Lược Sử Ðức Phật A Di Ðà
và 48 Ðại Nguyện
--- o0o ---
DÀN
BÀI
A-Mở Ðề:
Phật tử tu pháp môn niệm Phật cần
phải biết lai lịch và hạnh nguyện của Đức Phật A Di Đà
B- Chánh Ðề
I. Giải nghĩa danh hiệi "A Di
Đà"
II. Lược sử: Đức Phật A Di Đà:
1. Con của Đức Đại Thông Trí
Thắng, theo kinh Pháp Hoa
2. Tỳ kheo quán bạch-hào của Đức
Phật Không Vương, theo kinh Quán Phật Tam-Muội-Hải.
3. Vô Tránh-Niệm
Chuyển-Luân-Vương, theo Kinh Bi-Hoa
4. Kiều Thi Ca là con của Nguyệt
Thượng Luân Vương bỏ ngôi báu xuất gia, tu chứng Phật quả.
III. 48 Đại nguyện của Phật A Di
Đà
C - Kết Luận
Nhân địa hạnh nguyện của Phật A Di
Đà do nhờ Phật Thích Ca chỉ dạy
Khuyên Phật tử noi theo gương
Phật, nguyệnđộ chúng sanh.
|
Bài Thứ 11
A.Mở Ðề:
Cây có cội, nước có
nguồn. Phật tử chúng ta phần nhiều tu pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ
(Cực lạc ), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Ðà thế nào, và 48 lời
nguyện ra sao.
Ðức Phật A Di Ðà có công
đức rất lớn và hãnh nguyện rất quảng đại. Ngài có nhân duyên hóa độ chúng sanh
ở thế giới Ta-Bà này rất nhiều.
Muốn cho chúng sanh cõi
nầy vượt khỏi kiếp lầm than của những cái khổ, sanh, già, bệnh, chết, nên đức
Phật Thích Ca nói rõ nhân địa hạnh nguyện của Phật A Di Ðà và khai thị pháp môn
Tịnh độ tu hành rất dễ dàng. Từ thượng lưu trí thức đến hạng dân thường, nếu ai
chuyên tu, cũng đều được vãng sanh cả.
B. Chánh Ðề:
I. Giải Nghĩa Danh Hiệu
" A DI ÐÀ"
A Di Ðà là dịch âm chữ
Amita. Hán dịch nghĩa là Vô lượng Thọ và Vô lượng Quang. Vô lượng Thọ nghĩa là
tuổi sống lâu không có số lượng; Vô lượng Quang, là Ngài có hào quang sáng suốt
không lường.
II. Lược Sử Tu
Nhân Và Chứng Quả Của Ðức Phật A Di Ðà
Chỗ nhân địa của đức
Phật A Di Ðà ở kiếp trước rất nhiều, không thể kể xiết, nay lược nói 4 kiếp như
sau:
1. Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa ở phẩm Thí dụ, hóa thành có chép:
"Ðức Phật A Di Ðà,
kiếp trước là con của đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai. Ngài nhờ công đức thường
giảng kinh Pháp Hoa cho chúng sanh nghe, nên thành Phật hiệu là A Di Ðà, ở cõi
Tây phương Cực lạc".
2. Kinh Quán Phật Tam
-Muội -Hải, chép:
"Ðời quá khứ Ngài
làm Tỳ kheo, chăm lòng kính lễ quán tưởng tướng lông mày trắng của đức Phật
Không Vương, nên được thọ ký là Phật hiệu là A Di Ðà".
3. Kinh Bi Hoa, chép:
Ðời quá khứ hằng hà sa
kiếp trước, Ngài là vua Chuyển Luân tên là Vô Tránh Niệm. Ngài có một quan Ðại
Thần tên là Bảo Hải, rất giàu lòng tín ngưỡng. Một hôm vua nghe Đức Phật Bảo
Tạng đến thuyết pháp tại vườn Diêm Phù ở gần bên thành, Ngài với quan Ðại thần
Bảo Hải liền đến nghe và rất hài lòng. Vua pháp tâm thỉnh Phật và đại chúng vào
vương cung cúng dường trọn ba tháng để cầu phúc báu.
