Trong thời gian gần đây có một số ý kiến cho rằng phương pháp
thực hành chánh niệm, hiện pháp lạc trú mà các nhà Phật học trình bày 
trong nhiều sách báo, tạp chí Phật giáo là không đúng tinh thần Phật 
dạy, vì những điều này gần giống với chủ trương của triết thuyết hiện 
sinh (Existen-tialism) phương Tây hơn là tư tưởng Phật giáo. Thực tế, 
hiện pháp lạc trú của đức Phật khác và vượt lên trên chủ nghĩa hiện sinh
phương Tây. Sau đây là vài phân tích và so sánh.
Cần nên xác định rõ phương pháp 
chánh niệm, hiện pháp lạc trú mà bài kinh Người biết sống một mình hay 
Nhất dạ hiền giả, A Nan nhất dạ hiền thuộc Trung Bộ kinh III, A Nan Đà 
thuyết kinh thuộc Trung A Hàm số 167 đề cập là phương pháp dứt trừ vọng 
tưởng, làm chủ tâm ý, không để tư tưởng đi hoang, không mơ ước, tưởng 
tượng viễn vông, không ưu tư, lo lắng vu vơ, thái quá, không nuối tiếc, 
sầu muộn, bận lòng bởi những gì đã qua. Tóm lại là không để cho tâm ý bị
những gì đã qua và những gì chưa tới ràng buộc, chi phối. Dĩ nhiên là 
vẫn có thể nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai khi cần thiết, cũng như 
đức Phật nhớ lại các tiền kiếp tu nhân của mình và thuật lại để giáo 
huấn các đệ tử, đức Phật cũng quán xét nhân duyên trước khi hóa độ cho 
người nào, hoặc đức Phật cũng dự báo những gì sẽ xảy ra trong thời kỳ 
tượng pháp, mạt pháp v.v...
“Đừng tưởng nhớ quá khứ, đừng lo lắng 
tương lai. Quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới. Hãy quán chiếu 
sự sống trong giờ phút hiện tại, bậc thức giả an trú, vững chãi và thảnh
thơi…” Ý nghĩa bài kệ này cũng tương tự như bài kệ trong phẩm Cây lau 
thuộc Tương Ưng Bộ kinh I: “Không than việc đã qua, không mong việc sắp 
tới, sống ngay với hiện tại, do vậy sắc thù diệu. Do mong việc sắp tới, 
do than việc đã qua, nên kẻ ngu héo mòn, như lau xanh lìa cành”. Ở đây, 
đức Phật khuyên hành giả nên an trú tâm trong hiện tại, đừng để tâm rong
ruổi đi hoang trong hai miền quá khứ và tương lai, tức là đừng vọng 
tưởng, cần phải chánh niệm tỉnh giác (vì có vọng tưởng thì tâm không an 
định sáng suốt, phiền não sẽ phát sinh, tâm si mê điên đảo).
Đây
cũng chính là bước đầu căn bản của thiền: Tâm hành giả như con trâu 
chưa chịu đứng yên, nó cứ đi rong, phá hại lúa mạ. Người chăn phải nắm 
dây dàm giữ nó ở yên một chỗ (xem thêm Thập mục ngưu đồ). Như thế gọi là
“chế tâm nhất xứ” (Lời kinh Di Giáo, chương Dục phóng dật khổ), gọi là 
định. Trong kinh Niệm Xứ, bài kinh số 10 thuộc Trung Bộ kinh, đức Phật 
dạy về pháp thiền Tứ niệm xứ như sau: “Tỳ kheo sống quán thân trên thân,
quán thọ trên các thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên các pháp, 
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời”. Trong kinh 
Thân hành niệm, đức Phật cũng dạy các thầy Tỳ kheo niệm hơi thở vô, hơi 
thở ra trên thân, quán các oai nghi của thân (đi, đứng, nằm, ngồi đều có
chánh niệm tỉnh giác), quán các cử chỉ của thân (nhất cử nhất động đều ý
thức rõ ràng, trọn vẹn).
