trong 
rừng kinh điển đạo Phật, và tất cả những lời luận thuyết của 
hàng đệ tử 
Phật trải qua bao thời đại nhằm xiển dương giáo nghĩa của đức 
Phật. Chữ
“tu học” ở đây phải được hiểu là học hiểu giáo lí và áp 
dụng giáo 
lí ấy một cách thông minh vào đời sống hằng ngày để giúp ích cho
chính 
mình và cho mọi người, mọi loài. Có học như vậy thì pháp môn kia
mới trở 
thành hành trang chính yếu và quí báu cho hành giả vào đời. Pháp
môn ấy 
sẽ là cây kiếm báu để chặt đứt mọi gốc rễ của phiền não, là viên
gạch 
bền chắc để xây nền móng cho tòa nhà an lạc, và là nước trong, 
gạo 
trắng, hoa cỏ xinh tươi, không khí thơm lành của cõi tịnh độ.  
Lời 
nguyện đã nói lên cái ý chí khai mở trí tuệ của hành giả, vì 
chúng ta 
từng biết rằng, tình thương, trí tuệ và hùng lực là ba yếu tố 
cần thiết, 
không thể thiếu một, cho những người phát tâm thực hành hạnh 
Bồ-tát. Nội 
dung lời nguyện đã gắn bó chặt chẽ với sự thật thứ tư – 
phương 
pháp hành động để chấm dứt khổ đau và đạt tới an lạc, giải thoát
(đạo đế) – của giáo lí Bốn Sự Thật.
4. Lời nguyện thứ tư: Quả Phật
không 
gì hơn, thệ nguyện được viên thành.
Quả Phật 
là sự nghiệp giác ngộ đã được trọn vẹn. Đối với người tu học, 
không có 
mục đích gì khác hơn, không có địa vị nào cao hơn là đạo quả 
giác ngộ. 
Khi đã có đầy đủ ba đức tính từ bi, trí tuệ và hùng
lực tức là hành giả đã có đầy đủ tư cách của một đức 
Phật. Cho 
nên lời nguyện này đã nói lên cái mục tiêu cuối cùng mà hành giả
quyết 
tâm đạt tới, đó là sự nghiệp giác ngộ toàn vẹn sau khi đã tự độ,
độ tha, 
tự giác, giác tha. Nội dung của lời nguyện đã gắn bó mật thiết 
với sự 
thật thứ ba – sự hiện hữu của an lạc và giải thoát (diệt 
đế) 
– của giáo lí Bốn Sự Thật.Thật là rõ ràng, bốn lời 
nguyện 
lớn này đã được đặt nền tảng trên giáo lí Tứ Đế;
và cũng vì giáo lí ấy là một nhận thức toàn bộ, bất khả phân li 
về các 
sự thật to lớn của cuộc sống, cho nên bốn lời nguyện lớn này 
cũng phải 
là một ý thức toàn bộ, bất khả phân li của hành giả khi dấn thân
vào 
đời. Bốn lời nguyện đã được trình bày theo một thứ tự hợp lí và 
liên hệ 
mật thiết với nhau: Phải thấy được khổ đau mới có ý chí chấm 
dứt khổ 
đau để kiến tạo an lạc; muốn vậy phải tu học các phương pháp 
hành động 
chính đáng; và khi khổ đau đã chấm dứt, an lạc và giải thoát đã 
thành 
đạt thì hành giả thành tựu được sự nghiệp giác ngộ trọn vẹn.Kinh
văn 
Hán Việt chép bốn lời nguyện lớn này như sau:Chúng 
sinh vô 
biên, thệ nguyện độ.Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn.Pháp môn 
vô lượng, 
thệ nguyện học.Phật đạo vô thượng, thệ nguyện thành.Vì có 
các tiếng
vô biên, vô tận, vô lượng, vô thượng cho nên những lời 
nguyện của 
hành giả đã trở thành là những lời “nguyện lớn”.Trong 
phần 
“Hồi Hướng” của các nghi thức được in trong tập Nghi Thức
Tụng 
Niệm (toàn bằng quốc văn) do nhà Lá Bối ấn hành năm 1994, 
bốn lời 
nguyện lớn này được ghi như sau:Pháp môn xin nguyện học;Ơn 
nghĩa xin 
nguyện đền;Phiền não xin nguyện đoạn;Quả Bụt xin chứng nên.Lời
nguyện “Ơn nghĩa xin nguyện đền” ở đây chỉ là một 
cách nói 
khác nhưng có phần rõ ràng, thực tế hơn cách nói “Chúng sinh 
vô biên, 
thệ nguyện độ” ở trên. Người tu học luôn luôn nhận thức 
rằng, tất cả 
mọi người, mọi loài, mọi vật trong vũ trụ đều có ơn nghĩa với 
ta, và đều 
có liên quan ơn nghĩa với nhau. Không gian, thời gian, trăng 
sao, không 
khí, đám mây, đống đất, cọng rau, cành hoa, con chim, con cá, 
con thú, 
bác nông phu, cô thợ dệt, em bé, cụ già v.v... nghĩa là tất cả 
những gì 
hiện hữu chung quanh ta cũng đều là nguồn sống hoặc có liên quan
đến sự 
sống của ta, cho nên đều là ơn nghĩa của ta. Đã biết có ơn thì 
đền ơn 
phải là bổn phận. Và cách đền ơn chính đáng, cụ thể của hành giả
là bằng 
mọi cách đem lại lợi ích, an lạc cho đối tượng đền ơn. Đó chính 
là tư 
cách phụng sự xã hội của những người tu học. Vậy thì ý nghĩa 
đích thực 
của chữ “độ” trên đây không có gì khác hơn là đền
ơn, 
hay phụng sự.  
 
