Niệm Phật & niệm Bụt
25/12/2010 11:25 (GMT+7)


Tại sao tôi niệm Phật? Vì tôi muốn nhớ và nói đến những lời dạy cao quý và tốt đẹp của Đức Phật trong đời sống hàng ngày; vì tôi muốn tập làm theo hạnh nguyện cao đẹp của Đức Phật, để cho những hành động của tôi không đẩy tôi đi vào con đường xấu ác và khổ đau; và vì tôi muốn nghĩ đến những gì cao thượng và tốt đẹp mà Đức Phật đã nghĩ, để cho những ý nghĩ không lành mạnh, không dễ thương của tôi được chuyển hóa, được thắp sáng bởi những ý nghĩ cao quý và tốt đẹp của Đức Phật. Vì vậy mà tôi niệm Phật mỗi ngày.

Niệm Phật và niệm Bụt khác nhau thế nào?

Ý nghĩa không khác nhau, chỉ khác nhau về cách phát âm. Phật và Bụt đều là cách phát âm của người Việt từ chữ Buddha. Cách phát âm chữ Phật có trong ngôn ngữ Việt Nam, ít nhất là trải dài 2.000 năm và cách phát âm chữ Bụt có trong ngôn ngữ Việt Nam, nhưng người Việt ít sử dụng. Khái niệm Bụt trong thực tế đã bị "dân gian hóa" trở thành một kiểu thần tiên cứu nạn (thấy rõ trong các truyện dân gian) chứ không còn là hình ảnh vị Phật từ bi giác ngộ. Chữ Phật đọc trực tiếp từ chữ ・ナ hay ・ナ ・ノ của Trung Hoa. Người Trung Hoa, chính xác là vào đời Hán, dùng những chữ này để phiên âm chữ Buddha và đọc theo âm riêng của họ, nhưng người Việt chúng ta lại tự mô phỏng theo đó để hình thành hệ thống ngữ âm riêng của mình gọi là âm Hán-Việt, đến nay vẫn tồn tại, trong khi ngữ âm gốc của Trung Hoa thì đến các đời Đường, Tống... đã thay đổi rất nhiều. Ngữ âm Phật (của người Việt) đã trở thành định âm của truyền thống người Việt và đã được phổ cập trong mọi thành phần xã hội Việt Nam từ tín ngưỡng, đạo đức tâm linh đến văn hóa giáo dục và ngay cả các văn bản pháp quy thuộc các tổ chức hành chánh xuyên suốt mọi thời đại. Người Trung Hoa ngày xưa phát âm Buddha là Bột-đà hay Bột-tha và ngày nay tiếng Trung Hoa (phổ thông) phát âm Buddha là Fó. Vì vậy, Phật hay Bụt đều là cách phát âm của người Việt có tính cách độc lập với ngữ âm Trung Hoa.

Ta niệm Phật hay niệm Bụt với tâm không chuyên nhất, với tâm cầu kỳ lập dị, tranh chấp mới cũ, đúng sai, bản ngã phình to, thì cho dù ta niệm Phật hay niệm Bụt cũng chẳng có hiệu quả gì.

Trái lại, có những người chẳng niệm Phật, niệm Bụt gì cả nhưng họ sống với tâm khiêm tốn, nhiệt tình đối với hết thảy công việc bằng tâm vô cầu, nói cười đứng đi trong giác niệm và tĩnh lặng nên thành tựu vô lượng công đức, được sanh vào cõi Phật ngay trong hiện tiền.

Vì vậy, nếu ta niệm Phật hay Bụt với tâm khiêm tốn, không lập dị, cầu kỳ, không liên hệ mới cũ, không thiên chấp đúng sai, bỉ thử, thì phước đức cho ta và lợi ích cho muôn loài biết mấy!

Tây phương Tịnh độ và Phật A Di Đà

Có những quan niệm cho rằng Tây phương Tịnh độ của Phật A Di Đà (Amitābha) là không có thật, như vậy có đúng không? Không đúng! Tây phương Tịnh độ không có là đối với người không có đức tin Tịnh độ, chứ không phải là không có đối với những người có đức tin ấy.

Không có sao được! Đối với không gian, đã có Đông thì phải có Tây, đã có Nam thì phải có Bắc, đã có phương Trên thì phải có phương Dưới. Trong không gian đã có các phương hướng như thế, thì sao lại bảo rằng không có phương Tây? Nên nhớ, các phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới đối với người mù, thì họ hoàn toàn không thấy gì hết. Tuy người mù không thấy, chứ không phải các phương hướng ấy không có.

