Kinh Đại Nhật (Mahavairocana Sutra)
Đại Nhật là bộ kinh quan trọng nhất của Mật Tôn. Đại Nhật được dịch từ chữ "Đại Tỳ Lô Giá Na" (Mahavairocana), nguyên nghĩa là "đại giải thoát" hay "đại giác ngộ". Đại Nhật cũng được gọi là "ánh sáng mặt trời". Đây là sự sáng chói do công năng tu hành đạt được. Màn vô minh sẽ bị đẩy lùi, sức sáng trí tuệ lan toả. Toàn bộ kinh hướng về trọng tâm nầy.Kinh điển Nhật Bản gọi là "đạo bồ đề"; Kinh điển Trung Hoa dịch là "đại chứng quả". Những ý niệm nầy có điểm tương đồng về mục đích cuối cùng của tu chứng.
Bộ kinh nầy dày đến 14 cuốn, được phân chia làm 123 chương, đại cương
trình bày 2 vấn đề chính: vấn đề lý thuyết (50 chương đầu) và vấn đề
thực hành (73 chương). Tuy nhiên hai phần bổ sung cho nhau và vấn đề
nghiên cứu phải đi từ đầu.
Những vấn đề căn bản của kinh Đại Nhật: Nghiên cứu những vấn đề chính trong kinh Đại Nhật, phải đi từng phẩm một. Những phẩm nầy có những liên hệ với nhau. Hành giả phải tiến theo từng bước. Có theo trình tự, mới quán triệt ý nghĩa. Không thể tách từng phần để hiểu ngang và điều nầy là chướng ngại trong học đạo và tu trì.
Những phẩm chính là:- Pháp Tam mật- Chưng ba kiếp- Sáu Vô úy- Đàn pháp Mạn Đà La. Mỗi phẩm lại còn chia thành nhiều vấn đề nhỏ. Đại Phật Kinh kiến giải bằng mật ngôn, nên gây trở ngại không ít về dịch thuật. Thành thử nhiều tác giả đã hiểu sai lầm hay sơ sót, thiếu nghĩa. Ngài Long Thọ, vị Bồ Tát đã được truyền thụ đầu tiên và nhiếpđịnh kinh nầy đã nhận thức rằng: " Hành giả! Đại Nhật Kinh vốn là vua trong Đại Thừa; trong giáolý Mật Tông, đây là những lời Tối Mật". Thành thử trong những bản văn nghiên cứu Kinh Đại Nhật ở Trung Hoa và Nhật Bản, vì hiểu được tánh chất của Mật ngôn, thường khởi đầu bằng câu "Có thể hiểu như vầy", để tỏ rõ sự hiểu biết giới hạn về từng câu kinh của Đại Nhật.
Pháp Tam mật: Tam mật gồm có Thân mật, Ngữ mật và Tâm mật. Phàm người tu hành theo kinh điển nầy phải dùng đến 3 phương tiện tối mật nầy để tạo thanh tịnh cho 3 Nghiệp là Thân Nghiệp, Khẩu Nghiệp và Ý Nghiệp. Nhờ đến cố gắng để bảo vệ 3 Nghiệp, sẽ nhận được sự gia trì do Tam mật của đức Như Lai. Thành tựu được phápmôn nầy sẽ được đắc quả Giải thoát, Giác Ngộ, không phải trải quanhiều kiếp sống để tu tập cho đủ các hạnh khác.
Chứng ba kiếp: Bên cạnh pháp môn Tam mật, Giáo lý về ba kiếp,là phần quan trọng trong bộ Kinh nầy. Trong Kim Cang Thừa, tu Thiền Định có thể vượt qua những vọng chấp, thoát khỏi 160 Tâm và các loại phiền não, tức là vượt qua được A Tăng Kỳ Kiếp thứ nhất. Sau đó hành giả vượt qua vọng chấp vi tế của 160 Tâm: đó là ATăng Kỳ Kiếp thứ 2. Sau cùng, nhờ công năng tu hành, vượt qua được những vọng chấp còn lại, vứt bỏ được 160 Tâm, gạt được phiền não, để đạt được Sở Tâm của Trí Tuệ Phật. Nhờ Thiền định, hành giả có thể đẩy xa các phiền não đen tối, các u ám vây quanh, đạt đến sự sáng suốt của Tâm Bồ Đề.