BỐN MỆNH ĐỀ
(tứ cú)
 
Bốn mệnh đề ở đây là bốn lời phát
biểu 
nói lên bốn trình độ hiểu biết về vũ trụ vạn pháp của người tu 
học khi 
tuệ giác chưa sáng tỏ.
1. Có (hữu). Vũ trụ vạn 
hữu là có 
thật, nghĩa là có một bản ngã đồng nhất, chân thật.
2. Không (vô). Vũ trụ vạn 
hữu là 
không có thật, chỉ là giả hợp, hư huyễn, tạm bợ.
3. Vừa có vừa không (diệc hữu 
diệc 
vô). Vũ trụ vạn hữu là có thật về mặt bản thể nhưng lại là 
hư huyễn 
về mặt hiện tượng.
4. Không có cũng không không 
(phi hữu 
phi vô). Quan niệm vũ trụ vạn hữu là có thật về bản thể cũng
không 
phải, mà hư huyễn về mặt hiện tượng cũng không phải.
Dù là “có”, dù là 
“không”, dù là “vừa có vừa không”, cho đến
“không có cũng không không”, bốn mệnh đề trên vẫn chỉ là
bốn 
khái niệm về vạn hữu; vả chăng, chúng chỉ là một chuỗi diễn tiến
của 
việc dùng khái niệm sau để phủ nhận khái niệm trước. Trong khi 
đó thì 
thật tướng của vạn hữu không thể thấy được bằng khái niệm, không
thể 
diễn tả bằng ngôn từ. Vậy muốn thấy được thật tướng của vạn hữu,
hành 
giả phải vất bỏ cả bốn mệnh đề kia đi, đừng để bị mắc kẹt vào 
khái niệm, 
phân biệt. Hãy nhìn cây hồng là cây hồng. Thật tướng của cây 
hồng chính 
là cây hồng. Nếu bỏ cây hồng để đi tìm thật tướng của cây hồng 
thì suốt 
đời cũng không bao giờ thấy được thật tướng của cây hồng. 
 
 
BỐN NGUYÊN TỐ
(tứ đại)
 
Chữ “nguyên tố”, danh từ 
Phật học 
Hán Việt gọi là “đại”, có nghĩa là nhiều, rộng 
lớn, bao 
quát, cùng khắp. Tất cả những gì gọi là sắc pháp (vật 
chất) ở 
trong vũ trụ, hay gần gũi nhất là chính xác thân con người, đều 
do bốn 
nguyên tố sau đây tạo thành:
1. Nguyên tố rắn chắc, hay “đất”
(địa 
đại)
2. Nguyên tố ẩm ướt, lưu nhuận, 
hay 
“nước” (thủy đại)
3. Nguyên tố viêm nhiệt, hay “lửa”
(hỏa đại)
4. Nguyên tố chuyển động, hay “gió”
(phong đại)
Kinh Anh Lạc phân biệt có 
hai loại 
“tứ đại”: tứ đại có nhận thức (tức là thân thể của các 
loài có 
tình thức) và tứ đại không có nhận thức (các loài không 
có tình 
thức). Vì vậy, trong các kinh luận thường nói, thân người là do 
tứ đại 
hòa hợp mà thành, cho nên chỉ là giả tạm, không thật có.
Ngoài bốn nguyên tố trên, có nơi còn thêm một nguyên tố nữa để 
thành 
“ngũ đại”: đó là nguyên tố trống rỗng (không đại). 
Tính chất 
của hư không là không chướng ngại, nên dung chứa tất cả vạn 
pháp; và 
cũng vì có hư không nên mới có tất cả vạn pháp. Những khoảng 
trống trong 
thân người đều thuộc về không đại. Lại nữa, khi đề cập 
đến năm 
uẩn (xin xem mục “Năm Uẩn” ở sau), 
thì năm nguyên tố trên (địa, thủy, hỏa, phong và không) mới chỉ 
được bao 
gồm trong “sắc uẩn”; nhưng bản thân con người, ngoài sắc 
uẩn 
(phần sinh lí) ra còn có bốn uẩn khác thuộc về tâm lí, nói chung
là 
thức. Vì vậy, trong các kinh điển, ngoài các pháp số về tứ
đại, 
ngũ đại còn có pháp số về lục đại, gồm có: địa,
thủy, hỏa, phong, không và thức. Nhưng, khi nói đến 
hư không 
tức là nói đến không gian, mà không gian thì tự nó có phương 
hướng; 
và đã nói đến không gian thì cũng không thể bỏ sót thời gian;
do 
đó, thỉnh thoảng chúng ta còn thấy có pháp số bát đại,
gồm 
có: địa, thủy, hỏa, phong, không, thời, phương, thức. 
 
 
BỐN ƠN
(tứ ân - tứ trọng ân)
 
Đối với người tu học, tất cả 
những gì 
hiện hữu chung quanh mình đều có ơn nghĩa đối với mình; cho nên,
tất cả 
mọi phụng sự của hành giả đối với xã hội, dù là cho con sâu, cái
kiến, 
đều mang ý nghĩa của sự đền ơn. Kinh luận thường nói, có bốn đối
tượng 
đền ơn của người tu học. Theo kinh Tâm Địa Quán, bốn ơn 
ấy là:
1. Ơn cha mẹ.
Cha mẹ sinh thành dưỡng dục là ơn
đức vô 
cùng thâm trọng mà hành giả suốt đời không thể nào quên được.
2. Ơn chúng sinh.
Mọi người và mọi loài chung quanh
đều là 
nguồn sống hoặc liên quan mật thiết về mọi mặt đến sự sống của 
hành giả.
3. Ơn quốc vương.
Đời sống của hành giả được an 
ninh, cơm 
áo nhà ở có đủ, đi lại tiện lợi, không khí tự do thoải mái, làm 
cho việc 
hành đạo của hành giả được thuận lợi, dễ dàng, dân chúng an cư 
lạc 
nghiệp, đó là nhờ sự điều hành hữu hiệu của guồng máy lãnh đạo 
quốc gia.
4. Ơn Tam Bảo.
Nhờ có Phật Pháp Tăng mà hành giả
có nơi 
để quay về và nương tựa như hôm nay. Tất cả những đức tính quí 
báu mà 
hành giả học hỏi và hành trì để làm nên nhân cách cao thượng cho
mình, 
cũng như những hành trang tinh thần mà hành giả có được để phụng
sự xã 
hội một cách tốt đẹp là đều do từ Tam Bảo.
Vài nơi khác lại nói bốn ơn ấy 
là:
1. Ơn cha mẹ.
2. Ơn sư trưởng: tức là 
những bậc 
đã cho hành giả kiến thức và khai mở cho hành giả trí tuệ cùng 
tình 
thương.
3. Ơn quốc vương.
4. Ơn thí chủ: tức là 
những người 
cung cấp cho hành giả những vật dụng cần thiết hằng ngày như cơm
ăn, áo 
mặc, thuốc men và nhà ở.
Trong “Nghi Thức Chúc Tán”
được in 
trong tập Nghi Thức Tụng Niệm (toàn bằng quốc văn) do nhà
Lá Bối 
ấn hành năm 1994, bốn ơn này được kể ra như sau:
1. Ơn cha mẹ.
2. Ơn sư trưởng.
3. Ơn bằng hữu và các bậc 
thiện tri 
thức.
4. Ơn mọi loài chúng sinh, cây
cỏ và 
đất đá.
Ở đây chúng ta thấy, “bạn bè 
và các 
bậc thiện tri thức” cũng đã đóng một vai trò quan trọng 
trong cuộc 
đời hành đạo của người tu học. Cha mẹ và sư trưởng
đối với 
hành giả có ơn nặng đã đành, nhưng trên bước đường du phương 
hành hóa, 
đâu phải lúc nào hành giả cũng có cha mẹ và sư trưởng ở bên 
cạnh! Vì 
vậy, sự có mặt của bạn bè và các bậc thiện tri thức ở 
từng địa 
phương thật là cần thiết và hữu hiệu cho hành giả trong việc học
hỏi, 
trao đổi kiến thức và kinh nghiệm, hoạch định chương trình và 
phương 
sách làm việc v.v... Cho nên, họ cũng trở thành một trong bốn ơn
nặng 
của hành giả.
 
