Khi hạ thủ công phu ở nơi một câu hồng danh của Phật
“NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm cho được vừa chừng không quá
mau (không gấp), không quá chậm (không hườn) là niệm cho đều đặn. Kế đó là mình
phải giử làm sao cho cái tiếng niệm Phật cùng với cái tâm của mình phải hiệp khắn
nhau. Nghĩa là cái tâm phải duyên theo tiếng, cái tiếng phải nằm ở trong tâm,
không để cho nó xao lãng theo một tiếng gì khác
NAM MÔ A DI
ĐÀ PHẬT
Tin sâu -
Nguyện thiết - Hạnh Chuyên
***
Nam Mô A Di
Đà Phật!
Không gấp cũng không hườn
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
Nhiếp tâm là định học
Nhận rõ chính huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
Nhất tâm phật hiện tiền
Tam muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
Chứng lý pháp thân hiện
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Cố gắng hết sức mình
Cầu đài sen thượng phẩm
----------o0o----------
KỆ NIỆM PHẬT
(Hạ thủ công phu)
MỘT CÂU A DI ĐÀ PHẬT
KHÔNG GẤP CŨNG KHÔNG HƯỜN
TÂM TIẾNG HIỆP KHẮN NHAU
THƯỜNG NIỆM CHO RÀNH RÕ
Khi hạ thủ công phu ở nơi một câu hồng danh của
Phật “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm cho được vừa
chừng không quá mau (không gấp), không quá chậm (không hườn) là niệm cho đều đặn.
Kế đó là mình phải giử làm sao cho cái tiếng niệm Phật cùng với cái tâm của
mình phải hiệp khắn nhau. Nghĩa là cái tâm phải duyên theo tiếng, cái tiếng phải
nằm ở trong tâm, không để cho nó xao lãng theo một tiếng gì khác, hể nó thoạt
mà rời đi thì mình phải nhiếp kéo nó trở lại liền đặng cho nó trụ nơi cái tiếng,
như vậy gọi là “TÂM TIẾNG HIỆP KHẮN NHAU” nghĩa là cái tâm và cái tiếng
không khi nào rời nhau, mà tâm và tiếng không khi nào rời nhau đó mới gọi là
thiết thiệt niệm Phật, chớ nếu trong lúc mình niệm Phật mà mình lại tưởng niệm
những việc khác đó là mình niệm việc khác, nhớ việc khác, chớ đâu phải là thiệt
niệm Phật. Nếu là thiệt niệm Phật thì trong tâm mình chỉ nhớ và tưởng Phật mà
thôi. Bây giờ mình niệm Phật , danh hiệu Phật, tất nhiên là mình nhớ và tưởng lấy
ở nơi cái tiếng niệm Phật, cái hiệu của Phật, như vậy mới gọi là thiết thiệt niệm
Phật. Thành ra mình làm cái gì cũng phải cho thiết thiệt trúng cái đó, chớ nếu
sai đi, tất nhiên khó có thể thành công được, do đó mới có câu “TÂM TIẾNG HIỆP
KHẮN NHAU.” Nên nhớ kỹ lắm mới được, khi niệm Phật phải nhớ câu đó và phải làm
cho đúng theo mới có lợi lạc. Nếu được tâm tiếng hiệp khắn nhau như vậy mới gọi
là niệm đúng cách và thiết thiệt.
Giờ đây phải “THƯỜNG NIỆM CHO RÀNH RÕ.”