6 Vô Úy: gồm có Thiện Vô Úy, Thần Vô Úy, Vô Ngã Vô Úy, Pháp Vô Úy, Pháp Ngã Vô Úy và Nhất Thiết Pháp Tự Tánh Bình Đẳng Vô Úy. Trong Thiện Vô Úy, phải giữ vững Ngũ giới, làm 10 điều lành (Thập Thiện), sẽ tránh được những khổ não trong ba cõi ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh). Khi thực hành Thân Vô Úy, thì suy tưởng đến sự dơ bẩn của thân, vứt bỏ hết cái Ngã thường tình, trần tục, không còn chấp trước đến cái ngã của mình nữa.
Thực hành Vô Ngã Vô Úy tức là quán tưởng thân xác của mình là chẳng qua là sự kết hợp của Ngũ Uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Thực tập Thiền định để quán tưởng về tự tánh của Tâm, thoát tham, sân, si, tâm không phiền não, thân không kiêu căng, con người vốn chỉ do tứ đại hợp thành. Pháp Vô Úy tức là quán đến ngũ uẩn đều là không, các pháp uẩn đều trống rỗng, các hình tướng đều không có thực. Pháp Vô Ngã Vô Úy là quán về ba cõi do Tâm tạo nên. Ngoài Tâm ta ra, thì không có pháp; khi đó chính Tâm ta cũng rỗng không. Nhờ quán tưởng đến lý vô thường nầy, hành giả sẽ đắc quả Bồ Tát.
Nhờ Thiền định, có thể thấy rõ bản chất của Tâm, đạt được "cái dụng tự tại" của Tâm. Nhất Thiết Pháp Tự Tánh Bình Đẳng Vô Úy giúp ta hiểu rằng: các pháp đều do nhân quả tuần hoàn lưu chuyển mà sanh ra, không hề có tự tánh. Các tánh đều có chung một tự tánh: đó là Không tánh. Phàm những người tu theo hạnh Chơn Ngôn (trì tụng Thần Chú), sẽ đạt được trạng thái thật của Bồ Đề Tâm, vạn vật đều là như huyễn.
Đàn
pháp Mạn Đà la trong kinh Đại Nhật Kinh Đại Nhật còn chỉ rõ những nhận
định cần thiết trong việc lập Đàn pháp Mạn Đà La. Mạn Đà La được thực hiện trong Lễ Quán Đảnh, là hình tượng cao nhất để biểu hiện sự Giác Ngộ, Giải Thoát của chư Phật. Khi thực hiện Mạn Đà La, chỉ có những vị Kim Cang Sưmới đủ khả năng và đạo hạnh để thực hiện. Không thể tùy tiện sáng chế ra Mạn Đà La.Trong lễ Quán Đảnh, dựng Mạn Đà La lên, phải chọn đất và làm lễ Trí Địa (Earth Healing). Lễ Trí Địa nhằm mục đích "thanh tịnh hóa" vùng đất đó trước khi tổ chức Lễ Quán Đảnh. Nhờ vậy, tăng thêm phần uy nghi của cuộc lễ. Sau việc chọn đất là chọn ngày lành. Việc nầy phải lễ kính đến các Địa Thần phù trì.
Như thế việc chọn lấy thời gian và không gian để tổ chức lễ Quán Đảnh, thực hiện đàn pháp Mạn Đà La rất quan trọng. Những vị Đạo sư chủ lễ Quán Đảnh tập trung Thiền định và quán tưởng đến 5 vị Thiền Na Phật (Djinas). Đó là chư vị: Đức Đại Nhật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) ngự ở trung tâm, đức A Súc Bất Động Như Lai (Aksobhya), ngự ở phương Đông, đức Bảo Sanh Nhật Lai (Ratsa Sambhava) ngự ở phương Nam, đức Vô Lượng Quang A Di Đà Như Lai (Amitabha) ngự ở phương Tây và đức Bất Không Thành Tựu (Amoghasidhi) ngự ở phương Bắc.