Tinh thần thực tiễn, thực tại của các 
pháp tu trên giúp chúng ta ý thức trọn vẹn về sự sống, những gì đang 
diễn ra trong hiện tại, giúp tâm chúng ta an ổn không xao động (buồn, 
thương, oán, giận…), không rơi vào những trạng thái tâm lý tiêu cực như 
lo lắng, sầu não, nuối tiếc, hoài nghi, bất mãn, tham luyến v.v.. Nhờ đó
mà cuộc sống có an lạc hạnh phúc. Phương pháp đó giúp cho chúng ta có 
khuynh hướng sống tích cực, tìm được những cảm xúc có lợi cho bản thân 
trong quá trình sống và tu tập.
Chính các bậc giác ngộ cũng trải qua các
cấp độ hỷ lạc (trạng thái hỷ lạc tinh tế, thánh thiện chứ không phải hỷ
lạc do các dục mang lại) trong thiền định trước khi đi vào trạng thái 
thanh tịnh, giải thoát rốt ráo. Tứ thiền là bốn cấp độ thiền định ban 
đầu làm cơ sở để đi đến các cấp độ thiền định cao hơn có:
1. Ly sinh hỷ lạc (trạng thái hỷ lạc có được do ly dục)
2. Định sinh hỷ lạc (trạng thái hỷ lạc có được do tâm an định)
3. Ly hỷ diệu lạc (trạng thái an lạc vi diệu do xả bỏ trạng thái hỷ ở cấp độ 1 và 2)
4. Xả niệm thanh tịnh (sự thanh tịnh có được do xả bỏ tất cả niệm).
Đức Phật khi chưa thành đạo cũng từng 
nhớ lại sự trải nghiệm thuở ấu thơ khi Ngài cùng vua cha tham dự lễ tịch
điền. Lúc đó Ngài ngồi dưới gốc cây Jambu xem phụ vương thân hành cày 
ruộng, lòng Ngài thanh thản trong trạng thái thư giãn, cảm giác khoan 
khoái lạ thường, Ngài bỗng nhập vào trạng thái ly dục, ly bất thiện 
pháp, một trạng thái thiền định đầu tiên của Tứ thiền (tức sơ thiền: ly 
sinh hỷ lạc). Thế là Ngài bắt đầu cho hành trình tu tập mới sau khi từ 
bỏ các pháp tu khổ hạnh ép xác. Ngài thực tập lại phương pháp ấy, tìm 
lại sự trải nghiệm của ngày xưa, và rồi từ cơ sở đó Ngài đã đi sâu vào 
các cấp độ thiền định cao hơn, sau cùng là thành tựu tuệ giác giác ngộ 
(chứng đắc Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh, giác ngộ, 
giải thoát hoàn toàn).
“Quán chiếu sự sống trong giờ phút hiện 
tại” không có nghĩa là suy nghĩ về những gì đang có mặt, đang diễn ra 
trong hiện tại với tâm phân biệt chủ thể và đối tượng quán chiếu, với 
tâm tham ái, chấp thủ, mà “quán chiếu” ở đây là nhận diện, thấy rõ thực 
tại một cách trung thực, tiếp xúc với sự sống mà không bị sự sống lôi 
cuốn, ràng buộc, chi phối. Điều này đúng với tinh thần nhà thiền: “Phi 
tư duy thị thiền chi yếu giả (không suy nghĩ là điểm thiết yếu của 
thiền).
“An trú trong hiện tại” không có nghĩa 
là bị các pháp hiện tại lôi cuốn, dẫn dắt, trói buộc. “An trú trong hiện
tại” là giữ tâm an định, không dao động, vọng tưởng, tâm tự do không 
dính mắc, hệ lụy các pháp quá khứ, vị lai và cả hiện tại. Nhận diện 
những gì đang có mặt, đang diễn ra xung quanh và trong chính bản thân 
mình nhưng chỉ đơn thuần là nhận diện chứ không dính mắc. Ý thức, nhận 
diện rõ các cảm thọ (khổ, lạc, xả) nhưng không chấp trước, không yêu 
thích cũng không chán ghét, không khởi tham ái, chấp thủ, không khởi các
phiền nao tham, sân, si.