Phật A Di Đà cũng vậy, đối với người không có Tín-Hạnh-Nguyện, ít thiện căn phước đức thì Ngài không có đối với họ, chứ không phải Ngài không có đối với những ai có thiện căn phước đức và nhân duyên đối với Ngài.

Trong các kinh điển thuộc văn hệ Āgama và Nikāya có nói chi tiết về sự tu tập, chứng đạo và hành hóa của 6 Đức Phật quá khứ như: Phật Tỳ-bà-thi (Vipaśyin), Phật Thi-khí (Śikhin), Phật Tỳ-xá-phù (Viśvabhū), Phật Câu-lưu-tôn (Krakucchanda), Phật Câu-na-hàm-mâu-ni (Kanakamuni), Phật Ca-diếp (Kaśyapa), cũng như Phật Thích-ca Mâu-ni (Śākya-muni) đời hiện tại và Phật Di-lặc trong đời vị lai. Như vậy, đã có một Đức Phật, hai Đức Phật, ba Đức Phật... thì cũng có thể có vô số Đức Phật. Và đã có nhiều Đức Phật như vậy, tại sao lại không có Phật A Di Đà!

Nên nhớ, Phật A Di Đà không phải là Phật quá khứ mà là Đức Phật hiện tại đang giáo hóa ở cõi Tịnh độ phương Tây, cũng như Đức Phật Thích-ca hiện tại đang giáo hóa cõi Ta-bà (Sahā) này. Và Bồ tát Di-lặc cũng sẽ giáo hóa cõi Ta-bà này ở thời vị lai. Cũng vậy, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí sẽ là những vị giáo hóa cõi Tịnh độ phương Tây thay cho Phật A Di Đà trong tương lai. Và cũng nên biết rằng, không phải chỉ có một thế giới Tịnh độ của Phật A Di Đà ở phương Tây mà còn có vô số thế giới Tịnh độ của chư Phật khác nữa.

Kinh A Di Đà bản Hán dịch của ngài La Thập và ngay cả nguyên bản tiếng Phạn cũng nói cho ta biết được điều này. Kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bi Hoa... cũng đều có nói về thế giới Tịnh độ của Phật A Di Đà.

Phật và Tổ

Có người cho rằng kinh A Di Đà không do Đức Phật Thích-ca nói, mà do chư Tổ về sau kết tập. Có phải vậy không? Việc chư Tổ kết tập là đúng, còn bảo không do Đức Phật Thích-ca nói là sai, vì không có căn cứ. Nhưng không chỉ riêng một kinh A Di Đà do chư Tổ về sau kết tập, mà tất cả kinh điển hiện nay ta được biết đều do chư Tổ về sau kết tập cả, bao gồm cả các kinh điển được gọi là "Nguyên thủy" như Āgama và Nikāya. Những hiểu biết về mặt lịch sử hiện nay cho ta biết như thế.

Phật chỉ nói kinh, còn việc kết tập kinh điển là của chư Tổ. Và với trí tuệ Toàn giác, với trí tuệ Chánh biến tri, với trí tuệ Minh hành túc, với trí tuệ Thế gian giải, nên không có điều gì cần thiết cho sự tu tập đạo giải thoát mà Đức Phật Thích-ca không giảng dạy cho đệ tử của Ngài một cách tường tận khi còn tại thế. Ngài đã từng giảng dạy về những hạnh nguyện mà Ngài và chư Phật đã từng tu tập trong quá khứ, từ một đời cho đến nhiều đời, từ một kiếp cho đến nhiều kiếp, từ một thế giới cho đến vô số thế giới và những tri kiến cũng như những sở hành không thể nghĩ bàn của chư Phật, và các kinh điển ấy đã được chư Tổ kết tập qua nhiều thời kỳ khác nhau, trong đó có cả các kinh điển mà Đức Phật Thích-ca giảng dạy về Tịnh độ của chư Phật, khiến cho ta ngày nay có được các văn hệ kinh điển như Āgama, Nikāya, Bản sanh, Bản sự, Nhân duyên, Vị tằng hữu, Vô vấn tự thuyết... Đọc lịch sử các tôn giáo lớn trên thế giới ta cũng thấy như vậy, các vị Giáo chủ của các tôn giáo chỉ thuyết giảng, còn những vị kế thừa về sau mới viết lại, khai triển và hệ thống hóa giáo lý của những vị Giáo chủ. Ngay cả các sách Nho giáo như Dịch, Lễ, Thi, Thư đều không phải do Khổng Tử viết và nói ra, mà chỉ san định và hệ thống lại. Và ngay cả Cựu ước của Do Thái giáo, Tân ước của Thiên Chúa giáo La Mã, Koran của Hồi giáo, cũng đều do những người kế thừa san định.