Trong đàn pháp nầy thường có rất nhiều loại Mạn Đà La khác nhau, như: Đại Mạn Đà La, Tam Muội Gia Mạn Đà La, Pháp Đại Mạn Đà La,Yết Ma Mạn Đà La. Những Mạn Đà La có thể vẽ bằng những hạt cát có nhuộm màu; có loại được vẽ bằng sơn màu. Những giới tử trong buổi lễ thường được vị Kim Cang Sư chủ lễ trao cho sợi chỉ Kim Cang màu đỏ hay màu vàng. Có người được đón nhận lấy cây xỉ mộc hay đóa hoa khô.. Sợi chỉ màu tượng trưng cho 5 vị Thiền Na Phật. Cây xỉ mộc và đoá hoa khô được gieo vào nơi hành lễ của giới tử. Khi cây xỉ mộc hay đoá hoa khô rơi vào 1 trong 5 phương hướng nào, tương ứng với 5 vị Thiền Na Phật kể trên, thì giới tử đó sẽ nhận vị Thiền na Phật đó làm Bổn Tôn. Sau nầy sẽ thờ cúng và trì tụng vị Thiền Na Phật đó.
Buổi lễ Quán Đảnh được kết thúc bằng lễ Hộ Ma. Hộ Ma có nghĩa là giải trừ các chướng ngại, khai mở Trí Tuệ Thậm Thâm.
Đạo sư Kim Cang hay Kim Cang Sư
Trong Kim Cang Thừa, vị Đạo sư Kim Cang có chức năng quan trọng nhất trong việc truyền thừa. Cũng như Pháp môn Thiền định, bao giờ cũng cần đến vị chân sư chỉ dẫn để khỏi sai lầm ngay từ đầu, trong Mật Tông cũng vậy.Vị Đạo sư Kim Cang lúc nào cũng tích cực, bình tĩnh và quán triệt mọi việc trong việc giáo huấn đồ đệ mình. Hình ảnh sâu sắc nhất của vị Đạo sư là tay phải cầm "cây cờ lịnh". Biểu tượng của cây cờ lịnh nầy cũng giống như chày Kim Cang hay "lưỡi tầm sét". Công năng của "lưỡi tầm sét" là phóng ra những tia tầm séttừ trong tay của mình với đối tượng trước mắt.
Quan hệ giữa Đạo sư Kim Cang với giới tử rất quan trọng; nếu tương quan nầykhông thích hợp hay thiếu chặt chẻ, có tác dụng thì vị Đạo sư sẽ điều chỉnh lại sao cho thích hợp. Vị Đạo sư trong Mật Tông là người trung gian giữa giới tử với cảnh giới bên kia. Trong trường hợp nầy, có thể ví Đạo sư như thầy phù thủy. Thầy phù thủy có liên hệ với cảnh giới bên kia và có khả năng tiếp cận với cảnh giới ấy với khả năng của mình. Tuy nhiên tiếp cận
có nghĩa là tìm hiểu, chứ không thể nào biến đổi. Nhiều người đã hiểu
sai điều đó rồi khuếch đại lên về tài "hô phong hoán vũ". Đó là điều sai
lầm.
Nhưng vị Đạo sư của Mật Tông chỉ là người vận dụng những thần lực (Pháp Nhãn) để tiếp cận, chứ không phải là vị phù thủy được xem là có những tài năng đặc dị thay đổi cảnh giới.
Thông thường, vị Đạo sư thường tiếp xúc với giới tử bằng cách đưabàn tay chạm vào vai, vào tay, đồng thời theo dõi từng nhịp tim của giới tử, để truyền đạt những năng lực của mình; cũng có khi hai người đụng nhẹ đầu vào nhau, cũng trong ý nghĩa trên. Tuy nhiên việc tạo năng lực của giới tử là khả năng vốn có của mình, chứ không lệ thuộc hoàn toàn vào kẻ khác. Hiểu sai, là nhận định lệch lạc ngay từ bước đầu.
Sự tiếp cận và cảm nhận nói trên thường được gọi là "Abhisheka",đôi khi được gọi là "Lễ Điểm Đạo". Dịch theo ý nầy không đượcchính xác cho lắm. Theo nghĩa của tiếng Sanskrit, thì "Abhisheka"có nghĩa là "sự gột rửa". Nó thường được biểu tượng bằng lối gột rửa trong nước Thánh, thứ nước đã được những vị Đạo sư Kim Cang đã làm cho tinh khiết. "Ashisheka" không phải là một buổi Điểm Đạo, hay một lễ Tiếp Nhận. Nó hoàn toàn khác hẳn lễ đó.