Người
tu học Phật luôn ý thức được rằng “chư hành vô thường, chư pháp vô 
ngã”, hay nói cụ thể như kinh Bát Đại Nhân Giác là: “Thế gian vô thường,
quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sinh diệt biến dị, 
hư ngụy vô chủ” (Thế gian vô thường, cõi nước mong manh, bốn đại là khổ,
không, năm ấm (năm uẩn) là vô ngã, luôn sinh diệt biến đổi, giả dối 
không có chủ tể) thì làm sao có thể tham đắm, chấp trước các pháp trong 
hiện tại. Điều này khác xa với triết thuyết hiện sinh, bởi triết học 
hiện sinh chủ trương chú trọng vào sự trải nghiệm chủ quan của con 
người, những diễn biến nội tâm, những khám phá để từ đó xác định yếu 
tính của thế giới, bản chất của đời sống. Theo họ, con người phải ý thức
đầy đủ về bản ngã của mình trong hoàn cảnh đặc thù mà mình tìm thấy 
chính mình trong đó.
Trong khi đó tuệ giác của Phật giáo thấy
rằng “chư pháp vô ngã” (tất cả sự vật, hiện tượng hữu hình hay vô hình,
vật chất hay tinh thần, từ vật lý cho đến tâm lý đều không có tự thể, 
tự tính, tất cả chỉ là duyên sinh). Trong Tương Ưng Bộ kinh II, đức Phật
dạy chúng ta không nên chấp thủ, không nên nghĩ bất cứ cái gì là tự ngã
của mình, và khi khổ (hoặc lạc) sinh thì xem là sinh, khi khổ (hoặc 
lạc) diệt thì xem là diệt mà không xem có tôi khổ (hoặc lạc) hay tôi hết
khổ (hoặc lạc). Luận Thanh Tịnh Đạo (Visudhi Magga) cũng nhắc lại điều 
này như sau: “Chỉ có trạng thái khổ, không có người khổ. Cũng không có 
người hành động, không ai hết, chỉ có sự hành động…”
Trong kinh Kim Cương Bát Nhã ba la mật 
đa (ngài Cưu Ma La Thập dịch) hay Năng Đoạn Kim Cương Bát nhã ba la mật 
đa (Ngài Huyền Trang dịch), đức Phật dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ 
tâm” (Đừng nên trụ vào đâu cả mà sinh tâm, có nghĩa là đừng để tâm bám 
víu, dính mắc vào đối tượng nào cả). Trong kinh Pháp Cú, câu 348, đức 
Phật dạy: “Bỏ quá khứ, hiện tại, vị lai mà vượt qua bờ kia; tâm giải 
thoát hết thảy, không còn bị sinh già”.
Trong kinh Năm Vị (Anatta Lakkhana 
sutta) thuộc Tương Ưng Bộ kinh III, tức kinh Vô ngã tướng, đức Phật dạy:
“Phàm sắc gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, trong hay ngoài, thô hay tế, 
liệt hay thắng, xa hay gần, cần phải được như thật quán với chánh trí 
như sau: “Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái 
này không phải là tự ngã của tôi. Phàm thọ gì, tưởng gì, hành gì, thức 
gì, quá khứ, hiện tại, vị lai, trong hay ngoài, thô hay tế, thắng hay 
liệt, xa hay gần, cần phải được như thật quán với chánh trí như sau: 
“Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải là tự ngã của tôi”. Thật vậy, đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với
sắc, thọ, tưởng, hành, thức, do nhàm chán, vị ấy ly tham, do ly tham vị
ấy giải thoát”.