 
BỐN PHÉP NHƯ Ý
(tứ như ý túc - tứ thần túc)
 
“Như ý túc” 
là thành tựu như ý mong muốn. Đây là bốn phép tu tập thiền định 
để đạt 
được chánh định cùng các khả năng mầu nhiệm (thần thông), là 
những trợ 
lực giúp hành giả hoàn thành đạo quả giác ngộ.
1. Lòng mong muốn đạt được
đạo quả 
giác ngộ (Dục như ý túc).
2. Tâm chuyên chú vào đạo 
quả giác 
ngộ (Niệm, Tâm, hay Định như ý túc).
3. Chí kiên trì tiến tới 
đạo quả 
giác ngộ (Tinh tấn như ý túc).
4. Tham cứu, suy tư, quán 
chiếu về 
thực tại để đạt được đạo quả giác ngộ (Tư duy, hay Quán
như ý 
túc). 
 
 
 
BỐN PHIỀN NÃO
(tứ phiền não - tứ hoặc)
 
“Phiền não” 
là những hiện tượng tâm lí xấu xa, sai lầm, là động lực thúc đẩy
con 
người làm nên mọi điều tội lỗi về cả ba nghiệp thân, khẩu và ý. 
Phiền 
não còn có nhiều tên gọi khác như: hoặc (sai lạc, lừa 
dối), 
kết (đọng, ngưng tụ, thắt buộc), triền (trói, ràng 
buộc), 
sử (sai khiến, thôi thúc), lậu (rơi rớt, lọt xuống). 
Trong 
tám tác dụng nhận thức(1) 
tính chất của thức mạt-na là chấp ngã, một tính 
chất sai 
lầm của nhận thức về ngã, mà nguyên do là sự tác động của bốn
thứ 
phiền não sau đây:
1. Ngã si.
Ngã si 
tức là vô minh. Vì tâm tính mê muội nên cho rằng có cái ta thực 
sự tồn 
tại mà không thấy được tính chất vô ngã của bản thân. Có thể 
nói, vô 
minh chính là bản thân của thức mạt-na.
2. Ngã kiến.
Ngã kiến, 
hay ngã chấp, là cái thấy sai lạc do sự phân biệt ngã với
phi 
ngã, ngã với nhân, ngã với pháp.
3. Ngã mạn.
Ngã mạn 
là tính tự mãn, kiêu ngạo, là nguyên do của các hành động khinh 
khi, 
hách dịch, phách lối, chèn ép, lộng hành.
4. Ngã ái.
Ngã ái, hay tự ái, là tự 
mê đắm 
lấy thân danh mình để rồi sinh ra tham dục, ích kỉ, ghen ghét, 
bảo thủ, 
oán thù, sân hận.
Bốn cái thấy sai lạc về ngã 
trên đây thường xuyên tác động trên thức mạt-na, khiến 
cho sinh 
ra mọi ác nghiệp, đã làm cho thức này trở thành là đầu mối cho 
dòng sinh 
tử luân hồi. Dù là sáu thứ phiền não căn bản hay là hai mươi thứ
phiền 
não phụ thuộc(2) 
thì cũng đều do từ bốn cái thấy sai lạc về ngã này mà 
sinh ra; 
cho nên chúng cũng được gọi là “bốn phiền não căn bản”.
  
CHÚ 
THÍCH 
(1) Xin xem mục “Tám Thức” ở 
sau.
(2) Xin xem mục “Một Trăm Pháp” ở
sau.
 
 
 
 
BỐN SỰ CẦN MẪN
(tứ chánh cần)
 
Ở một mục sau, khi đề cập tới “tám
thức”, chúng ta sẽ thấy rằng, thức a-lại-da có khả 
năng chứa 
đựng tất cả hạt giống (chủng tử) tốt và xấu. Nếu nó cứ thường 
xuyên tiếp 
nhận được các hạt giống tốt thì dần dần các hạt giống xấu sẽ bị 
lấn át, 
chuyển hóa, hoặc tiêu diệt. Khi nào trong nó chỉ còn thuần các 
hạt giống 
tốt – nghĩa là các hạt giống xấu đã hoàn toàn bị tiêu diệt, thì 
tự thân 
nó cũng sẽ được chuyển đổi để trở thành đại 
viên cảnh trí, 
một trong bốn trí tuệ của bậc giác ngộ (như mục “Bốn 
Trí Tuệ” 
sẽ trình bày ở sau). 
Nhưng, muốn cho thức a-lại-da
thường xuyên được huân tập các chủng tử tốt như vậy, hành giả 
phải luôn 
luôn siêng năng thực hành bốn điều sau đây:
1. Phải chấm dứt triệt để các 
hành 
động xấu (kể cả về thân, khẩu và ý) đã làm nên. Đừng 
tái 
phạm, cũng không làm cho các lỗi lầm ấy to lớn thêm.
2. Phải thấy trước và kịp thời ngăn
ngừa, chận đứng các hành động tội lỗi có thể, nhưng chưa xảy ra.
3. Phải thấy được và quyết tâm thực
hiện các hành động tốt đáng thực hiện, nhưng chưa được thực 
hiện.
4. Phải tiếp tục đẩy mạnh và 
hoàn tất 
các việc tốt đang được thực hiện.
Đối với bốn điều trên đây, hành 
giả lúc 
nào cũng siêng năng và chăm chú thi hành, đừng để cho những giây
phút 
lười biếng, xao lãng xen vào; và như thế tức là hành giả đang 
sống nếp 
sống tỉnh thức thường trực. Siêng năng như thế thì gọi là siêng
năng 
chính đáng (chánh cần); nếu siêng năng làm những điều
xấu xa, 
tội lỗi thì gọi là siêng năng bất chánh, chỉ đem lại đau 
khổ mà 
thôi.
 