Tâm tiếng hiệp khắn nhau rồi, nhưng phải để ý cho nó rành, rành là rành rẽ, tức
là từ tiếng, từ câu không có lộn lạo, còn rõ là rõ rành, hể Nam là rõ tiếng
Nam, Mô là rõ tiếng Mô, A là rõ tiếng A cho đến Phật thì Phật cái tiếng không
trại đi, phải cho thật rõ, vì điều này rất cần lắm, chớ nếu mình niệm mà không
nhận cho rành rẽ và rõ ràng, niệm một cách bơ thờ, về sau khi công phu được thuần
thục, mà khi thuần rồi, cái niệm trong tâm nó tự nổi lên cũng không rành rỏ, nó
hơi trại đi, chớ nếu lúc nào mình cũng giữ cho rành rõ, thì khi thuần thục
trong tâm mình nó cũng nổi lên cái tiếng niệm Phật rõ lắm, điều nầy rất quan trọng,
nên nhớ chữ “THƯỜNG” nếu muốn được cái tâm mà về sau, nó tự niệm lấy nó,
không cần mình phải ép buộc nó mới niệm--phải thường—nghĩa là luôn luôn mình phải
niệm cho thật nhiều giờ và thời gian cho được tương tục gọi là thường, chớ nếu
trong một ngày, một đêm mà mình chỉ có niệm một hai tiếng đồng hồ thôi, còn 22
tiếng kia mình lại nghĩ việc tào tạp thì biết bao giờ tâm mình mới thuần thục
được. Mình phải tập cho nó niệm luôn luôn lâu ngày thành thói quen--tập
quán—nhưng bây giờ mình bận đủ các công việc đâu phải như các vị rãnh rang (cấm
túc), kiết thất hay là tịnh niệm, tịnh khẩu chẳng hạn, vậy mình phải làm sao
đây? Tất nhiên trong lúc đi đứng nằm ngồi và lúc rãnh cũng bắt cái tâm mình nó
niệm Phật, trừ khi nào tâm mình bắt buộc phải chú trọng đến những công việc gì
khác, xong rồi, phải nhớ niệm Phật lại. Như lúc mình mặc áo mình cũng vẫn niệm
Phật được, đi ngoài đường cũng vẫn niệm Phật được, bởi vì lúc đó cái tâm có thể
rảnh để Niệm Phật, như vậy lúc mình ngồi ăn cơm cũng niệm Phật được, hoặc lúc
mình nằm nghĩ, chứ không phải chỉ niệm phật lúc mình ở trước bàn thờ Phật, có
chuông, có mỏ, quỳ nơi đó, nếu chỉ có như vậy thì khó thuần thục, khó thành
thói quen. Về công hạnh niệm Phật điều đó cần phải nhớ lắm mới được.
NHIẾP TÂM LÀ ĐỊNH HỌC
NHẬN RÕ CHÍNH HUỆ HỌC
CHÁNH NIỆM TRỪ VỌNG HOẶC
GIỚI THỂ ĐỒNG THỜI ĐỦ
Trong một câu niệm Phật, mình gồm cả ba môn “Vô
lậu học” mà các đệ tử của Phật cần phải thật hành là “GIỚI, ĐỊNH, HUỆ.”
Như vậy trong câu niệm Phật mà đang thật hành đó nó tương ứng với: GIỚI, ĐỊNH,
HUỆ là như thế nào? Đáng lẽ thì bài kệ phải nói là GIỚI trước rồi mới đến ĐỊNH
và HUỆ, nhưng vì rằng phải theo việc trình bày, thành ra phải để GIỚI về sau.
Trước hết là mình nhiếp tâm niệm Phật, không nghĩ việc gì khác, tâm mình trụ
nơi câu niệm Phật thôi, thì đó mình học về môn ĐỊNH. Đây nói là mình học về môn
ĐỊNH chớ không phải là mình được ĐỊNH, nhưng mình đã học môn định thì tương ứng
với ĐỊNH thì một ngày kia mình sẻ được ĐỊNH. Đó là môn “Vô lậu học” thứ nhất, gọi
là “ĐỊNH HỌC.” Kế đó, trong lúc mình niệm Phật thì tâm và tiếng hiệp khắn với
nhau, mình lại nhận rõ ràng và rành rẽ tất nhiên trong lúc đó cái tâm mình nó
sáng, nó có sáng mới nhận được rành rẽ và rõ ràng, chớ nếu nó không sáng thì
làm sao nhận được rành rõ. Cái sáng đó nó tương ứng với HUỆ, đây là môn “Vô lâu
học”, thứ hai gọi rằng “HUỆ HỌC”. Và trong lúc mình niệm Phật thì không có những
vọng tưởng, đó là chánh niệm. Đã chánh niệm, không vọng tưởng tất nhiên không
có những sự lỗi lầm và tương ứng với GIỚI, đây là môn “Vô lậu học” thứ ba gọi rằng
môn học về GIỚI. Đó là từ dưới đi lên trên, hay là bắt từ trên trở xuống dưới
thì nhiếp tâm thuộc về ĐỊNH HỌC, tâm mình nhận rành rẽ và rõ ràng đối với câu
niệm Phật là tâm sáng, tương ứng với HUỆ HỌC và vọng niệm không khởi, chánh niệm
hiện tiền không có sự lỗi lầm trong lúc niệm Phật tất là tương ứng với GIỚI.