Đạo sư Kim Cang "chiếm giữ" phần hồn các giới tử và các giới tử đã đón nhận uy quyền; uy quyền nầy mạnh hay yếu thuộc về khả năng của bản thân giới tử đó và vị Đạo sư.Vị Đạo sư nắm giữ chúng ta, để đua chúng ta vào một cảnh giới khác. Vai trò của vị Đạo sư Kim Cang chẳng khác nào một cột thu lôi để truyền năng lượng của vũ trụ sang chúng ta. Việc thu nhận nầy có hai hệ quả khác nhau: có thể tạo nên một cơn "sốc"; cũng có thể sử dụng làm điện lượng tốt. Người thọ giới cũng thường gặp hai hiện tượng nầy.
Khả năng tu học theo Mật Tông là làm sao thu nhập được điện lực tốt, tránh cơn "sốc" trong tư tưởng của mình. Trong Giáo lý của Kim Cang Thừa, thuờng nói đến tương quan trực tiếp của Đạo sư với đồ đệ không thể thiếu được. Con đường đi vào Mật Tông không dễ dàng, nếu chỉ hiểu qua loa một số giáo lý nhà Phật hay một số kinh điển nào đó.
Người đệ tử không thể nào thực hành một phép tu Mật Giáo một cách thực thụ mà không có sự quan hệ với vị Đạo sư. Một vị Đạo
sư như thế không phải là nhân vật tưởng tượng, nhân vật trong quá khứ
hiểu qua sách sử, mà phải là vị Đạo sư đang hiện hữu và đã từng trải qua
quá trình hành trìvề Tantra. Lạt Ma Choegyam Trungpa trong những tác phẩm nổi tiếng của mìnhvề "Thực hành Kim Cang Thừa" thường hay cảnh cáo: "Nếu không
thể hiểu biết rõ ràng cách nhập môn Kim Cang Thừa với vị Đạo sư hướng
dẫn, thì thà rằng đừng bước vào. Đi vào với những sai lầm, sẽ gây nhiều
phiền phức và nguy hiểm..." Đạt đến vị thế của một Đạo sư trong Mật Tông là bài học của kiên trì, cương quyết, tin tưởng và dũng mãnh.
Những vị Đạo sư của Mật Tông Tây Tạng trên con đường tìm hiểu đạo pháp thường trải qua muôn ngàn khó khăn. Việc tu chứng của Mật Tông đòi hỏi nhiều công phu, và nếu không có vị Chân sư dìu dắt sẽ rơi vào nhiều nguy hiểm. Trong Kim Cang Thừa, vị chân sư là tối quan trọng và không thể thiếu được. Trên nghiệm lý, người thầy hay vị Đạo sư Kim Cang chính là bản thân của sự truyền thừa năng lượng. Không có những vị nầy, giới tử không thể nào tiếp cận với thế giới hiện hữu một cách quán triệt thấu đáo được.Theo Ngài Bạch Liên (Padma Karpo) thì "Thực hành Mật Tông (Tantra) chẳng khác nào là "cỡi trên con dao". Người hành giả sẽ chọn một trong 2 con đường: Hoặc tuột theo con dao, hoặc ngồichết dính trên đó, tức là không tiến hành được chút nào. Tuy nhiên, nếu như giới tử biết được phương thức nào để có thể tuột trên con dao đó, thực hành dễ dàng thì sẽ thành công. Nhưng nếu khôngchịu tìm hiểu tường tận, lại muốn tỏ ta đây là kẻ tài giỏi, thìngười đó sẽ bị lưỡi dao cắt làm 2 mảnh". Việc học và thực chứng Mật Tôn cũng giống như người nằm trên con dao đó.
Nhiều vị chân sư Mật Tông khuyên rằng: Càng có những lời cảnh cáo nầy trên đường tu hành thì càng tốt. Vì như thế sẽ thận trọng từng bước để kiên trì và nghiêm tu. Nhưng nếu vị chân sư đã không cảnh cáo giới tử đúng lúc và đúng cách, giới tử không thể vào được con đường của Mật Tông, vì chính họ đã không thấy nguy hiểm "khi trượt tên lưỡi dao". Khủng hoảng là nguồn gốc của sự cởi mở và của những nghi vấn trên con đường tu tập. Hồi hộp, nghi vấn là nguồn gốc của sự phơi bày tâm và phơi bày cảnh giới. Tâm và cảnh giới phải hoà hợp làm một.