 
BỐN SỰ Y CỨ
(tứ y)
 
Có bốn điều nên y cứ và không nên
y cứ mà 
hành giả phải thật cẩn thận để khỏi bị lầm lạc trong khi tu học:
1. Y cứ vào giáo pháp chứ 
không y cứ 
vào người dạy giáo pháp (y pháp, bất y nhân).
Giáo pháp 
là chân lí, là con đường, là các phương pháp hành động đưa đến 
chỗ diệt 
trừ khổ đau, có được giải thoát, an lạc, và đạt được tuệ giác 
siêu việt 
của bậc giác ngộ. Vì vậy, bất cứ kinh luận nào hàm chứa giáo 
pháp như 
thế, bất cứ người nào giảng dạy hay trước thuật giáo pháp như 
thế, thì 
đó là nơi y cứ tu học của hành giả; còn bất cứ kinh luận nào 
không hàm 
chứa giáo pháp như thế, và bất cứ người nào, dù họ có tự xưng là
Phật 
sống hay thánh nhân, mà không diễn nói, trước thuật giáo nghĩa 
như thế, 
thì hành giả nên tránh xa.  
Trong thiền môn thường có câu 
châm ngôn:
“Dù cho là chú sa di, nhưng 
nói năng đúng với chánh pháp thì 
cũng 
xứng đáng để cho vị tì kheo nghe theo và học hỏi.” (Sa di thuyết
pháp sa 
môn thính.)
2. Y cứ vào ý nghĩa chứ không y
cứ vào 
lời nói (y nghĩa, bất y ngữ).
“Nghĩa” 
ở đây là nội dung sâu xa, đích thực của chân lí, là thật tánh 
của vạn 
hữu. Nó thoát ra ngoài sự diễn đạt của ngôn ngữ, suy tư và khái 
niệm. 
Lời nói dù có rõ ràng, chính xác đến mức độ nào đi nữa, thì vẫn 
là cái 
khung hạn hẹp, gò bó, không đủ khả năng làm hiển lộ chân tướng 
của thực 
tại. Vì vậy, lời nói chỉ được xem là phương tiện cần thiết giúp 
hành giả 
đạt tới chân lí, như dùng chiếc bè để qua sông, như ngón tay để 
trỏ thấy 
mặt trăng. Khi đã qua sông rồi thì bỏ chiếc bè đi, khi đã thấy 
mặt trăng 
rồi thì không cần ngón tay nữa. Cũng vậy, hành giả hãy xuyên qua
ngôn 
thuyết để tìm thấy chân lí, và khi đã thấy được 
rồi thì 
không còn y cứ vào ngôn thuyết nữa. Một câu chuyện điển hình mà 
chúng ta 
có thể dùng để chiêm nghiệm trong trường hợp này là câu chuyện 
đức Phật 
đưa cành hoa lên trước đại chúng và tôn giả Đại Ca Diếp đã nhìn 
cành hoa 
mỉm cười.
3. Y cứ vào trí chứ không y cứ
vào 
thức (y trí, bất y thức).
Ở đây, “trí” là trí tuệ 
giác ngộ, 
và “thức” là các tác dụng nhận thức. Như mục “Bốn Trí 
Tuệ” 
sẽ được trình bày ở sau, khi tâm còn ở trạng thái ô nhiễm, mê 
muội, sai 
lầm thì gọi là “thức”, và khi đã được chuyển đổi hoàn 
toàn sang 
trạng thái thanh tịnh, giác ngộ, thì nó trở thành “trí”. 
Tính 
chất của nhận thức luôn luôn là biến kế chấp, cho nên chỉ
đạt 
được tự tính biến kế sở 
chấp 
của sự vật. Chỉ có dùng trí tuệ quán chiếu tự tính y tha 
khởi 
của thực tại thì mới thấy được tự tính viên 
thành thật 
của thực tại mà thôi.  
Vậy người tu học không nên trông 
cậy vào
cái biết của thức (vì đó chỉ là tâm vọng tưởng 
phân biệt), 
mà chỉ trông cậy vào cái
thấy 
chứng ngộ của tuệ giác
mà 
thôi.
4. Y cứ vào kinh “liễu nghĩa” 
chứ 
không y cứ vào kinh “bất liễu nghĩa” (y liễu nghĩa kinh, bất y 
bất liễu 
nghĩa kinh).
Trong ba tạng giáo điển Phật 
giáo, có các 
loại kinh luận hướng dẫn người tu học đi thẳng vào chân tướng 
của thực 
tại một cách mau lẹ, dứt khoát và trọn vẹn, được gọi là kinh “liễu
nghĩa” (hầu hết là kinh điển đại thừa); còn các loại kinh 
luận không 
đề cập đến chân tướng của thực tại, hoặc có đề cập nhưng không 
bằng cách 
trực tiếp, dứt khoát, trọn vẹn, mà chỉ là dùng phương tiện để 
hướng dẫn 
từng bước một, dành cho những người có cơ trí chậm chạp, thấp 
kém, thì 
gọi là kinh “bất liễu nghĩa”. Ví dụ, đối với vấn đề “sinh
tử - 
niết bàn”, kinh bất liễu nghĩa nói: Sinh tử là đau
khổ. 
Người trí nên chán ghét sinh tử, dứt bỏ tâm tham muốn tái sinh 
để hưởng 
được niềm an lạc giải thoát nơi cảnh giới niết bàn. Trong khi 
đó, kinh
liễu nghĩa lại nói: Sinh tử và niết bàn chỉ là hai
trạng 
thái của cùng một thực thể. Những cách nói như: “Phật và 
chúng sinh 
là một”; “phiền não tức là bồ đề”; “chuyển thức thành trí”; “chủ
thể và 
đối tượng là một toàn bộ nhận thức”; “không có nhị thừa hay tam 
thừa mà 
chỉ có nhất thừa” v.v..., đều là những khai thị trực tiếp, 
trọn vẹn 
vào thực thể chân như của kinh liễu nghĩa. Mục đích của 
người tu 
học theo con đường đại là “kiến tánh thành Phật”, cho nên
chỉ lấy
kinh liễu nghĩa làm chỗ y cứ, mà không nên trông 
cậy vào
kinh bất liễu nghĩa; đó cũng là chủ ý của đức Phật trong 
các bộ 
kinh đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn v.v... 
 