Như vậy trong lúc mình thực hành một câu niệm Phật đủ cả ba môn Vô lậu học (GIỚI,
ĐỊNH, HUỆ), mà đã tương ứng với Giới, Định, Huệ rồi một ngày kia khi mà câu niệm
Phật được thuần, tất nhiên là mình thành tựu được một lượt cả ba môn Vô Lậu Học,
và mình thấy trong hiền đời đã có sự lợi ích rất lớn là mình được cái sư điều
nhiếp thân tâm đi vào nới pháp lành, tương ứng với ba môn Vô Lậu Học là ba điều
mà đức Phật dạy: Hễ đệ tử Phật, dầu xuất gia hay tại gia đều phải tu và trong
tương lai, tất nhiên là nhờ ở nơi tịnh nghiệp mình tu hành đó, sẽ được vãng
sanh về Cực Lạc Thế Giới, bảo đảm sự giải thoát thẳng đến thành Phật không thối
chuyển. Như vậy, pháp môn “NIỆM PHẬT” nếu mình suy nghĩ kỹ lợi ích biết chừng
nao, cần phải noi theo và thực hành cho đúng và phải cố gắng khuyên những người
có duyên với mình đều phải TIN, phải NGUYỆN và THỰC HÀNH như mình để cho mình
cùng tất cả mọi người đều được lợi ích nơi pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật cầu vãng
sanh Cực Lạc Thế Giới của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy và đúng theo bản hoài của
Ngài là muốn cho tất cả chúng sanh đều được thành Phật.
TÓM LẠI: Mấy câu kệ trên nói về nơi hạ thủ công
phu ở một câu hồng danh của Phật “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm
cho vừa chừng, không quá mau gọi là không gấp, không quá chậm gọi là không hườn,
và nơi đó phải nhiếp tâm theo cái tiếng niệm Phật, tâm với tiếng đi đôi với
nhau gọi là tâm tiếng hiệp khắn với nhau. Phải niệm cho được nhiều giờ trong
ngày đêm. Khi niệm cái tiếng phải cho rõ ràng, nhận cho rành rỏ, nên gọi rằng
thường niệm cho rành rõ, kế đó mới hiệp câu niệm Phật của mình cho tương ứng với
ba môn “Vô Lậu Học” Giới, Định và Huệ. Khi mình niệm thì nhiếp tâm, không cho
tán tâm, trụ nơi cái tiếng niệm Phật, như vậy gọi rằng tâm duyên nơi một cảnh,
nghĩa là cái tâm ở một cảnh hồng danh của đức Phật, đó tất nhiên học về môn Định
và khi niệm đó thì cái trí rất sáng, nhận cái tiếng niệm Phật rõ ràng, từng câu
rành rẻ. Cái trí sáng đó tất nhiên đã tương ứng với môn Huệ Học thì lần lần TRÍ
HUỆ PHÁT.
Trong khi mình niệm Phật thì nhiếp tâm nơi chánh
niệm, vọng niệm không xen vô, mà vọng niệm không có thì tất nhiên những lỗi lầm
không có, vì bao nhiêu những tội nghiệp lỗi lầm đều ở nơi vọng tâm phân biệt mà
ra. Nay vọng tâm không có, trụ tâm ở chánh niệm, thì như vậy những lỗi lầm
không có, mà giới là chi? Tức nhiên là để ngăn, không cho ở nơi thân khẩu ý tạo
tội lỗi. Giờ đây thân khẩu ý trụ nơi câu niệm Phật là chánh niệm không có những
tội lỗi, thì đó là tương ứng với Giới. Như vậy, trong một câu niệm Phật, lúc
mình chuyên tâm đúng cách thì đầy đủ cả Giới Học, Định Học và Huệ Học. Khi Giới,
Định và Huệ mà phát ra thành tựu, cái đó là chứng quả thánh. Giờ đây mới tiếp tục
để tiến lần thêm ở nơi cái phần niệm Phật cho nó được nơi Sự Tam Muội hay Lý
Tam Muội, tức là chánh định niệm Phật về SỰ và chánh định niệm Phật về LÝ. Theo
đúng như trong kinh nói: Người niệm Phật mà được ở nơi cái Sư Tam Muội, chánh định
về sự thì khi lâm chung, chắc chắn vãng sanh. Vãng sanh rồi tất nhiên không mất
nơi cái phần Trung Phẩm, mà nếu được gồm lý niệm Phật nữa thì khi vãng sanh
không mất phần Thượng phẩm. Thượng Phẩm tức là BẬT ĐẠI BỒ TÁT, Trung Phẩm tức
là ngang hàng Thánh của Nhị Thừa, thành ra không phải bực thường được. Đây theo
nơi bài kệ để tuần tự giảng giải quí đạo hữu nên nghe kỹ và cố gắng để mình đi
được bước nào thì được bước nấy.
