Vấn đề tha lực và tự lực xưa nay
vẫn được nhiều người tranh luận sôi nổi. Ở đây, NSGN trân trọng giới thiệu ý
kiến của Minh Đức Thanh Lương, tác giả của Tịnh độ luận, Con đường lý tưởng Bồ
tát đạo về mối quan hệ giữa tự lực và tha lực trong quá trình thực nghiệm tâm
linh.
Đứng trước sức mạnh cuồng bạo của
thiên nhiên, loài người tự cảm thấy mình nhỏ nhoi yếu đuối, sợ bị tiêu diệt,
nên mới phải thần phục sức mạnh của tạo hóa và dựa vào tha lực để an tâm lập
mệnh. Đó là cãn bản của bản nãng sinh tồn mang nặng tính chất ỷ lại và vô minh,
ngã si và vị kỷ. Nhưng mặt khác, trong con người biết suy nghĩ, lại có sức mạnh
tinh thần quật khởi, có ý chí khát khao tự do muốn vươn lên để địi hỏi con
người phải ức chế dục vọng để tự cứu mình thoát khỏi sự chế ngự của thiên
nhiên, nhất là ngày nay khoa học đã tiếp tay giúp loài người đoạt quyền tạo hóa
trong mọi lĩnh vực, con người đã cảm thấy rằng mình đã nhiều phen thoát khỏi sự
chế ngự của thiên nhiên.
Giữa hai lập trường trái ngược đó,
hoặc là ỷ lại vào tha lực, thường thường là một đấng thần linh cao cả, ban phúc
giáng họa cho con người, giao phó tính mệnh của mình vào tay con tạo xoay vần,
không còn tin ở tài sức của mình nữa, hoặc là chỉ dựa vào tự lực vùng lên với
tinh thần dũng mãnh để tự giải thoát, không cầu mong ở bất cứ ai\. Còn một
khuynh hướng thứ ba là dung hòa cả hai phái trên, đi theo con đường "Thần,
Nhân hợp tác" hay "Tự, tha đồng hiệp lực" (Synergisme). Trong
Phật giáo Đại thừa, vấn đề tha lực và tự lực đã từng được nhiều nhà bình luận
cổ kim tranh biện, làm nổi bật hai khuynh hướng tư tưởng khác nhau :
1. Một khuynh hướng thì thừa nhận
chúng sinh nào cũng có Phật tính và khả năng thành Phật, do đó phải tìm cách
phát huy năng lực sẵn có của mình : đó là lập trường của Thiền tông với chủ
trương "trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật", quy tự lực vào một
mối nhằm đạt tới Phật tính, chân tâm của mình.
2. Một khuynh hướng thì tin rằng,
các vị Bồ tát đã sẵn có lòng từ bi và lập nguyện sâu dày cứu độ chúng sinh, nếu
chưa độ tận chúng sinh thoát vịng khổ đau sinh tử, thì các Ngài quyết không
thành Phật, cho nên chẳng ai lại dại mà không cầu Phật cùng các Bồ tát có thần
lực hơn hẳn mình cứu giúp để được giải thoát :
đó là lập trường của Tịnh Độ tông
và Chân Ngôn tông, quy về nguyện lực của chư Phật và Thánh hiền.
Lập trưòng của Thiền tông là chỉ
trông cậy vào chính mình, khắc phục tự tâm để tiến tới giác ngộ, giải thoát.
Những người tu thiền phải là bậc thượng căn, hội đủ năm điều kiện thiết yếu sau
đây mới mong đạt tới Thánh quả :
a\. Giữ giới trang nghiêm.
b. Cãn cơ sắc bén.
c. Thông hiểu giáo lý và phân biệt
rành rẽ chân vọng, chánh tà.
d. Có ý chí cương quyết tiến tới
mục đích đã định, không chịu lùi bước trước mọi chướng ngại trên đường tu.