 
BỐN SỰ THẬT
(tứ đế - tứ chân đế - tứ diệu đế -
tứ 
thánh đế)
 
Sau khi thành đạo, đức Phật đã 
đến vườn 
Nai (Lộc uyển) gần kinh thành Ba-la-nại và nói bài pháp đầu tiên
về 
Bốn Sự Thật (tứ đế). Năm vị sa môn đang tu tập tại đây (gồm 
Kiều 
Trần Như, Ác Bệ, Thập Lực Ca Diếp, Ma Ha Na Ma và Bạt Đề – đều 
là bạn 
đồng tu với Phật lúc trước ở rừng Khổ-hạnh), nhờ nghe pháp thoại
này mà 
tỉnh ngộ, trở thành năm vị đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật. Có 
thể nói, 
đó là giáo lí căn bản của đạo Phật. Tất cả mọi kinh điển, giới 
luật hay 
luận thuyết (thuộc tiểu thừa cũng như đại thừa) đều nhằm phát 
huy ý 
nghĩa sâu xa của giáo lí Bốn Sự Thật mầu nhiệm này.
1. Sự thật thứ nhất: Sự Có Mặt
Của Khổ 
Đau (khổ đế).
Sự có mặt của khổ đau 
trong đời sống là sự thật hiển nhiên. Người ta chỉ có thể tìm 
cách để 
tránh khổ đau, vượt thoát khổ đau, hay tiêu diệt khổ đau, chứ 
không thể 
nào chối bỏ được khổ đau. Bương chải vì cuộc sống, nghèo túng, 
đói lạnh, 
bệnh tật, già yếu, mất mát, chiến tranh, chết chóc, biệt li, 
thất vọng, 
chia rẽ, đố kị, bất công, tủi nhục, thù hận, ngu dốt v.v..., đều
là 
những khổ đau thường trực của đời sống mà bất cứ ai cũng phải 
trải qua. 
Kinh Chuyển Pháp Luân nói: “Quí vị nghĩ xem bên nào 
nhiều hơn, 
nếu đem so sánh nước trong bốn biển với nước mắt tuôn ra suốt 
cuộc hành 
trình dài đằng đẵng từ khi quí vị hối hả chen lấn nhảy vào dòng 
sông 
sinh tử? Quí vị đã than khóc quá nhiều vì phải chung sống với 
những gì 
không vừa ý và phải xa lìa những gì thật thân yêu trìu mến. Quí 
vị phải 
đau khổ vì cha mẹ lìa trần, vì phải mất con cái, phải chia lìa 
anh chị 
em; và nước mắt của quí vị đã đổ ra còn nhiều hơn nước trong bốn
biển. 
Lại nữa, những dòng máu đã chảy ra từ thân xác quí vị vì bị hành
hạ, tra 
tấn, tàn sát trong suốt cuộc hành trình dài đằng đẵng ấy cũng 
nhiều hơn 
nước trong bốn biển...”
2. Sự thật thứ hai: Nguyên 
Nhân Sinh 
Ra Khổ Đau (tập đế).
Bất cứ một hiện tượng đau khổ nào
cũng 
đều do một hoặc nhiều nguyên nhân sinh ra. Một cách tổng 
quát, 
Phật dạy rằng, sự thiếu sáng suốt (vô minh), lòng tham
dục, 
sân hận, là những nguyên nhân to lớn nhất đã sinh ra đau 
khổ. Kinh
Chuyển Pháp Luân nói: “Chính lòng tham dục là nguyên 
nhân đưa 
đến khổ đau. Bị lòng tham dục chi phối và sai khiến, chúng sinh 
phải 
dính mắc và tạo ra vô số nghiệp, đưa tới muôn ngàn thống khổ như
già 
nua, bệnh tật, chết chóc, sầu não, đau đớn, thất vọng v.v... Đến
một 
thời gian nào đó, nước ở biển cả cạn khô, quả đất bị lửa thiêu 
hủy, 
nhưng các điều thống khổ vẫn còn tồn tại nếu chúng sinh vẫn bị 
màn vô 
minh che lấp, vẫn sa vào cạm bẫy của tham dục, vẫn hối hả chen 
lấn nhau 
nhảy vào dòng sông sinh tử.”
3. Sự thật thứ ba: Sự Chấm Dứt
Khổ Đau 
hay Sự Có Mặt Của Giải Thoát Và An Lạc (diệt đế).
Tuy khổ đau là sự thật hiển nhiên
của 
cuộc sống, nhưng đó không phải là sự kiện bền chắc đến độ không 
thể phá 
vỡ được; trái lại, đó là sự kiện mà chúng ta có thể làm cho vơi 
bớt, 
cũng như có thể vượt thoát và tiêu diệt được. Khổ đau càng vơi 
bớt thì 
niềm vui càng to lớn; vượt thoát được khổ đau thì liền được giải
thoát; 
chấm dứt được khổ đau thì liền có an lạc. Cho nên, nếu khổ 
đau đã 
là sự thật hiển nhiên của cuộc sống thì an lạc và giải 
thoát 
cũng là sự thật hiển nhiên của cuộc sống. Nói cách khác, khổ
đau và an lạc luôn luôn là hai mặt của cùng một thực 
tại. Kinh
Chuyển Pháp Luân nói: “Bị bối rối vì tham dục, bị 
cuồng loạn 
vì sân hận, bị mù quáng vì si mê, bị tràn ngập bởi ảo vọng, con 
người sẽ 
hướng về sự hủy diệt mình, hủy diệt kẻ khác, để rồi gánh chịu 
đau khổ. 
Cho đến khi nào tâm tham dục, sân hận, si mê bị tẩy trừ thì 
chừng đó con 
người sẽ không còn định hủy diệt mình, hủy diệt kẻ khác, và 
chẳng còn 
đau khổ nữa. Người có tâm thanh tịnh, không còn sân hận, tham 
vọng, 
phiền não, thấy các trạng huống đối đãi (như tốt xấu, lành dữ, 
lớn nhỏ, 
cao thấp, sang hèn v.v...) mà vẫn thản nhiên, không xao động, 
người ấy 
đã vượt khỏi những đau khổ về già nua, bệnh tật, sinh tử rồi 
vậy.  Như 
thế, niết bàn có thể thành đạt ngay trong kiếp hiện tại. Dập tắt
tham 
dục, sân hận, si mê, đó là niết bàn.”
 