NIỆM LỰC ĐƯỢC TƯƠNG TỤC
ĐÚNG NGHĨA CHẤP TRÌ DANH
NHẤT TÂM PHẬT HIỆN TIỀN
TAM MUỘI SỰ THÀNH TỰU
Khi niệm Phật nhiếp tâm đúng cách như vậy rồi,
niệm mỗi ngày mỗi đêm, niệm được nhiều giờ, nhiều thời gian gọi rằng thường niệm,
đã thường niệm rồi trải qua một thời gian tức nhiền cái tâm được thuần thục.
Khi tâm được thuần thục rồi thì nó có cái trớn niệm Phật nơi tâm. Lúc đó thì
không cần phải tác ý, không cần phải dụng công, nhưng nơi tâm vẫn cứ tiếp tục nổi
lên tiếng niệm Phật. Nhớ kỹ là cái tâm nổi lên tiếng niệm Phật, như vậy đó, nó
không có gián đoạn nghĩa là đi, đứng, nằm, ngồi gì cũng nhận thấy rằng tâm mình
nó vẫn có cái tiếng niệm Phật, không cần phải dụng công tác ý gì hết, đó gọi rằng
là được niệm lực tương tục, nghĩa là cái sức chánh niệm nối tiếp, cho nên biết
rằng cái lúc mà mình tác ý dụng công thì mình phải cố gắng lắm cái tâm mới chịu
duyên theo ở nơi cái tiếng niệm Phật, mà rồi thật ra trong lúc đó tâm nó có nhiều
khi, ở nơi mình, cái miệng thì có niệm Phật, cái tiếng có phát ra mà cái tâm
nhiều khi nó nhận câu thứ nhất, câu thứ nhì nó lơ là hay là ở trong câu niệm Phật
đó nó nhận tiếng Phật tiếng A gì đó, mà tiếng Nam, tiếng Mô nó lơ là, còn giờ
đây cái tâm tự động nó niệm Phật do sau khi mình niệm Phật được thường lâu ngày
nó thuần thục, nói lâu ngày đây, chớ cái trình độ này có người chỉ trong một
ngày đêm có thể được, nếu căn trí lanh lợi và tinh tấn. Có người chừng bảy ngày
đã được rồi, còn người niệm Phật không được thường lắm thì phải thành ra lâu. Nếu
được cái sức niệm ở nơi tâm tự động nó niệm gọi là BẤT NIỆM TỰ NIỆM đó
thì được cái chánh niệm nối tiếp luôn kêu là NIỆM LỰC ĐƯỢC TƯƠNG TỤC,
thì đó mới đúng nơi cái nghĩa CHẤP TRÌ DANH HIỆU mà trong kinh Di Đà các
đạo hữu thường tụng đó.
Thường thường người tụng kinh Di Đà ít có để ý,
bởi vì lời Phật nói ra không phải là cái thông thường, mình phải cần để ý lắm.
Hễ phật nói nhất tâm thì nhất định là cái tâm phải chuyên nhất thôi, không được
xen gì hết mới gọi là nhất tâm, còn Phật nói nhất niệm thì tất nhiên cái niệm
phải cột nó lại một chỗ mới gọi là nhất niệm. Giờ đây Phật nói rằng chấp trì
danh hiệu thì tất nhiên ở nơi danh hiệu đức Phật, nơi hồng danh đức Phật A Di
Đà hay Nam Mô A Di Đà Phật thì phải nắm cầm cho chắc, nắm cầm đó là cái tâm nắm
cầm cho chắc không lúc nào rời và không để cho cái gì xen tạp vô, như vậy gọi rằng
cái tâm nó chỉ nắm cầm hay là giữ chắc không rời câu niệm Phật, mới gọi là niệm
Phật tương tục, dù không niệm cái tâm nó vẫn tự niệm, nói gọn lại là bất niệm tự
niệm và cái chánh niệm đó được nối tiếp gọi là tượng tục. Đó mới thiệt là cái
nghĩa chấp trì danh hiệu ở trong kinh Di Đà. Nên cuối câu kệ gọi rằng: Niệm lực
được tương tục. Đúng nghĩa chấp trì danh.