Ðức Phật khuyên vua nên
phát Bồ đề tâm cầu đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Khi đó đức Phật Bảo Tạng
liền phóng hào quang sáng ngời, soi khắp cả thế giới của như Phật mười phương,
cho chúng hội đồng thấy. Bảo Hải đại thần liền tâu với vua Vô Tránh Niêm:
"Nay Bệ hạ nhờ oai thần của Phật, được thấy các thế giới, vậy Bệ hạ muốn
cầu lấy thế giới nào?".
Vua đảnh lễ Phật, quỳ
gối chắp tay phát lời đại nguyện, cầu xin sau khi tu hành thành Phật, quốc độ và
nhân dân của Ngài, đều được trang nghiêm thanh tịnh. Do nhơn duyên ấy, sau Ngài
thành Phật hiệu là A Di Ðà ở cõi Tây phương Cực lạc.
4. Phật Thích Ca nói:
"Ðời quá khứ lâu
xa, cách hơn 10 kiếp, có một nước tên là Diệu Hỷ, vua cha là Nguyệt Thượng Luân
vương, mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan. Vương hậu sanh ra ba người con: người con
trưởng là Nhựt Nguyệt Minh, người con thứ hai là Kiều Thi Ca, người con thứ ba
là Nhật Ðế Chúng. Khi ấy có đức Phật ra đời hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai.
Kiều Thi Ca bỏ ngôi vinh quí theo Phật Thế Tự Tại xuất gia, thọ Kỳ kheo giới,
Phật cho hiệu là Pháp Tạng Tỳ kheo. Ngài Pháp Tạng đối trước Phật, pháp 48 lời
nguyện rộng lớn, độ khắp tất cả mười phương chúng sanh; nếu có một nguyện nào
chẳng viên mãn, thì Ngài thề chẳng thành Phật. Khi ấy chư thiên rải hoa, tán
thán, quả đất rúng động, giữa không trung có tiếng khen rằng:
"Pháp Tạng quyết
định sẽ thành Phật hiệu là A Di Ðà".
Như thế, chúng ta biết
rằng, đức Phật A Di Ðà tiền thân là Thái Tử Kiều Thi Ca, bỏ ngôi sang, xuất gia
tu chứng thành quả Phật là A Di Ðà.
III. 48 Ðại Nguyện Của Ðức Phật A Di
Ðà
Nguyện thứ 1: Lúc tôi thành Phật, nếu
trong cõi nước tôi, có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác.
Nguyện thứ 2: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, sau khi thọ chung, còn trở lại sa vào
ba ác đạo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 3: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, thân chẳng màu vàng tất cả, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 4: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, thân hình có kẻ tốt người xấu chẳng
đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 5: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng có Túc mạng thông, ít nhất là biết
rõ những việc trăm nghìn ức na-do-tha kiếp (vô số kiếp) thời tôi không ở ngôi
Chách giác.
Nguyện thứ 6: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, chẳng đặng Thiên nhãn thông, ít nhất là
thấy rõ trăm nghìn ức na-do-tha thế giới của chư Phật, thời tôi không ở ngôi
Chánh giác.
Nguyện thứ 7: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, chẳng đặng Thiên nhĩ thông, ít nhất là
nghe và thọ trì tất cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức na-do-tha Đức Phật,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 8: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được Tha tâm thông, ít nhất là
biết rõ những tâm niệm của tất cả chúng sanh, trong trăm nghìn ức na-do-tha thế
giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 9: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, chẳng đặng Thần túc thông, khoảng một
niệm, ít nhất là đi qua khỏi trăm nghìn ức na-do-tha thế giới, thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 10: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, còn có quan niệm tham chấp lấy thân,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 11: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, chẳng trụ định tu, nhẫn đến trọn diệt
độ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 12: Lúc tôi thành Phật,
nếu quang minh còn hữu hạn, ít nhất cũng chiếu thấu trăm nghìn na-do-tha thế
giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 13: Lúc tôi thành Phật,
nếu thọ mạng còn hữu hạn, ít nhất cũng đến trăm nghìn ức na-do-tha kiếp, thời
tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 14: Lúc tôi thành Phật,
chúng Thanh Văn trong cõi nước tôi, nếu có ai tính đếm biết được số bao nhiêu,
dầu đó là vô lượng Bích Chi Phật đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 15: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, thọ mạng còn hữu hạn, trừ người có bổn
nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 16: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, còn có người nghe danh từ bất thiện
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 17: Lúc tôi thành Phật,
nếu vô lượng chư Phật thập phương thế giới, chẳng đều ngợi khen xưng danh hiệu
tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật,
thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến 10
niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác; trừ kẻ tạo tội ngũ
nghịch, cùng hủy báng Chánh pháp.
Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật,
thập phương chúng sanh pháp Bồ đề tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước
tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Phật,
thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi; và tu các
công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại
nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 21: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, tất cả chẳng đủ ba mươi hai tướng đại
nhơn, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 22: Lúc tôi thành Phật,
chúng Bồ Tát ở cõi khác sanh về nước tôi, cứu cánh đều quyết đến bực Nhứt sanh
bổ xứ, trừ người có bổn nguyện riêng, tự tại hóa hiện, vì chúng sanh mà phát
hoằng thệ nguyện, tu các công đức, độ thoát mọi loài, đi khắp thế giới, tu Bồ
Tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật, khai hóa vô lượng chúng sinh, làm
cho tất cả đều đứng vững nơi đạo vô thượng chánh giác, siêu xuất công hạnh của
các bậc thông thường, hiện tiền tu tập Ðại nguyện của Phổ Hiền, nếu chẳng như
thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 23: Lúc tôi thành Phật,
các Bồ Tát trong cõi nước tôi, thừa thần lực của Phật, mà đi cúng dường thập
phương chư Phật, trong khoảng thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô lượng
vô số ức na-do-tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 24: Lúc tôi thành Phật,
các Bồ Tát trong cõi nước tôi, khi ở trước thập phương chư Phật, hiện công đức
của mình, muốn có những vật cúng dường, nếu không được đúng như ý muốn, thời
tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 25: Lúc tôi thành Phật, nếu
chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi, không được Nhứt thế trí, thời tôi không ở ngôi
Chánh giác.
Nguyện thứ 26: Lúc tôi thành Phật,
nếu chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi, chẳng đều được thân kim cương Na-la-diên,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 27: Lúc tôi thành Phật,
thì trong cõi nước tôi, tất cả đồ dùng của nhơn thiên, hình sắc đều sáng đẹp
sạch sẽ, rất tột vi diệu, không có thể tính biết, dầu là người được thiên nhãn.
Nếu có người biết danh số các đồ vật ấy được rõ ràng, thời tôi không ở ngôi
Chánh giác.
Nguyện thứ 28: Lúc tôi thành Phật,
nếu Bồ Tát trong cõi nước tôi, dầu là người ít công đức nhứt, chẳng thấy biết
được cội cây đạo tràng cao bốn trăm muôn do-tuần, vô lượng quang sắc, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 29: Lúc tôi thành Phật,
chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi, nếu thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh pháp
mà chẳng được trí huệ biện tài, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 30: Lúc tôi thành Phật, nếu
có ai hạn lượng được trí tuệ biện tài của Bồ Tát trong cõi nước tôi, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 31: Lúc tôi thành Phật,
cõi nước tôi thanh tịnh, các nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị
thế giới ở mười phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được
như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 32: Lúc tôi thành Phật,
trong cõi nước tôi từ mặt đất tràn lên đến hư không, lầu nhà cung điện ao nước
hoa cây, tất cả vạn vật đều là vô lượng chất báu và trăm nghìn thứ hương, hiệp
chung lại mà thành; vạn vật đều xinh đẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp thập
phương thế giới. Bồ Tát các nơi ngửi đến mùi thơm ấy, thời đều tu hạnh của
Phật. Nếu chẳng như thế, tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 33: Lúc tôi thành Phật, các
loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, được quang
minh của tôi chiếu đến thân tâm họ, thời thân tâm họ mềm dịu nhẹ nhàng hơn
thiên nhơn, nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 34: Lúc tôi thành Phật,
các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe
danh hiệu của tôi mà không được vô sanh pháp nhẫn, cùng các môn thâm-tổng-trì,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 35: Lúc tôi thành Phật,
các người nữ trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, vui mừng tin