4. Sự thật thứ tư: Con Đường 
Diệt Khổ 
Để Đạt Được An Lạc Và Giải Thoát (đạo đế).
Muốn diệt trừ khổ đau để có được 
an lạc 
và giải thoát, người tu học phải biết cách hành động chính đáng 
và cụ 
thể. Các giáo lí đề cập về ba môn học giải thoát (tam 
vô lậu 
học), bốn lĩnh vực quán niệm (tứ niệm xứ), năm
khả 
năng (ngũ căn), năm sức mạnh (ngũ lực),
sáu 
phép qua bờ (lục độ), bảy yếu tố giác ngộ (thất
giác chi), tám nguyên tắc hành động chân chính (bát
chính 
đạo) v.v... đều có thể coi là những hướng dẫn căn bản, cặn 
kẽ, chính 
đáng và cụ thể mà người tu học phải áp dụng trong đời sống hằng 
ngày để 
vượt thoát khổ đau, đem lại nếp sống hạnh phúc, an lạc cho bản 
thân, cho 
gia đình, cho xã hội và cho muôn loài. Kinh Chuyển Pháp Luân 
nói: 
“Một đàng là buông thả say mê trong các thú vui trần tục, nhơ 
bẩn, thấp 
hèn; còn đàng khác là tự chế bằng cách hành hạ thân thể; cả hai 
đều 
không thanh cao mà cũng chẳng đem lại ích lợi gì. Bậc Toàn Giác 
tránh cả 
hai nẻo đó và đã khám phá, xây đắp nên con đường đi giữa, rồi 
đem ra 
giảng giải, giáo hóa để đưa chúng sinh tới nơi an lạc, tới sự 
nhận xét 
rõ rệt, tới giác ngộ, tới niết bàn. Con đường đó không hành hạ 
thân thể, 
không gây đau đớn, than van, khổ não. Đó là con đường huyền diệu
gồm có 
tám cách hành trì chân chính để tẩy uế nội tâm, để thấy rõ chân 
lí, đưa 
đến chấm dứt nguồn gốc khổ đau. Chẳng bao lâu nữa, chính trong 
kiếp này 
đây, nếu quí vị cố công học hỏi, trì chí thực hành thì sẽ thành 
đạt đạo 
quả giải thoát không sai.”
Giáo lí bốn sự thật
này 
được xây dựng căn cứ trên luật nhân quả, theo đó, có hai 
cặp nhân 
quả như sau được trình bày theo thứ tự Quả trước, Nhân sau:
 
1) Quả: Khổ đau có 
mặt,
    Nhân: Vì có các
nguyên 
nhân gây ra khổ đau.
2) Quả: Khổ đau 
chắc chắn 
sẽ chấm dứt,
    Nhân: Do thực 
hành các 
nguyên tắc hành động chân chính. 
Hai cặp nhân quả trên đây phải 
được nhìn 
trong mối tương quan mật thiết của chúng, và do đó, giáo lí Bốn
Sự 
Thật cũng phải là một toàn bộ hệ thống nhận thức nhằm trình 
bày 
nguyên vẹn các sự thật to lớn của đời sống. Sự thật thứ nhất,
sự 
có mặt của khổ đau, là nhận thức đầu tiên và căn bản của
đạo 
Phật. Không có nhận thức này thì đã không có Phật và đạo Phật. 
Nhưng nếu 
chỉ có nhận thức đó mà thôi, hay nói cách khác, nếu chỉ dừng lại
ở nhận 
thức đó thì cũng không bao giờ có Phật và đạo Phật. Vì sao? Vì 
khổ đau 
chỉ là một mặt của đời sống, trong khi đó, ở mặt khác của đời 
sống, 
chúng ta còn thấy có hạnh phúc và an lạc. Vì thế, cả sự có
mặt của 
khổ đau (sự thật thứ nhất) và sự có mặt của
hạnh 
phúc và an lạc (sự thật thứ ba) đều là những nhận
thức 
căn bản của đạo Phật. Phải có đủ hai nhận thức như thế mới gọi 
là đạo 
Phật. Và mục tiêu của đạo Phật là gì? Điều chắc chắn không phải 
là chỉ 
nhằm trình bày một cách tiêu cực về hai nhận thức đó. Mục tiêu 
của đạo 
Phật là chấm dứt khổ đau để đạt tới an lạc và giải thoát. Muốn 
vậy, 
trước hết phải thấy được khổ đau và có ý chí muốn 
dứt trừ 
khổ đau. Muốn dứt trừ khổ đau thì phải tìm cho ra 
những 
nguyên nhân xa gần nào đã gây ra khổ đau; vì chúng ta biết rằng,
chỉ cần 
diệt trừ được những nguyên nhân kia thì khổ đau tức khắc chấm 
dứt. Cho 
nên việc tìm kiếm để thấy rõ nguyên nhân của khổ đau là một công
phu vô 
cùng quan trọng của người tu học. Nó đòi hỏi sự tập trung tâm ý,
óc sáng 
suốt, tinh thần dũng cảm, vô tư và thành thật. Sau khi các 
nguyên nhân 
gây ra đau khổ đã được khám phá, bây giờ hành giả sẽ tìm 
và chọn 
các phương pháp hành động chính đáng và thích hợp nhất 
để trừ 
khử các nguyên nhân ấy.Do trên chúng ta thấy, luật nhân quả áp 
dụng vào 
giáo lí Bốn Sự Thật sẽ là chiếc chìa khóa hữu hiệu cho 
người tu 
học, dùng mở tung các cánh cửa của ngôi bệnh viện to lớn là đời 
sống của 
chính mình và của nhân loại, trong đó đang có nhiều căn bệnh 
trầm kha 
cần phải được chẩn trị. Những lời Phật dạy trong các kinh điển 
luôn luôn 
là những hướng dẫn căn bản và thực tế, nhưng phải được áp dụng 
một cách 
thông minh – vừa khế lí lại vừa khế cơ – vào đời 
sống hằng 
ngày thì mới trở nên có giá trị lớn lao và hữu ích cho chính 
mình và cho 
cả muôn loài; chứ nếu chỉ được đọc tụng suông thì chúng sẽ trở 
thành một 
thứ sở tri chướng như bao nhiêu sở tri chướng khác. 
 