Khi mà niệm lực được tương tục rồi, nắm giữ lấy
danh hiệu của Đức Phật mà không có cái tạp niệm xen vô thì trong một thời gian
cái tâm nó dừng lại, lìa hết tất cả cảnh ngũ trần, nghĩa là sắc, thanh, hương,
vị, xúc nó không có duyên nừa. Lúc đó dầu có con kiến cắn cũng không hay, nghĩa
là lìa nơi xúc trần, dầu có mùi hương thoãng cũng không biết là lìa nơi hương
trần và cho đến có tiếng chi một bên tai cũng không nghe, có cái chi ở trước mắt
cũng không thấy, dầu lúc đó mỡ mắt, mà cái tâm chỉ duyên rành rẽ ở nơi câu niệm
Phật và chỉ có nhận câu niệm Phật mà thôi lúc đó trong thì quên thân, ngoài
không duyên theo cảnh, cái tâm nó đứng lặng là nhất tâm bất loạn. Khi được như
vậy thì trong kinh Vô Lượng Thọ có nói lúc đó Phật thân hiện, Phật A Di Đà hiện,
cho đến Phật cảnh Cực Lạc hiện, nên câu kệ gọi rằng: “NHẤT TÂM PHẬT HIỀN TIẾN.”
Đó là thành tựu được Sự Tâm Muội, câu kệ gọi rằng: “TAM MUỘI SỰ THÀNH TỰU.”
Chánh định thuộc về sự, cái tâm mình trụ ở nơi câu niệm Phật, trong thì quên
thân, ngoài không duyên theo cảnh và lúc đó Phật và thánh cảnh hiện, nó thuộc về
sự tướng. Nếu người mà đuợc ngang nơi đây, thơi gian sau, khi vãng sanh bảo đảm
ở nơi Trung Phẩm, tức nhiên ngang với hàng thánh của Nhị Thừa. Còn nếu được niệm
lực tương tục đúng nghĩa chấp trì danh ở trên là bảo đảm vãng sanh, nhưng mà
trong phẩm vị thì chưa chắc Phẩm nào, còn tùy theo ở nơi thiện căn công đức của
người tu hành.
ĐƯƠNG NIỆM TỨC VÔ NIỆM
NIỆM TÁNH VỐN TỰ KHÔNG
TÂM LÀM PHẬT LÀ PHẬT
CHỨNG LÝ PHÁP THÂN HIỆN
Bây giờ do nơi chánh định thuộc về sự thì cái
tâm nó đứng lặng, do cái tâm đứng lặng đó, thành trí huệ phát—trí huệ đây gợi
là Vô lậu trí huệ hay là thánh trí phát. Do nơi phát đó, thành ra lúc đó toàn
thể tự tâm bổn tánh nó hiển hiện, trong Thiền Tông gọi rằng minh tâm kiến tánh.
Lúc đó đã thấy nơi bổn tánh rồi, mà bổn tánh thì tức nhiên không phải là cái
tánh riêng của một cái gì hết, nó cũng là cái tánh của tâm mà cũng là cái tánh
của Pháp, nó là cái tánh nói chung của tất cả Pháp. Mà đã là cái tánh của tất cả
Pháp rồi thì đương lúc niệm Phật đó cái tâm nó trụ ở nơi câu niệm Phật, nơi sự
niệm Phật. Chính ở nơi sự niệm Phật đó lại tỏ ngộ, thấy là vô niệm. Cho nên biết
rằng cái thể tánh chân thật của tất cả các pháp, nghĩa là không luận của tâm
hay là của sắc đều là cái tánh không tịch cả. Đã không tịch tất nhiên nó không
có cái sự gì và cũng không có cái tướng gì hết, cho nên nói cái thể tánh chân
thật nó như vậy. Do đó mới tùy duyên mà có ra tất cả sự, tất cả Pháp. Vì vậy
nên khi tỏ ngộ bổn tâm tự tánh rồi thì thấy cái chánh niệm mình đương niệm đó tức
là vô niệm gọi là ĐƯƠNG NIỆM TỨC VÔ NIỆM.