Kinh Đại Bát Nhã nói: “Không trụ vào tất
cả pháp, gọi là trụ Bát nhã” (Bất trụ nhất thiết pháp danh trụ Bát 
nhã). Theo những lời dạy đó thì không phải là chúng ta bịt tai bịt mắt, 
đóng tất cả các giác quan, biến mình trở thành người vô tri vô giác như 
cỏ cây sắt đá. Chính đức Phật đã từng nhận định các pháp thiền Vô sở hữu
xứ (ở trong trạng thái không có gì hết, như là hư không) và Phi tưởng 
phi phi tưởng xứ (không có tri giác, cũng không phải không có tri giác) 
của Alàràma Kàlàma và Uddaka Ràmaputta không đưa đến cứu cánh giác ngộ, 
giải thoát, Niết bàn.
Trong Vạn pháp quy tâm lục, Thiền sư Tổ 
Nguyên có nói: “Đạo nhơn (người hành đạo) vô tâm chẳng đồng với cây đá. 
Vô tâm là không tâm phân biệt, không tâm yêu ghét, không tâm thủ xả, 
không tâm thị phi, không tâm thiện ác, không tâm có không, không tâm ở 
giữa hay một bên, không tâm trong ngoài, không tâm chấp trước, chứ chẳng
phải không chơn tâm linh tri tịch chiếu” (Vạn pháp quy tâm lục, chương V
Giáo thừa sai biệt). Vô tâm như lời dạy của Sơ tổ Trúc Lâm Trần Nhân 
Tông trong bài phú Cư trần lạc đạo cũng đồng nghĩa đó, ở đây Tổ nói cụ 
thể trong đời sống hàng ngày: “Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, hễ đói thì 
ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm. Đối cảnh vô tâm, hỏi 
chi thiền?” Tổ dạy rằng tính giác, Phật tính có sẵn nơi mỗi người, đừng 
hướng tâm tìm cầu đâu chi nữa, tự mình trở về với tính giác, với Phật 
tính đó, đừng xem Phật tính là đối tượng tìm cầu. Không truy tầm, tìm 
cầu, không vướng mắc (vô tâm) chính là yếu lĩnh của sự tu tập.
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật nói
với Tôn giả A Nan, tâm không ở trong thân, không ở ngoài thân, không ở 
khoảng giữa… Chỉ khi nào chứng ngộ mới biết tâm ở đâu. Trong kinh Kim 
Cương đức Phật dạy: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, 
vị lai tâm bất khả đắc”. Ở đây đức Phật muốn nói đến thực tướng của các 
pháp (kể cả tâm), nhưng muốn chứng thực điều đó cần phải có sự tu tập. 
Sau đây xin nhắc lại lời đức Phật dạy 
trong các kinh, khẳng định giá trị lợi ích của pháp tu chánh niệm, hiện 
pháp lạc trú, Tứ niệm xứ quán:
- Định niệm hơi thở vô, hơi thở ra là Thánh trú, là Phạm trú, là Như Lai trú” (Trung Bộ kinh I)
- Để đoạn trừ ba lậu hoặc (dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu), Tứ niệm xứ cần được tu tập” (Trung Bộ kinh I)
- Thế Tôn trong mùa mưa đã an trú vào 
định niệm hơi thở vô, hơi thở ra. Các Tỳ kheo hữu học tu tập niệm hơi 
thở vô, hơi thở ra để đoạn tận lậu hoặc, các bậc A la hán làm cho sung 
mãn niệm hơi thở vô, hơi thở ra để được hiện tại lạc trú” (Tương Ưng Bộ 
kinh V).
- Cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trợ 
không bằng không quên chánh niệm. Người không quên chánh niệm, các giặc 
phiền não không làm gì được. Nếu niệm lực vững chắc, tuy vào trong ngũ 
dục cũng không bị chúng làm hại, ví như mặc áo giáp vào trận thì không 
còn phải lo sợ điều gì. (Kinh Di Giáo).
(Tạp chí đạo Phật Ngày Nay 9)