BỐN TẤM LÒNG RỘNG LỚN
(tứ vô lượng tâm)
 
Danh từ Phật học Hán Việt gọi bốn
tấm 
lòng rộng lớn là “tứ vô lượng tâm”. Chữ “vô lượng”
trong kinh luận Phật giáo thường dùng, bao giờ cũng có nghĩa là 
rất 
nhiều, không thể đếm, đo đạc, hay đong lường được. Riêng ở đây, 
chữ 
“vô lượng” hay “rộng lớn” còn mang ý nghĩa là bao 
trùm tất 
cả, không hạn hẹp bởi không gian và thời gian; bình đẳng, không 
phân 
biệt ta - người, thân - sơ, bạn - thù, người - vật, trí - ngu, 
lành - 
dữ, sang - hèn, v.v... Bốn tấm lòng rộng lớn là bốn đức tính cao
thượng 
mà các đức Phật và các vị Bồ-tát luôn luôn thực hiện trong việc 
độ sinh 
để đem lại lợi ích, an lạc cho tất cả chúng sinh.1. Lòng từ 
rộng lớn 
(từ vô lượng tâm).Từ là trang trải niềm vui đến tất 
cả mọi 
người, mọi loài.  Do có lòng từ rộng lớn cho nên hành giả
có thể 
giúp ích cho tất cả đều được lợi ích, an vui, về cả vật chất lẫn
tinh 
thần.  Tình thương rộng lớn bao giờ cũng là vô điều kiện, chứ 
nếu là có 
điều kiện thì không phải là “từ vô lượng tâm”. Để thể 
hiện lòng 
từ, trước hết chính ta phải là nguồn vui rồi mới san sẻ niềm nui
cho 
người, chứ nếu lấy niềm vui của người này đem cho người khác thì
không 
phải là lòng từ.2. Lòng bi rộng lớn (bi vô lượng tâm).Bi
là lòng xót xa khi thấy mọi người, mọi loài đang bị dày vò 
trong khổ 
đau. Do có lòng bi rộng lớn mà hành giả biết buồn cái nỗi
buồn 
của người, khổ đau vì sự khổ đau của người, từ đó hành giả sẽ 
khám phá 
ra các nguyên nhân và tìm phương pháp hành động chính đáng để 
chấm dứt 
niềm đau nỗi buồn ấy. Phải đem người đau khổ ra khỏi cảnh khổ 
mới gọi là
“bi vô lượng tâm”, và đó mới là ý nghĩa của sự cứu khổ; 
còn nếu 
lấy cái khổ của người này để dời sang cho người khác thì không 
phải là
lòng bi, mà chỉ là hành động của kẻ ác mà thôi.
3. Lòng hỉ rộng lớn (hỉ vô 
lượng tâm).
Hỉ 
là niềm vui có được khi hành giả 
trông 
thấy người khác đã thoát được khổ đau và đang có an lạc. Do có lòng
hỉ rộng lớn mà hành giả luôn luôn biết vui cái vui của 
người. Đó là 
niềm vui trong sáng trong một không khí an lạc, hạnh phúc chân 
thật; 
hoàn toàn trái ngược với niềm vui gượng gạo do lòng đố kị vì 
thấy người 
khác được an lạc, hoặc niềm vui kiêu hãnh, tự mãn vì nghĩ rằng 
niềm an 
lạc của người là do mình mà có.
4. Lòng xả rộng lớn (xả vô 
lượng tâm).
Xả 
là sự buông bỏ, không chấp trước, không ôm giữ tri kiến, không 
phân 
biệt, không bị vướng mắc bởi thành bại, khen chê. Do có lòng 
xả rộng 
lớn mà hành giả trừ khử được lòng tham dục, hận thù và đố 
kị. Do có
lòng xả rộng lớn mà hành giả có thể chịu đựng, hi sinh vì
người, 
cũng như không từ bỏ bất cứ công tác độ sinh nào.  Do có lòng
xả 
mà hành giả dứt bỏ được ý thức tự mãn, kiêu mạn hoặc niềm thất 
vọng, 
buồn phiền bởi những thành công và thất bại trong các công tác 
phục vụ 
xã hội. Do có lòng xả mà hành giả bỏ được những “sở tri” 
của mình 
để lắng nghe kẻ khác và tiếp nhận những kiến thức đúng đắn mới, 
hầu có 
thể thẳng tiến mãi trên đường giác ngộ. Tóm tắt lại, chỉ khi nào
có được
“xả vô lượng tâm” thì hành giả mới có được niềm vui hồn 
nhiên, 
trong sáng và thanh thoát (tức là hỉ vô lượng tâm) của 
một người 
giải thoát, đạt đạo.Bốn tấm lòng rộng lớn Từ, Bi, Hỉ, Xả
là bốn đức tính khác nhau, nhưng cùng liên quan mật thiết với 
nhau, 
trong đó, Xả được coi là đức tính bao trùm, là 
chất liệu 
cần thiết để làm nên ba đức tính kia. Thật thế, nếu có Từ mà
không có Xả thì tình thương tuy có nhưng cũng chỉ vì ta 
mà 
thương; nếu Bi mà không có Xả thì sự xót xa kia 
cũng chỉ 
là xót xa cho chính ta; Hỉ mà không có Xả thì niềm
vui kia 
có được là chỉ vì ta mà thôi; hoàn toàn đều không phải là 
rộng lớn. 
Cho nên có thể nói, nếu không có lòng Xả thì cả “bốn
tấm lòng rộng lớn” đều không thành đạt được.Lại nữa, bốn đức
tính 
trên đây cũng có khi được gộp lại thành hai cặp: “từ bi”
và “hỉ xả”. Sự gộp lại này cho thấy một điều rất 
quan 
trọng, là Từ và Bi bao giờ cũng phải
đi đôi 
với nhau, không thể nào có Từ mà không có Bi, hoặc có Bi mà 
không có Từ; 
trong khi đó, Hỉ và Xả cũng như vậy.
Phải 
thấy rằng, từ bi là đặc tính khởi đầu và căn bản của tinh 
thần đạo 
Phật; bởi vì, như trong mục “Bốn Sự Thật” ở trên 
vừa nói, 
đạo Phật được xây dựng bắt đầu bằng sự nhận thức rõ rệt về khổ 
đau, 
nhưng muốn có được cái nhận thức ấy thì trước hết phải có lòng 
từ bi. 
Không có lòng từ bi sẽ không bao giờ nhìn thấy được khổ đau, do 
đó cũng 
không thể nào có được ý thức và hành động cứu vớt khổ đau. Cho 
nên đôi 
khi đạo Phật còn được gọi là đạo Từ Bi là vì vậy. 
Trong 
khi đó, hỉ xả là nếp sống thường trực của những bậc đạt 
ngộ 
trong đạo Phật. Thật vậy, chỉ có những bậc đã giải thoát, an 
lạc, tự tại 
mới thực sự có được nếp sống hỉ xả, cho nên đôi khi đạo Phật còn
được 
gọi là đạo Hỉ Xả. Xét cho cùng thì chúng ta phải 
nói cho 
đầy đủ rằng, đạo Phật là đạo Từ Bi Hỉ Xả, vì đã có
từ bi 
thì đồng thời cũng có hỉ xả, đã có được hỉ xả thì tức là cũng đã
có từ 
bi; không thể có từ bi nếu không có hỉ xả, cũng như không thể có
hỉ xả 
nếu không có từ bi; Từ Bi Hỉ Xả là nếp sống toàn bộ, trọn
vẹn của 
hạnh Bồ-tát.
 