Trong lịch sử truyền thừa Mật Tông có nhiều huyền thoại về vấn đề tìm học. Những vị tổ Mật Tông như Marpa, Milarepa, Tilopa,Naropa là gương sáng.
Trong cuốn Mystiques et Magiciens du Tibet, bà Alexandra David Neel có kể lại việc cầu đạo của vị tổ Tipola như sau: Tipola là một trong những vị khai sáng Mật Tông Tây Tạng, tuy nhiên ông ở tại Ấn Độ và chưa hề đặt chân lên đất Tây Tạng bao giờ. Ông từng trải qua nhiều Giáo phái Mật Tông như Giáo phái Kaguy Pa (phái áo vải) phái Sakya Pa (phái đất xám) phái Geluk Pa (mũ vàng)... Ông từng tham dự nhiều cuộc hội thoại và tranh luận về tôn giáo tại Ấn Độ và lần nào cũng bẻ gãy tất cả những lập luận của đối phương. Một buổi chiều nọ, ông đang nghiền ngẫm một cuốn luận thuyết quan trọng thì có một bà lão rách rưới ngang qua. Trông thấy ông đăm chiêu suy nghĩ, bà lão nhổ toẹt vào cuốn sách rồi phì cười: "Chỉ là thứ từ chương vô dụng. Có gì đáng quan trọng".
Tipola nổi giận nhưng ngay sau đó dường như bị một thứ quyền lực siêu hình nào, khiến ông ta nguôi giận ngay, nhìn bà lão rồi cố theo bà ta. Lần đầu tiên, ông cảm thấy bất ổn trong việc tu học do chính câunói của bà lão. Thế là ông quyết chí đuổi theo tìm cho được bà lão đó. Cũng trải qua hơn ba năm dong ruỗi, ông đã tìm được bóng dáng của bà lão trong một khu rừng. Ông tìm đến trò chuyện, nhân đó đem hết sở học ra thao thao bất tuyệt. Nhưng bất cứ lý giải nào cũng bị bà lão bẻ gãy ngay từ đầu. Một vị học giả nổi tiếng như ông mà lại lúng túng như một đứa trẻ. Đến đây thì ông mới vỡ lẽ: những thứ kiến thức đó chỉ nhìn phiá bên ngoài, không thể giải thích được những huyền bí. Cuối cùng ông chịu phục và xin bái bà lão làm thầy.
Bà lão nói: "Những điều mà ta hiễu biết không chứa đựng trong sách vở. Sách vở chỉ chứa những điều hữu hạn cuả thế gian, đều là từ chương, chỉ hiểu được hiện tượng mà không đi đến bản chất của sự vật. Ta thấy người thu thập được khá nhiều kiến thức có ích thật, tuy nhiên, muốn quán triệt được Giáo lý thượng thừa, phải đi vào cảnh giới cao hơn. Cảnh giới đó được gọi tên là "Đạo giới của các Thiên thần Daikini".
Cũng có gọi danh xưng nào tương tự như thế. Cuộc hành trình nầy đầy gian khổ. Hàng trăm hàng ngàn thử thách giăng mắc. Phải vượt qua những thách đố nầy và khắc phục chúng. Nhưng nếu nhà ngươi đã nhất quyết theo con đường ta học, thì có thể truyền thụ cho nhà người bí quyết nầy: Hoàn toàn làm chủ Thân, Khẩu, Ý qua niệm chú, bắt ấn quyết, chuyên tâm nhập định. Phảinhớ điều nầy trong suốt cuộc hành trình dài. Ghi nhớ rằng 3 điều nầy: - Nhờ giữ ấn quyết, thân nghiệp được thanh tịnh. - Nhờ niệm Chân Ngôn (Thần chú), khẩu nghiệp được tịnh. - Nhờ quán tưởng vào Tam Ma địa, ý nghiệp được tịnh". Theo truyền thuyết Phật Giáo Tây Tạng, bà lão kia chính là hoá thân của Bồ Tát Dorji Chang. Bà biến mất sau khi đó.