mến phát Bồ đề tâm, nhàm ghét thân gái. Nếu sau khi mạng chung mà còn làm thân
người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 36: Lúc tôi thành Phật,
chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu
tôi, vẫn thường tu phạm hạnh, mãi đến thành Phật. Nếu chẳng được như thế, thời
tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 37: Lúc tôi thành Phật,
hàng nhơn thiên trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh
hiệu tôi, cuối đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tin mến tu Bồ Tát
hạnh, thời chư Thiên và người đời đều kính trọng người đó. Nếu chẳng như thế,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 38: Lúc tôi thành Phật,
hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi muốn có y phục, thời y phục tốt đúng pháp
liền theo tâm niệm của người đó mà đến trên thân. Nếu còn phải cắt may nhuộm
giặt, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 39: Lúc tôi thành Phật, nếu
hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, hưởng thọ sự vui sướng không như vị Lậu tận
Tỳ-kheo, thời tôi không ở ngôi Chánh-giác
Nguyện thứ 40: Lúc tôi thành Phật,
nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới
nghiêm tịnh của chư Phật ở mười phương, thời liền được thấy rõ cả nơi trong cây
báu, đúng theo ý muốn, như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng như thế,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 41: Lúc tôi thành Phật,
chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó nhẫn đến lúc
thành Phật, mà các căn còn thiếu xấu, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 42: Lúc tôi thành Phật,
chúng Bồ Tát, ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, thảy đều được giải
thoát tam muội. Trụ tam muội đó, trong khoảng thời gian một niệm, cúng dường vô
lượng bất tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà vẫn không mất chánh niệm. Nếu chẳng như
thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 43: Lúc tôi thành Phật,
chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung thác sanh nhà
Tôn quí, nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 44: Lúc tôi thành Phật,
chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hơn hở, tu Bồ Tát hạnh,
trọn đủ công đức, nếu chẳng như thế, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 45: Lúc tôi thành Phật,
chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, đều đặng Phổ đẳng tam muội, trụ
tam muội này mãi đến lúc thành Phật, thường được thấy vô lượng bất tư nghị tất
cả chư Phật. Nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 46: Lúc tôi thành Phật,
chúng Bồ Tát ở trong cõi nước tôi, muốn nghe pháp gì, thời liền tự nhiên đặng
nghe pháp ấy. Nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 47: Lúc tôi thành Phật,
nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác, nghe danh hiệu tôi mà chẳng được đến
bậc bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 48: Lúc tôi thành Phật,
nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được
Ðệ nhất âm hưởng nhẫn, ở nơi Phật pháp chẳng liền được bậc bất thối chuyển,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
C. Kết Luận
Nói tóm lại, lịch sử đức
Phật A Di Ðà, với 48 đại nguyện. Công đức của Phật A Di Ðà rất rộng lớn, là do
lòng đại bi đại nguyện lợi tha. Ngài đành bỏ tất cả ngôi sang cao quí, nguyện
tu hành khi thành Phật, ở trên một cảnh giới huy hoàng trang nghiêm, để tiếp độ
chúng sanh. Trải qua một thời gian được kết quả, y báo, chánh báo xuất hiện rực
rỡ như lời Ngài đã thệ nguyện.
Phật tử chúng ta, từ hồi
nào đến bây giờ, biết niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, biết được pháp môn niệm Phật
cầu sanh Cực lạc (Tịnh độ) là nhờ đức Phật Thích Ca ta chỉ dạy.
Vậy xin khuyên tất cả
Phật tử, noi theo gương đại nguyện của Phật A Di Ðà, nên phát tâm thệ nguyện
rộng lớn, cầu khi lâm chung sanh về Cực lạc, hóa sanh từ hóa sen, tu chứng lên
bậc Bất thối, rồi trở lại cõi Ta Bà hóa độ bà con quyến thuộc và tất cả chúng
sanh tu hành, đồng thành Phật đạo.