 
BỐN TRÍ TUỆ
(tứ trí)
 
Nguyên tắc căn bản được đặt ra 
cho người 
tu học là phá trừ tà kiến (cái thấy sai lạc do 
chấp trước, 
cắt xén, phân biệt) để thấy được chân tướng của thực tại. Đây 
chính là 
tuệ giác siêu việt của bậc giác ngộ – mà danh từ Phật học Hán 
Việt gọi 
là “xuất thế gian trí”, “vô phân biệt trí”, hay “nhất 
thiết 
chủng trí”. Tuệ giác này chỉ có thể đạt được khi hành giả 
hoàn toàn 
không còn sự phân biệt về nhân và ngã, chủ thể và đối tượng, 
chứng đắc 
và đối tượng của chứng đắc – nghĩa là khi mà mọi thứ kiến chấp 
hoàn toàn 
bị dập tắt. Từ ngữ “đạt được” ở đây không có nghĩa là có 
thêm 
được một cái gì mới mẻ từ đâu đến, nhưng đó chính là sự chuyển 
đổi từ 
một trạng thái này sang một trạng thái khác ở chính ngay một 
thực thể. Ở 
đây, tuệ giác là sự chuyển đổi từ tám tác dụng nhận thức(1) 
ô nhiễm, sai lầm, trở thành bốn trí tuệ thanh tịnh, giác ngộ.1. Đại
viên cảnh trí.“Đại viên cảnh” là tấm gương lớn tròn 
đầy. Tuệ 
giác này chính là bản thể hoàn toàn trong sạch, sáng suốt, không
còn bị 
bất cứ thứ bợn nhơ nào che lấp, hoặc làm cho mờ tối. Nó được 
hình dung 
như một tấm gương to lớn, vẹn toàn, trong sáng, không chỗ nào bị
sứt mẻ 
hay vẩn đục, dính bụi, rọi chiếu rõ ràng chân tướng vạn hữu. Tuệ
giác 
này chính là trạng thái thanh tịnh, giác ngộ của thức 
a-lại-da(1) 
sau khi các chủng tử ô nhiễm tiềm tàng trong thức này đã được 
chuyển hóa 
tận gốc rễ. Hay nói cách khác, đây là một thực thể mà khi còn ở 
trạng 
thái ô nhiễm thì tức là thức a-lại-da, và 
khi đã 
được chuyển đổi thành hoàn toàn thanh tịnh thì tức là trí
đại viên cảnh – và đó cũng tức là chân như, là bản thể, là 
pháp 
thân.2. Bình đẳng tánh trí.“Bình đẳng tánh” tức là
tính 
không kiến chấp, không phân biệt, không cắt xén. Tuệ giác này có
khả 
năng thấy được tính cách bình đẳng của vạn pháp. Nó hoàn toàn 
thoát khỏi 
sự ràng buộc của tà kiến, chấp trước, phân biệt nhân và ngã, chủ
thể và 
đối tượng. Vì không còn bị tà kiến chi phối nên hành giả có thể 
hóa hiện 
tự do, tùy cơ ứng dụng trong mọi công tác độ sinh. Bình đẳng 
tánh 
trí chính là trạng thái thanh tịnh, giác ngộ của mạt-na
thức(1) 
sau khi các kiến chấp mê muội của thức này đã bị phá vỡ.3. Diệu
quán 
sát trí.Đây là tuệ giác chuyển đổi từ ý thức(1). 
Nó có khả năng nhìn thấu được tâm lí của mọi loài chúng sinh, 
thấy rõ 
được mọi nhu yếu và mọi vấn đề khó khăn của họ, cũng như biết 
được một 
cách sáng tỏ các giáo lí cùng là phương tiện thích hợp dùng để 
cứu giúp, 
khiến họ có thể tự tỉnh thức và mở mang giác tính. Nó cũng còn 
có thể 
thực hiện được những phép mầu nhiệm – mà ta thường gọi là thần
thông
– trong công việc độ sinh.4. Thành sở tác trí.“Sở 
tác” 
là những gì có thể làm, nên làm và đang làm – ở đây là công
tác độ 
sinh. “Thành” là hoàn tất, mang ý nghĩa như trong
các từ 
kép “hoàn thành”, “thành công”, “thành tựu”.  Thành sở tác trí 
là tuệ 
giác được chuyển đổi từ năm thức cảm giác(1). 
Nó có khả năng thực hiện được mọi phép mầu nhiệm trong các công 
tác độ 
sinh.“Những tuệ giác 
được chuyển 
từ các thức mà thành ấy chỉ có thể nhận thấy được trong lĩnh vực
tự tại 
hóa hiện. Những người đã giác ngộ, tuy sinh hoạt trong thế gian,
nhưng 
không bị kiềm thúc bởi nghiệp báo và triền sử(2).  Lí do có mặt 
của họ 
là để độ sinh. Vì vậy, trong nhân cách họ, vốn là hoa trái của 
sự hóa 
hiện từ diệu thể viên thành thực(3), các tuệ giác kia tác động 
như những 
phép nhiệm: tuệ giác không còn là thức. Nhìn một bông hoa, bậc 
giác ngộ 
cũng thấy như bất cứ ai rằng đó là một bông hoa. Sự khác nhau 
giữa hai 
bên là ở chỗ bông hoa của bậc giác ngộ không phải là một sản 
phẩm của 
biến kế chấp(3).” (Nhất Hạnh, Vấn Đề Nhận Thức Trong 
Duy Thức 
Học, Lá Bối, Paris, 1978, trang 114) 
 
CHÚ THÍCH 
(1) Xin xem mục “Tám Thức” ở sau.
(2) Triền sử: những phiền 
não ràng 
buộc và thôi thúc con người gây tội lỗi.
(3) Xin xem lại mục “Ba Tự Tính” ở
trước.