Mà cái tánh của chánh niệm không phải là mình
làm cho nó không, bởi vì bổn lai là không. Cũng như cái tánh của tất cả tâm,
cái tánh của tất cả Pháp, bổn lai nó là không tịch.
Do đó cho nên sợ rằng người học đạo không biết,
cố ý mà dằn ép cái tâm phải nhận rằng ở nơi niệm cái tánh là không (điều đó
không phải). Lúc đó thấy cái niệm là không tánh mà rồi cũng rõ biết cái tánh niệm
bổn lai nó là không. Như vậy mới thật là thấy cái thật tánh của niệm, mà nếu thấy
cái thật tánh của niệm thì thấy tất cả cái thật tánh của các pháp, bởi vì tất cả
pháp đều là một tánh mà thôi.
Cho nên thành ra thấy cái thật tánh của một pháp
tất nhiên thấy được cái thật tánh của tất cả pháp. Nên câu kệ mới nói đương niệm,
chính lúc đương niệm đó không phải bỏ niệm, mà GIÁC NGỘ LÀ VÔ NIỆM. Giác
ngộ vô niệm là chi? Tức nhiên là cái niệm tánh không tịch, mà cái niệm tánh
không tịch đó là tánh bổn lai của cái niệm, cho nên gọi rằng: “NIỆM TÁNH VỐN
TỰ KHÔNG” chớ không phải là nó mới không đây. Tại vì trước kia mình mê muội,
mình theo sự tướng, mình thấy có thế này, có thế kia đủ thứ hết.
Giờ đây giác ngộ được rồi thì thấy là bổn tánh
không tịch, bổn tánh không tịch đó là bổn lai từ nào đến giờ nó đã vẫn không tịch
như vậy, chớ không phải mới, do mình tu hành đây rồi nó mới là không, không như
vậy …Kế đến câu “TÂM LÀM PHẬT LÀ PHẬT” Đồng thời lúc đó phải giác ngộ rằng
chính cái tâm của mình đây là chân tâm thật tánh của mình đó. Và rằng ở trên, hể
giác ngộ ở nơi cái tâm niệm đó rồi thì thấy rõ rằng cái bổn tâm của mình làm Phật
và cái bổn tâm đó chính là Phật. Đó gọi rằng là bổn tâm chân thật. Lúc đó tất
nhiên gọi rằng chi? Là đã chứng ở nơi lý tánh, thành tựu ở cái lý Tam Muội niệm
Phật và đồng thời pháp thân Phật hiện. Ở nơi trên về cái sự Tam Muội gọi rằng
là Phật hiện tiền, lúc đó có Phật ở ngoài mình hiện ra, rồi mình thấy Phật hiện,
còn giờ đây, chính tỏ ngộ được ở nơi thân tâm mình làm Phật là Phật. Nên biết rằng
cái tỏ ngộ đó không phải lấy ở nơi cái trí suy luận mà tỏ ngộ chính là cái hiện
lượng chứng trí lúc đó nhận như vậy, thấy như vậy, chứng như vậy, chớ không phải
là cái suy luận. Mà đã chứng ngộ ở nơi bổn tâm mình làm Phật và tức là Phật, vậy
Phật và tâm không phải là hai, chính tâm là Phật, Phật là tâm. Như vậy tất
nhiên là chứng nơi pháp thân, gọi là pháp thân hiên tiền, lúc đó pháp thân hiện,
còn ở trên ở nơi sự tam muội mà Phật hiện đó là Phật sư tướng hiện, sắc thân Phật
hiện, còn đây là PHÁP THÂN PHẬT HIỆN. Nếu người mà được đến đây rồi, thì
khi vãng sanh quyết định ở nơi thượng phẩm, tức là một vì Đại Bồ Tát hiện tại
người đó ở tại đây cũng là một vì Đại Bồ tát. Tầng bậc nầy đối với Thiền Tông gọi
là Chứng Tâm Tánh, sau khi minh tâm kiến tánh rồi, chứng tâm tánh gọi là đai
triệt, đại ngộ, ngang nơi đó. Nhưng ở nơi pháp môn niệm Phật thì hơn nơi Thiền
Tông bởi vì ở nơi Thiền Tông đến khi minh tâm kiến tánh hay là chứng nhập ở nơi
tự tánh rồi, còn cần phải thêm một thời gian rèn luyện nơi đó để dứt trừ những
nghiệp chướng phiền não, còn người niệm Phật thì không như vậy. Bởi vì ngoài
cái sự tỏ ngộ ra, chứng nhập ra, còn có cái nguyện lực Phật nhiếp trì, mà đã
vào trong nguyện lực của Phật nhiếp trì rồi tất nhiên chẳng những là chứng ngộ
nơi cái tự pháp thân mà cũng là ở vào nơi pháp thân của đức Phật A Di Đà. Do đó
cho nên không luận là nghiệp chướng, phiền não và tất cả, không luận tới việc
đó. Mà sau khi bõ cái thân này rồi về Cực Lạc Thế Giói được vãng sanh ở nơi Thượng
Phẩm thì mấy cái đó tự mất. Do đó nên trong kinh quán Vô Lượng Thọ có nói: Người
mà được vãng sanh về Thượng Phẩm tức nhiên bực đó gọi rằng ở vào sơ Địa Bồ Tát.
Hiện tiền sau khi sanh về có thể dùng cái trí lực và thần thông, nghĩa là liền
sau khi sanh về có thể hiện thân làm Phật ở trong 100 thế giới nào không Phật
thì vị Bồ Tát đó có thể hiện thân làm Phật để độ chúng sanh. Nên biết rằng mỗi
thế giới như vậy là có vô số những tiểu thế giới hiệp lại, cũng như Ta Bà thế
giới của mình là có 1000 triệu cái tiểu thế giới hiện lại, nghĩa là 1000 triệu
cái thái dương hệ hiệp lại mới thành cái thế giới Ta Bà. Do đó mà khi Đức Thích
Ca Mâu Ni thành Phật rồi thì cái thân hiện ra tới gọi là: “Thiên Bá Ức”, nghĩa
là 1000 trăm ức, 1000 trăm lần ức, 1000 trăm ức đó là 1000 tỷ, 1000 tỷ thân Phật
Thích Ca chớ không phải chỉ một thân Phật Thích Ca. Đó là nói một thế giới, mà
đây vị Bồ Tát ở nơi cái chứng lý pháp thân, nghĩa là ở nơi cái lý Niệm Phật Tam
Muội thành tựu rồi, vãng sanh về Cực Lạc Thế Giới, trụ nơi bậc sơ địa có thể
dùng thần thông trí huệ hiện thân làm Phật ở trong 100 thế giới không Phật để độ
chúng sanh.
Mình thấy pháp môn niệm Phật, nếu bắt từ dưới
nhìn lên trên và từ trên nhìn lần xuống dưới, mình thấy cái đường đi rành rẽ hết
sức là phân minh. Ở nới đó, mình thấy cũng không đến nổi quá khó, chỉ có khó là
mình phải tin, quyết định thực hành tinh tấn và không giải đãi mà thôi. Khó là
chịu nhất định để tu và quyết định tinh tấn, chỉ có khó nới đó mà thôi, chớ còn
cái việc mà thấy theo sự đắc lực, thì pháp môn niệm Phật không có cái chi là
khó lắm, không phải như các pháp môn khác. Vì các pháp môn khác do tự lực, tự lực
thành khó, và ở nơi các pháp môn khác mà đến chổ chứng lý pháp thân hiện: Bên
Thiền Tông thuộc về vô tướng tu. Vô Tướng Tu đó khó nắm nơi đâu để mà làm trụ cột,
để hạ thủ lắm, nếu sai một chút thì thuộc về hữu tướng, mà hữu tướng tất nhiên
không phải của Thiền Tông, sai rồi thì không thành tựu được. Còn như theo Pháp
Hoa Tông mà tu thì cũng phải tam chỉ tam quán, cái đó không phải dể được. Theo
Hoa Nghiêm Tông thì thuộc về pháp giới quán rất khó. Theo như Duy Thức Tông thì
phải là Duy Thức Quán, quán chẳng phải dể. Đó là nói những pháp môn thuộc về tự
lực tu.