e\. Ngoài ra, còn phải nương cậy
vào một bậc Thiền sư dẫn đạo cho mình, tức là vẫn phải đi theo con đường
"Tự, tha đồng hiệp lực". Tuy phần lớn nhờ vào ý chí sắt đá của mình
để quyết định công phu tu tập, nhưng muốn chứng ngộ thì Thiền sinh phải tùy
thuộc vào một yếu tố then chốt gọi là "Thời tiết nhân duyên bất khả tư
nghị", nghĩa là dù hành giả có nỗ lực tới đâu mà "thời tiết nhân
duyên" chưa tới thì vẫn chưa thể chứng ngộ được. Bởi vì sự chứng ngộ là
trạng thái bộc phát bần thần, cũng như hòn than hồng phải được thổi hay quạt
vào để cho sức nóng của nó gia tãng tới mức độ cao nhất, mới mong bốc thành
ngọn lửa được. Có thể nói đó là một loại "Thần khải" (Révélation). Sự
bộc phát bất thần ấy tức là sự "Hốt nhiên khai ngộ" mà ngưòi Nhật Bản
gọi là Satori, là giây phút thần diệu, thiêng liêng xảy ra trong trường hợp đặc
biệt mà người tu coi là một sự kiện mặc nhiên khai ngộ, siêu việt mọi suy tư,
ngôn ngữ. Giây phút thần diệu thiêng liêng ấy chỉ đến với Thiền sinh vào lúc
hành giả ở trong đại định hay quán tưởng chín muồi và chỉ riêng người chứng ngộ
ấy tự biết mà thôi, cũng ví như người uống nước trà mới thưởng thức mùi vị đậm
nhạt, thơm ngon và nóng lạnh của chén trà mình vừa mới uống. Như trên đã nói,
tuy sự hốt nhiên khai ngộ là kết quả chủ yếu của công phu tu luyện bền gan lâu
dài của hành giả, nhưng dù cho khắc phục, gian nan khổ luyện tới mức nào cũng
vẫn chưa đủ, mà còn phải đợi "thời tiết nhân duyên" bất khả tư nghị
kia tới với mình mới thành tựu được việc lớn hằng ước mong. Bởi thế, cái
"thời tiết nhân duyên" ấy đóng một vai trò quan trọng đặc biệt trong
sự thành công của hành giả. Câu nói : "Hữu cầu tất ứng, hữu cảm tất
thông" thường được hiểu đến có nghĩa là Thiền sinh phải đợi tới lúc thời
tiết nhân duyên đến với mình. Và câu "Thôi trác đồng thời" nghĩa là
tình trạng quả trứng khi sắp nở, chim non ở trong quả trứng thôi thúc muốn
thoát ra ngoài thì ngay lúc đó chim mẹ phải mổ vào vỏ trứng, làm cho cái vỏ đó
rạn nứt mới giúp cho chú chim con phá được vỏ trứng vây bọc nó mà chui ra
ngoài. Cảnh chứng ngộ của Thiền sinh cũng vậy, phải do nỗ lực song phương của
hành giả phối hợp với tha lực và thời tiết nhân duyên, trong ngoài nhất trí mới
mong đạt tới giây phút thiêng liêng của sự Đại ngộ. Như vậy thì tự lực vẫn cần
phải có tha lực, nhưng ở vào mức độ có giới hạn, không ỷ lại quá đáng vào tha
lực mà thôi.
Xét về chủ nghĩa tha lực, nhgĩa là
không tin ở tài sức của mình mà chỉ trông cậy vào sự giúp đỡ của một thế lực
ngoại lai, thường là một đấng thiêng liêng nào đó, nhưng nếu không diệt được tự
ngã, tức là không từ khước được ý chí tự kỷ một cách triệt để thì không thể
hướng vào tuyệt đối được. Cũng ví như người đi biển gặp nạn đắm thuyền, cố bám
vào một mảnh ván trôi lênh đênh giữa bể khơi trong cơn giông tố, nghĩa là ở
trong cảnh tuyệt vọng tột đỉnh chờ chết, không còn tin vào sức mình để được cứu
thoát nữa, nếu không thiết tha mong cầu thần lực của những thế lực siêu nhiên
thì khó lòng thoát khỏi thủy tai\. Muốn được cứu thoát, tất phải nỗ lực xả kỷ
và tinh tấn cầu nguyện lực của Phật để được giải thoát mà không tinh tấn diệt
trừ vọng niệm, cùng những nết xấu tật hư, chỉ niệm Phật suông mà thôi, trong
khi vẫn cứ buông thả cho lục dục, thất tình của mình làm càn thì tất nhiên
không thể đạt được nguyện vọng. Cũng ví như người sắp chết đuối, chỉ vịn cái
phao để bám vào, nếu không biết giữ gìn cái phao cho tốt, lại còn phạm lỗi hủy
hoại cái phao đó thì tha lực cũng khó lòng cứu nổi\. Cuối cùng, chúng ta có thể
đi đến kết luận rằng, tự lực vẫn phải nhờ vào tha lực và trong tha lực vẫn có
tự lực hàm chứa\. Tha lực với tự lực chẳng qua chỉ là sự bất đồng trên mặt danh
từ mà thôi, chứ thực chất thì không có sự tách biệt gì trong vấn đề đó cả. Trong
tự có tha, trong tha có tự, không nên câu nệ danh ngôn để tách biệt tự lực và
tha lực. Pháp môn niệm Phật trên cả hai đường lối Sự trì danh và Lý trì danh
hiệu Phật A Di Đà, đều địi hỏi phải có sự nỗ lực quyết tâm vượt bậc và vững tin
ở tài sức của mình và cũng tin cậy vào cả nguyện lực của chư Phật gia hộ nữa.
Có tự lực dũng mãnh lại thêm được tha lực gia hộ thì tự lực ấy càng vững mạnh,
tăng lên gấp bội và trở thành một sức mạnh vô biên. Như vậy thì bất luận dựa
vào tha lực hay tự lực, danh từ tuy khác nhau, song đều đưa tới kết quả là diệt
trừ được phiền não, nhiễm ô, được giác ngộ, giải thoát và chung cuộc, nếu dựa
vào tha lực lấy việc niệm danh hiệu Phật làm nhân, sẽ được hái quả vãng sinh
Tịnh độ, nghĩa có Định thì có Tuệ, do đó mới nói rằng : Vãng sinh Tịnh độ tức
là thành Phật hay trở về với chân tâm, Phật tính của mình.