Từ đó, vâng theo những lời chỉ dạy, Naropa lên đường tìm đến cảnh giới các thiên thần Daikini. Cảnh giới nầy có thật hay chỉ là ảo tượng? Có người cho rằng:Cảnh giới đó có thật. Nơi toạ lạc của nó ở vùng đất vô cùng hẻo lánh tại Bắc Ấn, gần biên giới giáp Afghanistan. Những theo đa số đây là cảnh giới giả tượng. Marpa thực hành theo 3 điều căn bản đó suốt hành trình trên đường tu tập. Tipola gặp vô vàng thử thách trên chặng đường nầy. Ông ta phải vượt suối, băng ngàn, vượt qua những sa mạc hoang vu, nóng bỏng, qua nhiều núi rừng thâm u, lạnh lẽo nhưng với thân xác Kim Cương Bất Hoại, ông đã tìm đến được. Đây là cung điện oai nghiêm, tráng lệ, khác cõi trần. Nhưng điều chính quyết là sau những thử thách, nhất là với cách tu luyện nầy, Marpa đắc quả.Trong tu trì, điều căn bản để chuyển hoá tâm tính và tinh thần chính là giới luật.
Đức Phật dạy:- "Có 10 điều trọng giới và 48 điều khinh giới. Nếu người thọ giới Bồ Tát mà không tụng những giới răn cấm nầy, thì người ấy khôn gphải là Bồ Tát, không phải là Phật Tử. Chính ta cũng tụng như vậy. Tất cả Bồ Tát đã học, sẽ học và đang học. Đã lược giảng xong tướng tạng của giới Bồ Tát, thì cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì giới luật".
Những giới luật của những người tu tập và hành trì theo Đại Thừa và Kim Cang Thừa bao gồm có 10 giới trọng (nặng) và 48 giới khinh (nhẹ).10 giới trọng là: 1- Không được dâm dục 2- Không được sát sanh 3- Không được trộm cướp 4- Không được vọng ngữ 5- Không được nói lời tứ chúng6- Không được bán rượu 7- Không được khen mình, chê người 8- Không được bỏn xẻn 9- Không được giận hờn mãi không nguôi 10- Không được tà kiến phỉ báng tam bảo 48 giới khinh là: 1- Giới không kính thầy bạn 2- Giới không uống rượu 3- Giới ăn thịt 4- Giới ăn ngũ tân 5- Giới không dạy người sám hối 6- Giới không kính dường thỉnh pháp 7- Giới không đi nghe pháp 8- Giới cố tâm trái bỏ đại thừa 9- Giới không khán bệnh 10- Giới chứa khí cụ sát sanh 11- Giới đi sứ 12- Giới buôn bán phi pháp 13-
Giới hủy báng 14- Giới phóng hỏa 15- Giới dạy giáo lý ngoài Đại thừa
16- Giới vì lợi mà giảng pháp lộn lạo17- Giới cậy thế lực quyền thế 18-
Giới không thông hiểu mà làm thầy truyền giới 19- Giới lưỡng thiệt 20-
Giới không phóng sanh 21- Giới đem sân báo sân, đem đánh trả đánh 22-
Giối kiêu mạng không thỉnh pháp 23- Giới khinh đạo không tận tâm dạy 24-
Giới không tập học Đại thừa 25- Giới tri chúng vụng về 26- Giới riêng
thọ lợi dưỡng 27- Giới thọ biệt thỉnh 28- Giới biệt thỉnh tăng 29- Giới
tà mạng nuôi sống 30- Giới quản lý cho bạch y 31- Giới không mua chuộc 32- Giới gây tổn hại chúng sanh 33- Giới tà nghiệp giác quán34- Giới tạm bỏ Bồ đề Tâm 35- Giới không phát nguyện 36- Giới không phát thệ 37- Giới vào chỗ hiểm nạn 38- Giới trái tôn ty trật tự 39-
Giới không tu phước huệ 40- Giới không bình đẳng truyền giới 41- Giới
vì lợi mà làm thầy 42- Giới vì người ác giảng nói 43- Giới cố móng tâm
phạm giới 44- Giới không cúng dường Kinh Luật 45- Giới không giáo hoá
chúng sanh 46- Giới pháp không đúng pháp 47- Giới chế hạn phi pháp 48-
Giới phá diệt Phật pháp.
Sách tham khảo:
The Four Essential Doctrine of Buddhism – Colombo – 1948
Buddhism: Its Essence and Development – Bruon Cassier – Oxford – 1951
Tibet Yoga and Secret Doctrines – W.V. Evans Wentz – London – 1935
Two Vajrayana Works – B. Bhattacharya – Baroda – 1929
Theo: PTVN