Muốn được đến trình độ gọi là chứng lý pháp thân
thì phải trong các tông thuộc về Viên Đốn Đại Thừa, chớ nếu ngoài những tông đó
ra mà tu những tông khác thì tất nhiên không thể đến từng đó được. Những tông vừa
kể trên tu đến từng này khó lắm, bởi vì ở đó thuộc về tự lực. Còn đây, ngoài tự
lực ra thì pháp môn niệm Phật này còn có ở nơi tha lực, tức là nguyện lực của
Phật nhiếp trì. Do đó thành ra có sự dễ dàng hơn, bão đảm hơn. Huống nữa là
trong pháp môn niệm Phật nầy, nếu mình chỉ được ở nơi cái từng công phu thấp nhất
là có cái sự chuyên niệm, nó được tương ứng với nghĩa chấp trì, tất nhiên đó là
bảo đảm vãng sanh. Nếu được vãng sanh rồi thì dự vào hàng thánh, được bất thối
chuyển nơi đạo vô thượng. Dầu rằng đối với các bậc đạt được Sự Tam Muội Niệm Phật
hay Lý Tam Muội Niệm Phật là còn thấp, nhưng kỳ thật khi đã vãng sanh dự vào
hành thánh, được bất thối chuyển, nhất là được về Thế Giới Cực Lạc rồi thì
không có các sự khổ như là những cảnh duyên nó làm mình xao động, hoặc sự ép buộc
ở nơi thời tiết, nhất là việc ăn, việc mặc nó làm mình bận rộn cả ngày đêm.
Không có tất cả cái đó thì tất nhiên rãng rang tu hành, mà trong khi rãnh rang
đó lại có tiếng gió thổi, tiếng chim kêu, tiếng nước chảy đều phát ra tiếng nói
pháp hết, hơn nữa, nơi Cực Lạc Thế Giới, như trong kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô
Lượng Thọ, như kinh A Di Đà đó, các đạo hữu cũng thường tụng, thì các Bậc Nhất
Sanh Bổ Xứ Bồ Tát thượng thiện nhân là bạn, và người được vãng sanh sẽ ở chung
với bậc đó. Cho nên trong kinh Di Đà có nói: Những người nào mà nghe nơi đây
thì phải phát nguyện, nguyện sanh về Cực Lạc Thế Giới. Tai sao vậy? Vì đồng với
các Bậc Thượng Thiện Nhân Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát câu hội một chổ ở chung một chổ.
Như vậy đó thì thấy minh về bên đó rồi thì các bậc
Đại Bồ Tát như Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và vô số các vị Bồ Tát khác cũng đến
cái từng đó, thì mình được ở trong cái hội đó, trong cái xóm đó, nghĩa là nói
ngay ra ở chung. Cung điện của mình ở đây thì cung điện của các Ngài ở kia, muốn
gặp lúc nào cũng được, muốn hỏi han lúc nào cũng tiện. Và cái hóa thân Phật ở
khắp nơi trong Thế Giới Cực Lạc, không có chổ nào không có hóa thân Phật hết.
Thành ra muốn thấy Phật lúc nào cũng được, trừ ra những bậc thuộc về thượng phẩm,
chứng lý pháp thân. Chừng đó tất nhiên về Thế Giới Cực Lạc mới thấy được báo
thân thật của Phật, còn ở những bậc dưới thì thấy hoá thân mà hóa thân cũng như
báo thân, bởi vì sự thuyết pháp độ sanh của Phật thì hóa thân báo thân gì cũng
giống nhau nhưng cái thân có khác theo trình độ người: Thân lớn, thân nhỏ, cái
chổ đẹp nhiều hay là đẹp ít khác nhau, theo cái trí lực ở nơi con mắt thấy nó
sai khác, chớ sự giáo hóa cũng đồng. Phật bao giờ cũng theo căn cơ mà thuyết
pháp. Do đó cho nên trong kinh nói rằng: Chỉ có nước Cực Lạc là bảo đảm ở nơi
con đường thành Phật mà thôi. Như trong kinh A Di Đà Phật nói: Người nào nghe
kinh này mà thọ trì tu hành cùng những người đà phát nguyện, đang phát nguyện,
sẻ phát nguyện vãng sanh về nước của đức Phật A Di Đà, thì những người ấy đều đặng
không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nghĩa là người đó sẽ
được vãng sanh và được bảo đảm đi thẳng đến thành Phật mà thôi. Do đó, thấy căn
cơ của tự mình hiện tại đây cũng như tất cả mọi người trong thời gian này mà rời
pháp môn Niệm Phật thì quyết khó bảo đảm giải thoát lắm đừng nói là bảo đảm
thành Phật.
Vậy các đạo hữu cũng nên cố gắng tự tu cho tinh
tấn, và cũng đem pháp môn Niệm Phật chỉ dậy người khác và khuyên bảo người khác
nên thực hành như mình.
Hòa thượng Thích Trí Tịnh
biên soạn
(Thập niên 50 - 60