Cũng vậy, trong Phật giáo, Đức Phật Thích-ca chỉ giảng dạy kinh điển, còn việc kết tập, san định kinh điển là việc làm của chư Tổ về sau vậy.

Phật và Tổ khác nhau thế nào?

Quốc sư Thông Biện đã trả lời ý nghĩa về Phật và Tổ cho Thái hậu Ỷ Lan đời Lý như sau: Thường trú thế gian, không sinh không diệt gọi là Phật. Hiểu rõ tâm tông của Phật, làm và hiểu hợp nhau thì gọi là Tổ. Phật Tổ là vậy. Ấy bọn lạm xưng học giả tự dối, nói có hơn thua vậy. Vả lại, Phật nghĩa là giác ngộ. Và sự giác ngộ ấy xưa nay vắng lặng thường trú. Hết thảy hàm linh đều cùng một nguyên lý ấy. Chỉ bởi bụi lòng che khuất, theo nghiệp nổi trôi mà chuyển nên các cõi. Đức Phật vì lòng từ bi, nên thị hiện sinh ở Tây Trúc, bởi nó là nơi được gọi là trung tâm của trời đất. Ngài 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo. Ở đời thuyết pháp 49 năm, mở bày các phương tiện, dạy cho người, khiến họ ngộ nhập được đạo. Ấy gọi là sự hưng khởi của một thời đại kinh giáo.

Khi sắp Niết bàn, sợ người sau mê chấp sinh tệ, nên Phật bảo Văn Thù rằng: Suốt 49 năm, Ta chưa từng nói một chữ, sao lại bảo có điều để nói? Rồi, Ngài cầm một cành hoa đưa lên, mọi người đều ngơ ngác. Chỉ riêng Tôn giả Ca-diếp mặt mày rạng rỡ, miệng nở nụ cười mỉm. Đức Phật biết Ca-diếp đã tỏ ngộ, liền đem Chánh pháp nhãn tạng trao cho. Ấy là vị Tổ thứ nhất. Đó gọi là "tâm tông truyền riêng ngoài giáo điển" (Thiền uyển tập anh).

Như vậy, qua sự trả lời về ý nghĩa Phật và Tổ của Quốc sư Thông Biện cho Thái hậu Ỷ Lan được ghi lại trong Thiền uyển tập anh đời Trần đã cho ta thấy, Phật và Tổ đồng thể với nhau về mặt giác ngộ, nhưng khác nhau về mặt trao truyền. Nghĩa là Phật tự thân Ngài giác ngộ, Tổ cũng giác ngộ như Phật, nhưng sự giác ngộ của Tổ lại được Phật ấn chứng và trao truyền. Vì vậy, ý nghĩa này giúp cho ta nhận ra rằng: "Những gì chư Tổ nói là nói từ tâm tông, yếu chỉ của Phật".

Lại nữa, chư Tổ là Tăng. Phật Pháp Tăng ở trong ngôi Tam bảo, danh xưng thứ tự có trước sau, nhưng đồng một bản thể giác ngộ. Do đó, từ nơi bản thể giác ngộ mà Phật vận khởi tâm từ bi để nói kinh và cũng từ nơi bản thể giác ngộ ấy, mà chư Tổ vận khởi tâm từ bi để kết tập kinh điển. Ấy là ý nghĩa Phật và Tổ, mà những người đệ tử Phật cần phải hiểu, đừng để rơi vào tình trạng như Ngài Thông Biện nói: "Ấy bọn lạm xưng học giả tự dối, nói là có hơn thua".

Dựng xây Tịnh độ

Niệm Phật, khiến cho đời sống của ta tương ưng với đời sống Tịnh độ và có khả năng thiết lập quê hương Tịnh độ cho ta và cho hết thảy chúng sanh với bất cứ ở đâu và lúc nào.

Nên, niệm Phật là điều kiện quý báu nhất, giúp ta tiếp xúc trực tiếp được với chư Phật mười phương và ba đời, và là điều kiện gọi mời hay đánh thức Đức Phật trong tâm ta đản sanh hay thị hiện giữa cuộc đời, để giúp chúng sanh thoát khỏi khổ đau và cùng nhau dựng xây Tịnh độ.

Ta niệm Phật như vậy, mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày đưa ta đi về với sự giác ngộ, với quê hương đích thực rộng lớn, tự do và bình an.

Vậy, muốn chuyển hóa những khổ đau trong đời sống và muốn có tự do, muốn có một quê hương đích thực rộng lớn và bình an cho tất cả chúng ta, thì hãy cùng nhau niệm Phật!

THÍCH THÁI HÒA

Các tin đã đăng: