Đại dương trí tuệ
15/04/2011 23:20 (GMT+7)


Cuộc sống xô bồ và dồn dập trong các xã hội phương Tây không cho phép một số người có thì giờ đọc toàn bộ những quyển sách liên quan đến các vấn đề khúc mắc của tâm linh. Vì thế nhiều tác giả chọn lọc các lời thuyết giảng, các câu phát biểu ngắn gọn hoặc các đoản văn ý nghĩa nhất để gom lại thành sách giúp người đọc dễ theo dõi và tìm hiểu, vì họ muốn đọc hay muốn dừng lại ở đoạn nào cũng được.

Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có phát hành một quyển sách theo thể loại trên đây. Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma. Hiện nay tại Pháp có khoảng mười quyển sách trích dẫn các lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã được phát hành, thế nhưng có lẽ quyển sách của nhà xuất bản Le Pré aux Clercs do Frédéric Hatier biên soạn là một trong những quyển sách chọn lựa và sắp xếp các câu phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cẩn thận, công phu và mạch lạc nhất.

Nói chung khi đọc lại một số sách khá xưa của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, kể cả các sách đã xuất bản từ vài chục năm trước, đôi khi chúng ta giật mình và bàng hoàng trước tính cách hiện đại, chính xác, thích nghi với tư tưởng con người trong bất cứ thời đại nào, trong bất cứ bối cảnh xã hội nào. Một điều khiến chúng ta càng kính phục và ngưỡng mộ hơn nữa là trong tất cả các sách, các bài phỏng vấn, thuyết giảng ... vô cùng phong phú của Ngài chưa hề thấy ai có thể tìm thấy những lỗi lầm hay ý tưởng mâu thuẫn. Đọc lại những lời Ngài phát biểu cách nay hàng chục năm ta cứ ngỡ là Ngài vừa nói lên ngày hôm qua để nhắc nhở chúng ta những gì phải học và phải làm trong ngày hôm nay, không giống như những tuyên ngôn của các chính trị gia hay những nhà lãnh đạo tinh thần khác.

Quyển sách trích dẫn mang tựa đề SAMSARA, se libérer de la souffrance, combattre l'intolérence par la non-violence (TA-BÀ, tự giải thoát khỏi khổ đau, chống lại sự kỳ thị bằng bất-bạo-lực). Sách gồm sáu chương :
 
 - Chương 1 : Đại dương Trí tuệ, tức là tên gọi của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma (phần được chuyển ngữ dưới đây)
 - Chương 2 : Quê hương Tây Tạng và cuộc sống Lưu vong (sẽ chuyển ngữ)
 - Chương 3 : Thế giới của chúng ta ngày nay (đã được chuyển ngữ)
 - Chương 4 : Đức Tin, Khoa học và Tôn giáo (đã được chuyển ngữ)
 - Chương 5 : Cẩm nang cho cuộc sống (đã được chuyển ngữ)
 - Chương 6 : Cõi Ta-bà : sống chết và tái sinh (đã được chuyển ngữ)

 

Chương I

ĐẠI DƯƠNG TRÍ TUỆ

Gốc gác của tôi

 Tôi sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935 trong một thôn xóm nghèo nàn tên là Taktser, tên có nghĩa là "con hổ gầm thét", heo hút trong miền đông bắc Tây tạng thuộc tỉnh Amdo, không xa biên giới Trung quốc. Cha mẹ tôi là những người nông dân nghèo. Thật thế những gì cha mẹ tôi gieo trồng cũng chỉ đủ nuôi chúng tôi. Cũng giống như các gia đình nông dân khác, gia đình cha mẹ tôi rất đông con, việc đồng áng phải cần đến con cái giúp đỡ. Mẹ tôi sinh tất cả mười sáu lần, thế nhưng chỉ nuôi được bảy anh em chúng tôi. Quả thật, trong gia đình nào có ai để ý tôi là một đứa bé khác hơn với những đứa bé bình thường khác.

Một đôi quạ xuất hiện vào ngày tôi ra đời  

 Vào ngày tôi sinh có một đôi quạ bay đến đậu trên mái nhà. Sau đó cứ mỗi sáng chúng lại bay đến một lúc rồi mới bay đi. Điềm ấy thật đáng chú ý vì đã từng xảy ra khi các vị Đạt-Lai Lạt-Ma thứ I, thứ VII và thứ VIII sinh ra đời.

Trong trường hợp nào tôi được công nhận là vị tái sinh của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thứ XIII ?  

 Một hôm, có một đoàn người do chính quyền Lhassa cử đi dò tìm vị Đạt-Lai Lạt-Ma tái sinh, họ kéo đến ngôi chùa Kumbum. Lúc bấy giờ tôi chưa đầy ba tuổi. Đoàn người dò theo các dấu hiệu mà họ tìm thấy và cứ theo đó lần mò đến tận nông trại của cha mẹ tôi. Họ nghỉ đêm với gia đình chúng tôi, họ nô đùa với tôi, quan sát từng cử chỉ nhỏ nhặt của tôi. Vài hôm sau họ lại quay lại và mang theo nhiều vật dụng tùy thân của vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII và cả các vật dụng khác cùng loại nhưng không phải của Ngài. Mỗi khi họ đưa các vật dụng của vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII cho tôi trông thấy thì tôi liền reo lên : "Cái này của tôi mà ! Cái này của tôi mà !". Do đó tôi được xác nhận là vị tân Đạt-Lai Lạt-Ma.

Những chiếc răng của vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII

 Mẹ tôi còn nhớ thật rõ khi người ta vừa đưa tôi đến Lhassa, tôi liền nói với mọi người là răng của tôi được cất giữ trong một cái hộp cất trong một gian phòng của cung Norbulingka (cung mùa hè) và tôi còn cho biết thêm một cách chính xác trong gian phòng nào. Khi người ta tìm thấy và mở hộp ra thì quả đúng là răng của vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII trong ấy. Tôi lấy tay trỏ vào chiếc hộp và bảo rằng chính đấy là răng của tôi.

Vị Bồ-tát của lòng Từ bi mang biểu tượng của Hoa sen Trắng
 Mọi người xem tôi là hóa thân của các vị Đạt-Lai Lạt-Ma sinh ra trước tôi - vị thứ nhất sinh vào năm 1351 - và chính vị này được xem là vị Bồ-tát của lòng Từ bi, mang biểu tượng của Hoa sen Trắng (tức là Quán Thế Âm Bồ-tát). Người ta tin rằng tôi là biểu hiện thứ bảy mươi bốn của một dòng tái sinh bắt đầu từ một đứa bé thuộc dòng dõi Bà-la-môn (giai cấp cao nhất trong xã hội Ấn độ) sống vào thời kỳ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni còn tại thế cách nay hơn hai nghìn năm trăm năm.

Vị Bồ-tát tượng trưng cho lòng Từ bi tái sinh

 Biết phải nói gì thêm để chứng minh sự kiện người ta cho tôi là người tái sinh của vị Bồ-tát Vô lượng Từ bi tức là Đức Quán Thế Âm Bồ-tát (Avalokiteshvara). Tôi chỉ biết nhờ vào thiền định để nhìn ngược lại đời tôi và theo dõi từng hơi thở một, hết hơi thở này lại chuyển sang hơi thở khác, cứ thế tôi ngược trở về quá khứ, điều này thật vô cùng tế nhị.
 Tôi nghĩ rằng có bốn cách tái sinh.
 Cách thứ nhất là sự tái sinh thông thường. Đối với thể loại này cá thể không có khả năng nào tạo ra tác động hầu biến cải sự tái sinh của mình, sự sinh đó hoàn toàn lệ thuộc vào hậu quả phát sinh từ các hành động do chính cá thể ấy thực thi trong quá khứ.
 Cách thứ hai hoàn toàn ngược lại, đó là trường hợp của một vị Phật hoàn toàn giác ngộ thế nhưng nhất quyết tái sinh và mang hình tướng con người hầu có thể giúp đỡ người khác. Trong trường hợp này, tất nhiên vị ấy đã là một vị Phật.
 Cách thứ ba là sự tái sinh của những người nhờ vào kết quả tu tập của chính mình trong quá khứ có đủ khả năng chọn lựa hay ít ra cũng có thể tạo được ảnh hưởng thuận lợi liên hệ đến nơi sinh và hoàn cảnh tái sinh của mình.
 Cách thứ tư là một sự "biểu lộ thánh thiện". Trong trường hợp này, người tái sinh tiếp nhận một trọng trách vượt lên trên cả khả năng của chính mình nhằm mục đích thực hiện một sứ mạng mang lại những lợi ích nào đó, chẳng hạn như giảng dạy cho người khác sự tu tập tâm linh. Để thực hiện mục đích trên đây, người tái sinh phải ước nguyện thật mãnh liệt từ trong các kiếp sống trước được tiếp tục tái sinh để giúp đỡ người khác. Đấy là một cách tự tạo cho mình một sứ mạng thiêng liêng.
 Dù rằng tất cả các trường hợp tái sinh trên đây đều có thể xảy ra cho tôi, thế nhưng tôi không thể khẳng định một cách quả quyết sự tái sinh của tôi thuộc vào loại nào.

Trong bụng mẹ 

 Người ta thường hỏi tôi có nhớ được sự sinh (có nghĩa là vào lúc thụ thai) của tôi hay thể dạng trước khi sinh hay không. Cho đến giờ phút này, tôi không nhớ được. Thế nhưng thói thường khi một hài nhi sinh ra đời thì mắt nhắm, trái lại khi mẹ sinh tôi ra thì đôi mắt tôi mở to. Đấy có thể là một dấu hiệu nhỏ cho thấy một tâm thức sáng suốt khi tôi còn trong bụng mẹ.

Người ta gán cho tôi là một con người hàm chứa những phẩm tính thiêng liêng

 Quả thật là một trường hợp hiếm hoi khi có một người nào đó được người khác xem là mang phẩm tính thiêng liêng, dù là dưới thể dạng này này hay thể dạng khác. Thế nhưng nhờ đấy mà tôi đã thực hiện được nhiều điều lợi ích. Vì thế tôi rất trân quý sự đánh giá ấy ; nó mang lại cho tôi niềm hân hoan. Vai trò thiêng liêng đó đã giúp tôi mang lại ích lợi cho nhiều người và tôi hiểu rằng đấy là nhờ vào nghiệp trong quá khứ đã giúp tôi giữ vững được trọng trách ấy. Quý vị có thể cho rằng chẳng qua tôi gặp được nhiều may mắn thế thôi. Thế nhưng phía sau chữ "may mắn" nhất định phải có những nguyên nhân và lý do đích thực nào đó. Đấy chính là nghiệp của tôi đã mang lại sức mạnh giúp tôi đảm trách bổn phận và thực hiện hoài bão của tôi. "Cho đến khi nào không gian còn hiện hữu, cho đến khi nào còn chúng sinh trong cõi luân hồi, tôi xin được còn đây để giúp họ thoát khỏi khổ đau", đấy là câu nguyện ước của một nhà sư tên là Tịch Thiên (Santideva). Tôi xin lập lại lời ước nguyện đó trong kiếp sống này và tôi cũng hiểu rằng tôi đã từng nói lên lời ước nguyện đó trong các kiếp sống trước trong quá khứ của tôi.

Mẹ tôi

 Mẹ tôi nhất định là một trong số những người khả ái nhất mà tôi được biết. Bà thật tuyệt vời và vô cùng từ bi. Một hôm, trong lúc nạn đói hoành hành khủng khiếp tại Trung quốc và nhiều người nghèo phải vượt biên giới tìm miếng ăn trong vùng chúng tôi đang sinh sống, có một đôi vợ chồng gõ cửa nhà chúng tôi mang theo trên tay một đứa bé đã chết. Họ xin mẹ tôi cho họ chút gì để lót dạ, mẹ tôi vội vàng mang thức ăn cho họ. Sau đó thì mẹ tôi trỏ vào đứa bé và ra hiệu bảo với họ có cần mẹ tôi giúp chôn cất đứa bé hay không. Khi họ hiểu được mẹ tôi muốn nói gì thì cả hai đều lắc đầu và ra hiệu giải thích rằng họ có ý định sẽ ăn đứa bé. Mẹ tôi vô cùng kinh hoàng vội kéo họ vào nhà và mang tất cả thức ăn trong bếp ra cho họ.
 Trong bất cứ trường hợp nào dù cho cả gia đình có thể phải nhịn đói thế nhưng không bao giờ mẹ tôi từ chối bất cứ một người ăn xin nào đến gõ cửa.

Sự cô đơn của một đứa bé 

 Vài tháng sau khi đoàn người điều tra xác nhận đứa bé trong thôn Taktser là vị Đạt-Lai Lạt-Ma tái sinh thì vào một buổi sớm cha mẹ tôi dắt tôi đến ngôi chùa Kumbum. Một buổi lễ được tổ chức ngay sau đó vào lúc hừng đông và sau đấy người ta giữ tôi ở lại chùa. Khoảng thời gian này khá buồn. Cha mẹ tôi quay về, tôi cảm thấy cô đơn trong một môi trường xa lạ. Thật vô cùng khổ sở cho một đứa bé phải sống xa gia đình. Tôi luôn cảm thấy bất hạnh. Tôi cũng chẳng hiểu Đạt-Lai Lạt-Ma có nghĩa là cái gì, tôi chỉ cảm thấy mình là một đứa bé như tất cả những đứa bé khác.

Nơi lâu đài mùa đông Potala tại Lhassa với hàng nghìn gian phòng

 Mùa đông năm 1940 người ta đưa tôi về lâu đài Potala. Một buổi lễ được diễn ra trong Gian phòng Tiếp tân, nơi được xem là điểm phát xuất của những hành động tốt lành trên cả hai phương diện tâm linh và tạm thời (tức chính trị), và sau đó người ta chính thức phong cho tôi chức vị lãnh đạo tinh thần chăm lo cho toàn dân Tây tạng. Ngày nay tôi vẫn còn nhớ rõ chiếc ngai thật to gọi là ngai Sư tử, làm bằng gỗ chạm trổ thật tinh vi và khảm đá quý. Hôm ấy lần đầu tiên người ta đặt tôi ngồi vào chiếc ngai này. Ít lâu sau người ta lại đưa tôi đến ngôi chùa Jokhang để thụ phong sa di. Nhà sư Reting Rinpoché cắt tượng trưng vài lọn tóc của tôi. Vị này giữ chức nhiếp chính và tạm thời làm nguyên thủ Quốc gia, chờ đến khi tôi trưởng thành.
 Ngoài vị Reting Rinpoché ra, tôi còn có thêm hai vị giám hộ và ba nhà sư phục dịch : một giữ việc nghi lễ, một lo việc bếp núc, một lo việc ăn mặc. Mỗi khi tôi đi đâu thì đoàn tùy tùng đều đi theo. Các vị bộ trưởng và các cố vấn chính phủ ăn mặc lụa là sang trọng bao quanh tôi, họ xuất thân từ các gia đình cao sang và quý phái nhất trong nước. Mỗi lần tôi rời lâu đài Potala, hàng trăm tùy tùng đi theo. Lúc nào cũng thế, cứ mỗi lần ra khỏi lâu đài là hầu hết dân chúng thủ đô Lhassa tìm đủ mọi cách để được trông thấy tôi tận mắt. Trong bầu không khí yên lặng và những phút giây trang nghiêm đó tôi hòa mình với dân chúng đang vái lạy tôi, lắm khi làm cho tôi phải bật khóc.

Đứa bé và người đầu bếp

 Ngày còn ấu thơ tôi rất quý mến người đầu bếp, yêu quý đến độ không muốn xa rời vị này một phút nào. Đôi khi chỉ cần nhìn thấy vạt áo của vị ấy loáng thoáng dưới chân các tấm màn chắn ngang cửa các gian phòng cũng đủ khiến cho tôi vui mừng. Cũng may, ông ta không nề hà gì về thái độ của tôi. Ông hói đầu, gần như không còn tóc, lúc nào cũng tỏ ra dịu dàng và đơn sơ. Ông ta kể chuyện không được hấp dẫn lắm, lại không thích nô đùa, thế nhưng những điều ấy chẳng hề quan trọng đối với tôi.
 Tôi vẫn thường thắc mắc về bản chất của nguyên nhân chi phối sự gắn bó giữa vị đầu bếp và tôi, đôi khi tôi cũng liên tưởng đến miếng ăn đã giữ vai trò chủ yếu trong sự tương giao giữa con người với nhau.

Việc học hành của tôi

 Cuộc sống của tôi chẳng có gì đặc biệt. Mỗi ngày hai buổi học, mỗi buổi một giờ, ngoài giờ học thì chơi đùa. Lúc vừa được mười ba tuổi người ta bắt tôi phải học theo chương trình dự trù cho các nhà sự chuẩn bị thi tiến sĩ Phật học. Chương trình gồm mười chuyên khoa, trong số này có năm chuyên khoa chính là : lôgic học, tiếng Phạn và văn phạm, y khoa, nghệ thuật và triết học Phật giáo. Năm chuyên khoa thứ yếu là : thi phú, thiên văn, nghệ thuật sân khấu (kịch nghệ, âm nhạc, ca vũ...), ngữ pháp và thuật ngữ. Chương trình học thiếu cân bằng và không thích nghi lắm cho việc đào tạo một người sau này sẽ phải điều khiển một xứ sở trong tương lai nhất là vào thế kỷ XX này. Chương trình học rất thủ cựu, thế nhưng dần dần tôi cũng quen. Thỉnh thoảng cũng được nghỉ hè, vào các dịp này người anh của tôi là Lobsang Samtèm cùng trạc tuổi tôi được phép đến thăm. Thỉnh thoảng mẹ tôi mang cho tôi một loại bánh đặc sản của tỉnh Amdo mà chính tay bà làm lấy.

Ngày lễ Lossar vào dịp đầu Năm Mới  

 Ngày lễ lớn nhất trong năm là ngày lễ Lossar tức ngày lễ đầu Năm Mới (ngày Tết), vào khoảng tháng hai hay tháng ba Tây lịch. Đối với tôi đấy là dịp được hội kiến công khai với vị Nechung tức là vị lo về sấm truyền cho Quốc gia. Vị này nhập vào vị thần linh của nước Tây tạng là Dorje Drakden và sau đó nói lại cho tôi và cả chính phủ biết về tương lai vận hạn của Quốc gia trong Năm Mới.

Các lời sấm truyền

 Khác với những gì mà người ta cố tình hiểu lầm, các vị tiên tri không phải chỉ biết tiên đoán tương lai. Thật ra người ta thường cầu khẩn các vị tiên tri để che chở và chữa bệnh cho họ, tuy nhiên vai trò chính yếu nhất của các vị tiên tri là giúp mọi người hướng vào Dharma - tức Giáo lý Phật giáo - để tu tập. Ngày xưa nước Tây tạng có hàng trăm vị tiên tri như thế. Ngày nay con số này ít hơn nhiều, thế nhưng riêng chính quyền Tây tạng thì vẫn tiếp tục nhờ đến các vị tiên tri tài giỏi (thí dụ vị tiên tri Lobsang Jigmé đã tiên đoán trước từ năm 1947 là Trung quốc sẽ xâm chiếm Tây tạng và chính vị này cũng đã khuyên Đức Đạt-Lai Lạt-Ma nên rời khỏi Tây tạng vào năm 1959, ghi chú thêm của người dịch). Trong số này có vị tiên tri của chùa Nechung là được tin cẩn hơn cả. Một trong các vị thần linh hộ trì cho các vị Đạt-Lai Lạt-Ma là Dorje Drakden thường hiển hiện xuyên qua vị tiên tri chùa Nechung. Từ nhiều thế kỷ nay các vị Đạt-Lai Lạt-Ma và cả chính phủ thường hay tham vấn các vị tiên tri chùa Nechung. Ngày nay chính tôi cũng tham vấn nhiều lần trong năm. Tôi quyết định chọn vị tiên tri chùa Nechung vì các lời tiên đoán của vị này tỏ ra rất đúng. Điều đó không có nghĩa là tôi chỉ biết tuân theo các lời khuyên của vị này, trái lại là khác. Nếu tôi có hỏi vị tiên tri thì đấy cũng tương tợ như khi tôi tham vấn hội đồng Nội các của tôi thế thôi, sau đó tôi còn phải hỏi chính lương tâm của tôi nữa. Nếu hội đồng Kashag (hội đồng bộ trưởng) có thể ví như là hạ viện, thì các bậc thiên nhân sẽ tượng trưng cho "thượng viện" đối với tôi. Khi tôi phải quyết định về một vấn đề nào đó liên quan đến vận mệnh Quốc gia, tôi nghĩ thật hết sức hiển nhiên phải đệ trình lên hạ viện và cả thượng viện.

Y phục nghi lễ của vị tiên tri Nechung

 Tại Dharamsala (nơi thiết lập chính phủ lưu vong của Tây tạng trên đất Ấn), vị tiên tri Nechung trụ trì một tu viện riêng. Y phục khi hành lễ của vị này gồm nhiều lớp vải quấn bên trong, bên ngoài là một chiếc áo rộng thêu thùa các biểu tượng cổ truyền, trước ngực đeo một tấm gương nhỏ chung quanh khảm ngọc lam (turquoise) và thạch anh tím (a-mê-tít), bên ngoài lại còn khoác thêm trang phục có cắm bốn lá cờ lớn và ba cờ hiệu biểu dương sự chiến thắng. Tất cả nặng hơn ba mươi lăm kilô, khi chưa nhập hồn thì người lên đồng đi đứng thật khó khăn vì quần áo và cờ quạt quá nặng. Hơn nữa người ta còn đặt lên đầu vị này một cái mão nặng đến mười lăm kilô. Ngày xưa cái mão này có thể nặng hơn bốn mươi kilô !

Người Trung quốc xâm chiếm Tây tạng vào năm 1950  

 Biến cố gay go nhất xảy ra cho tôi là trong những năm tháng khi mà tôi còn đang trong tuổi cắp sách đã phải đứng ra gánh vác trách nhiệm lớn lao. Trong suốt thời kỳ ấu thơ tôi chưa từng phải đối đầu với khó khăn nào đáng kể, thế nhưng trong lúc này lần đầu tiên tôi phải một mình gánh vác trách nhiệm, thật quả hết sức nặng nề cho tôi. Chuyện xảy ra vào năm 1950, lúc ấy tôi vừa mới mười lăm tuổi. Thật ra thì người Trung quốc cũng đã khởi sự thâm nhập vào lãnh thổ Tậy tạng từ trước, thế nhưng vào năm 1950 họ mới ồ ạt xâm chiếm khắp nơi. Riêng tôi thì ngoài việc học hành và tu tập ra tôi không có một kinh nghiệm nào về chính trị cũng như ngoại giao.

Lời kêu gọi Liên Hiệp Quốc của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma

 "[...] Thế giới chỉ quan tâm đến tình hình Triều tiên, nơi mà toàn thể liên quân quốc tế đang ra sức chống trả các cuộc tấn công. Trong khi đó những biến cố tương tợ đang xảy ra ở nước Tây tạng xa xôi thì không hề có ai thèm chú ý đến [...].
 "Sử dụng quân đội và vũ khí chiến tranh để xâm chiếm Tây tạng với mục đích đưa xứ sở đó vào quỹ đạo cộng sản Trung quốc là một sự xâm lăng trắng trợn. Cho đến khi nào mà dân tộc Tây tạng còn bị sáp nhập vào Trung quốc bằng vũ lực, đi ngược với ý chí và không có sự thỏa thuận của dân tộc ấy thì sự xâm lăng Tây tạng hiện nay là một bằng chứng hùng hồn cho thấy kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu. Vì thế chúng tôi kêu gọi các quốc gia trên thế giới can thiệp dưới danh nghĩa của chúng tôi để ngăn chận sự xâm lược của Trung quốc".

Bản tuyên ngôn này được hội đồng bộ trưởng (Kashag) và Quốc hội Tây tạng đồng ký tên. Làm tại Lhassa ngày hai mươi bảy tháng chín năm Canh Dần (tức ngày 7 tháng 11 năm 1950).
Lời kêu gọi trên đây không gây ra một tiếng vang nào.

Vị lãnh đạo không đối thủ của sáu triệu người dân Tây tạng vừa mới mười lăm tuổi

 Tình hình ngày càng trở nên tệ hại hơn, đã đến lúc đa số phải đứng về phía vị Đạt-Lai Lạt-Ma. Vì lý do có nhiều chính kiến bất đồng nên chính phủ phải nhờ đến sấm truyền. Vị tiên tri của chùa Nechung khệ nệ dưới sức nặng của chiếc mũ trên đầu và đang trong tình trạng cực kỳ căng thẳng (nhập hồn) tiến đến chỗ tôi ngồi và đặt lên đầu gối tôi một chiếc kata (khăn quàng bằng lụa trắng làm quà hiến dâng), trên chiếc khăn có viết một câu như sau : "Thời đại của nó đã hết". Từ nhiều năm nay, vị tiên tri công khai xem thường chính phủ thế nhưng lại tỏ ra rất cung kính đối với tôi. Lúc bấy giờ tôi mới mười lăm tuổi thế nhưng tôi đã trở thành vị lãnh đạo của sáu triệu dân Tây tạng đang chuẩn bị một cuộc chiến không tránh khỏi được. Tình thế quả thật không có lối thoát, thế nhưng tôi phải làm tất cả những gì có thể làm được trong quyền hạn của tôi để tránh thảm họa có thể xảy ra.

Lời tiên đoán của vị tiền nhiệm của tôi

 Vào năm 1933 vị tiền nhiệm của tôi là Thupten Gyatso, tức vị Đạt-Lai Lạt-Ma XIII qua đời và để lại di chúc cho biết chắc chắn và rõ ràng là một ngày nào đó sẽ xảy ra một mối nguy hiểm cộng sản vô cùng khiếp đảm cho xứ sở. Từ lúc ấy Ngài đã hiểu rằng không thể nào chống trả bằng sức mạnh hai nước láng giềng to lớn là Trung quốc và Ấn độ, vì thế Ngài đã kêu gọi hai nước láng giềng nhỏ bé là Nepal và Bouthan cùng hợp tác với Tây tạng thành lập và huấn luyện một quân đội chung. Thật ra cũng phải thú nhận đấy không phải là một cách thực thi chính sách tuyệt đối bất bạo động. Các nước láng giềng làm ngơ trước đề nghị này. Trên phương diện thuần túy chính trị cũng phải công nhận đấy là một biện pháp quá đỗi lo xa. Vi tiền nhiệm của tôi thật bén nhạy và đã cảm thấy những chuyển động sau này của thế giới. Thế nhưng người ta lại không tin vào lời Ngài nói. Các người có quyền hành không thực thi theo lệnh của ngài.

Đơn độc chống lại Trung quốc

 Với sự thoả thuận của các vị trách nhiệm trong tăng đoàn và của hội đồng Kashag (hội đồng bộ trường), tôi quyết định đưa một số phái đoàn đại biểu ra ngoại quốc : Hoa kỳ, Anh quốc, Nepal, và cả Trung quốc để cố gắng thương thảo yêu cầu Trung quốc rút quân. Phái đoàn duy nhất đến được nơi dự kiến lại là phái đoàn được gởi đi Trung quốc. Các phái đoàn khác đều bị từ chối không nước nào tiếp rước. Sự thất vọng quả thật chua chát. Có phải là người Mỹ đã thay đổi thái độ đối với chúng tôi hay chăng ? Tôi vẫn còn nhớ lại nỗi lo buồn khi nhận thấy điều ấy : rồi đây người dân Tây tạng phải đơn độc đương đầu với sức mạnh của cộng sản Trung quốc.

Trên đường từ Lhassa đến Bắc Kinh xuất hiện một pho tượng đầu trâu

 Người Trung quốc đề nghị với chính phủ Tây tạng hãy gửi sang Trung quốc một vài chức sắc để quan sát và đánh giá tận mắt cuộc sống của người dân trên đất mẹ Trung quốc tươi đẹp và vinh quang đến mức độ nào. Sau đó ít lâu, vào khoảng năm 1954, tôi lại đích thân được mời sang Trung quốc. Biết đâu nhờ dịp này tôi sẽ gặp được Mao Trạch Đông. Nhiều người Tây tạng không tán đồng chuyến đi này của tôi vì họ e sợ có thể tôi sẽ bị giữ luôn ở Trung quốc hoặc tính mạng tôi cũng có thể bị hăm dọa. Riêng tôi thì không hề sợ gì cả. Tôi quyết định lên đường. Đoàn tùy tùng lên đến năm trăm người, trong số này có gia đình tôi, hai vị giám hộ của tôi và cả hội đồng Kashag. Lhassa cách Bắc kinh ba ngàn cây số.
 Vào những năm 1954 các phương tiện lưu thông nối liền hai quốc gia chưa có. Trên chặng đường đầu tiên tôi quyết định chọn ngôi chùa Ganden làm trạm dừng chân thứ nhất và tôi vô cùng nôn nóng muốn đến ngay nơi này. Chúng tôi lưu lại đấy vài hôm. Thật không còn nghi ngờ gì cả, trước khi rời ngôi chùa tôi trông thấy pho tượng đầu trâu tượng trưng cho vị thần linh phù trợ xứ Tây tạng có vẻ rất khác lạ không giống như lần đầu tiên trước đây khi tôi trông thấy. Đầu pho tượng gục xuống giống như có vẻ tùng phục, mặt pho tượng quay về hướng Đông và hiện lên sự hung tợn. Sau này trên đường lưu vong người ta kể lại cho tôi nghe trong một ngôi miếu nhỏ thuộc ngôi chùa Ganden có một bức tường bỗng nhiêm rướm máu.

Ngài Pan-chen La-Ma
 
 Tương tợ như trường hợp của các vị Lạt-Ma, các vị Pan-chen Lạt-Ma cũng là các vị tái sinh thuộc các cấp bậc cao. Pan-chen Lạt-Ma là vị lãnh đạo tinh thần chỉ dưới quyền của vị Đạt-Lai Lạ-Ma mà thôi, thế nhưng các vị này trên dòng lịch sử chưa từng bao giờ nắm giữ một quyền hành dân sự nào cả.
 Khi đến tỉnh Sian thì vị Pan-chen Lạt-Ma tháp tùng với phái đoàn chúng tôi. Vị này mới mười sáu tuổi và lớn lên trong một hoàn cảnh vô cùng rối rắm. Một hố sâu chia cách hai vị tiền nhiệm trực tiếp của chúng tôi trước đây. Vị tiền nhiệm Pan-chen Lạt-Ma trải qua phần lớn đời mình trong vùng cận biên với Trung quốc do người Trung quốc kiểm soát và vị này đã chết tại đấy. Người Trung quốc tiến cử vị thay thế do chính họ lựa chọn trong vùng, trong khi đó thì có hai ứng viên khác đã được lựa chọn trong phần lãnh thổ Tây tạng. Nhiều cuộc thương thảo đã diễn ra thế nhưng sau cùng thì ứng viên do người Trung quốc lựa chọn được công nhận là vị hóa thân đích thực, lúc đó vừa được mười một hay mười hai tuổi.
 Việc giáo dục của vị này hoàn toàn trong tay người Trung quốc, trước hết dưới chế độ Tưởng Giới Thạch, sau đó là chế độ cộng sản. Tất nhiên đấy là một lợi điểm cho người Trung quốc, họ có thể mượn danh nghĩa của vị lãnh đạo tinh thần người Tây tạng để tuyên bố bất cứ gì. Nếu vị này và những người tùy tùng theo về với chính nghĩa Tây tạng từ trước thì thảm họa Tây tạng dù có xảy ra cũng không đến đỗi quá tệ hại đến thế. Tuy nhiên không nên hoàn hoàn toàn đổ lỗi cho vị Pan-chen Lạt-Ma. Vì quá trẻ và thường xuyên chịu sức ép nặng nề của ngoại bang nên vị này không làm gì khác hơn được.

Mao Trạch Đông

 Trong chuyến công du đầu tiên của tôi tại Trung quốc, tôi được vị Thủ tướng và phó chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung quốc là Chu Ân Lai và một vị nữa là Chu Tế (Chu Teh) đón tiếp. Cả hai tỏ ra rất thân thiện. Nếu tôi nhớ không lầm thì hai hay ba hôm sau, lần đầu tiên tôi gặp chủ tịch Mao. Cuộc gặp mặt xảy ra trong một buổi họp công khai. Phía chủ nhân giữ ý tứ quá đỗi cẩn thận. Sự lo âu của họ lây cả sang chúng tôi, khiến chúng tôi cũng hoảng kinh. Riêng chủ tịch Mao thì có vẻ hoàn toàn thoải mái và thư giãn. Ông ta không có vẻ gì là một người đặc biệt thông minh. Thế nhưng khi bắt tay tôi cảm thấy ông ta có một sức thu hút thật mạnh. Chẳng những ông ta là người thân thiện mà còn rất tự nhiên.
 Chúng tôi hội kiến với nhau ít nhất mười hai lần. Trước hết phải ghi nhận là trên phương diện thân thể ông ta là người khác thường. Da tuy sậm đen thế nhưng nước da bóng loáng. Hai bàn tay cũng bóng loáng giống như nước da trên người, ngoài ra tôi cũng nhận thấy hai bàn tay có một vẻ đẹp nào đó, ngón cái rất thanh nhã. Ông ta phát biểu bằng những câu ngắn và ăn nói rất chậm. Cử chỉ cũng chậm. Cách ăn mặc tương phản với phong cách của ông ta : quần áo có vẻ mòn nhẵn. Bộ đồng phục cũng tương tợ với quần áo của những người Trung quốc bình thường, chỉ trừ màu sắc là khác. Uy quyền toát ra từ toàn thân của ông và mỗi khi xuất hiện đều làm cho mọi người chung quanh phải kính nể.

Chu Ân Lai và Lưu Thiếu Kỳ  
 
 Ngoài Mao ra tôi còn thường xuyên gặp Chu Ân Lai và Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shao Ch'i). Trong khi Lưu tỏ ra rất trầm tĩnh và nghiêm trang thì Chu lại tươi cười, khả ái và có đầu óc hơn, nhất là sự lễ độ của Chu được đẩy đến mức khiến người khác phải lo ngại không còn biết có nên tin vào ông ta hay không. Không có gì thoát khỏi sự chú ý của Chu.

Khrouchtchev, Boulganine và nhà thông thái Nerhu

 Vào dịp lễ kỷ niệm năm thứ năm thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung quốc, người ta giới thiệu tôi với Krouchtchev và Boulganine. Hai vị này không gây được một ấn tượng nào đối với tôi. Dầu sao thì hai ông này cũng không thể so sánh với nhà thông thái (pandit) Nerhu đã thân hành đến Bắc kinh khi tôi còn lưu ngụ tại đó. Nhìn từ xa ông ta (Khroustchev) có vẻ khá nhã nhặn, thăm hỏi mọi người rất tự nhiên. Thế nhưng khi tôi bắt tay ông ta thì ông ta sững sờ và bất động. Ông ta không tìm được lời nào để nói và đôi mắt đờ đẫn không hồn. Tôi vô cùng thất vọng vì tôi có ý định hỏi ông ta về thái độ của quốc gia ông đối với Tây tạng như thế nào.

Hội kiến tay đôi với Mao

  Trong một buổi hội kiến tay đôi với Mao, ông ta nói với tôi như sau : "Tây tạng là một nước lớn. Quý vị có một lịch sử tuyệt vời. Cách nay đã lâu chính quý vị đã từng xâm chiếm một phần lớn lãnh thổ Trung quốc. Thế nhưng hiện nay quý vị đang trong tình trạng chậm tiến, và chúng tôi muốn giúp quý vị đuổi kịp sự chậm trễ đó". Thật khó tin, thế nhưng hình như ông ta rất thành thực khi nói lên những lời nói ấy. Ý nghĩ về một sự hợp tác với Trung quốc bỗng mang lại sự phấn khởi cho tôi. Càng suy nghĩ đến chế độ Mác-xít, tôi lại càng nhìn thấy nhiều phẩm tính tốt. Đấy là một chế độ nêu cao công lý và sự công bằng đối với tất cả mọi người, một phương thuốc bá bệnh. Khiếm khuyết duy nhất mà tôi thấy là chế độ ấy chỉ biết đến khía cạnh đơn thuần vật chất của sự hiện hữu con người.

Karl Marx và chế độ Mác-xít

 Nếu tìm hiểu về cuộc đời của Karl Marx và nguồn gốc làm phát sinh ra chủ nghĩa Mác-xít, thì người ta sẽ thấy rằng Marx đã từng gánh chịu thật nhiều khổ đau trong suốt cuộc đời mình, vì thế lúc nào ông cũng muốn chứng minh cho mọi người thấy mình là một nhà vô địch quyết chiến đấu để lật đổ giai cấp tư sản. Ông chỉ nhìn thấy thế giới này dưới khía cạnh của sự kình chống. Dựa trên bản chất của mô hình quá sơ đẳng đó, toàn thể phong trào cộng sản đã bị sụp đổ. Trái lại nếu biết xây dựng theo mô hình của ngàn xưa, dựa trên nền tảng của từ bi và lòng nhân ái thì có lẽ mọi sự đã phải khác hơn nhiều.

Du hành xuyên qua Trung quốc cộng sản

 Vào mùa đông năm 1954, tôi và đoàn tùy tùng du hành xuyên qua Trung quốc để chứng kiến tận mắt những tiến bộ tuyệt vời trên phương diện vật chất và kỹ nghệ. Tôi rất khâm phục những gì người cộng sản đã thực hiện được, nhất là trong lãnh vực kỹ nghệ nặng. Tôi ước mong xứ sở tôi cũng thực hiện được những tiến bộ như thế.

Lời khuyên của Mao

 Cuộc hội kiến với Mao vào mùa xuân năm 1955 và cũng rất có thể đấy là lần hội kiến cuối cùng. Mao ngỏ lời khuyên tôi nên cai trị như thế nào, phải tổ chức các buổi hội họp như thế nào, làm thế nào để thăm dò được sự suy nghĩ của người khác, làm sao giải quyết những vấn đề khó khăn... Sau đó ông ta đến bên cạnh tôi và nói với tôi như sau : "Thái độ của ông rất tốt, ông có biết không. Tôn giáo là liều thuốc độc. Trước nhất là các nhà sư và các nữ tu sống độc thân, chủ trương đó của tôn giáo không thể giúp gia tăng thêm dân số. Ngoài chuyện đó ra tôn giáo còn kiềm hãm sự tiến bộ. Hai nạn nhân trước mắt ông đấy : đó là Tây tạng và Mông cổ". Lúc đó mặt tôi hình như nóng bừng lên và bất chợt tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi.

Trở về Lhassa
 
 Trở về Lhassa vào tháng sáu năm 1955, tôi được hàng ngàn người đón rước giống như trước kia. Sự hiện diện của tôi mang lại phấn khởi cho dân chúng và riêng tôi cũng cảm thấy lạc quan hơn khi nghĩ đến Mao đã công khai bày tỏ sự tin tưởng đối với tôi, điều đó đã gián tiếp nâng vị thế của tôi cao hơn một chút trước cái nhìn của những người đại diện Trung quốc tại địa phương.

Thiền định tại cung mùa hè
 
 Thật thế tôi không đủ sức bày tỏ tất cả niềm hân hoan của tôi khi được trở lại cung Norbulingka. Phía bên ngoài và sát bên cạnh tường thành là trại quân Trung quốc, ngày đêm họ canh chừng chúng tôi, thế nhưng bên trong vòng thành khung cảnh vẫn an bình và tráng lệ. Chúng tôi vẫn tiếp tục thực hành nghi lễ và gần như không bị quấy rầy gì cả.

Những lời tiên đoán của vị tiên tri Nechung

 Vào đầu năm 1956 và vào dịp lễ Lossar (ngày Tết), tôi gặp vị tiên tri Nechung, đây là cuộc gặp gỡ vô cùng quan trọng. Vị này tuyên bố như sau : "Viên ngọc báu giúp thực hiện được mọi ước vọng (một trong các cách gọi vị Đạt-Lai Lạt-Ma của người dân Tây tạng) sẽ rạng ngời tại Tây phương". Ngay trong lúc đó tôi chỉ hiểu rằng phải vượt sang Ấn độ, thế nhưng về sau này tôi mới hiểu lời tiên tri ấy hàm chứa những ý nghĩa sâu xa hơn.

Công cuộc kháng chiến của người Tây tạng

 Một biến cố xảy ra vào mùa hè khiến tôi rất đau buồn, từ trước đến nay tôi chưa bao giờ đau buồn đến thế. Liên quân chiến đấu dành độc lập vừa gặt hái được vài kết quả đáng kể : phá được một vài đoạn cầu đường ngăn chận bớt sức tiến quân của các đạo quân Trung quốc. Thế nhưng đúng như sư tiên đoán của tôi : quân đội Trung quốc trả đủa một cách thật khủng khiếp. Thế nhưng tôi vẫn không ngờ được là họ lại dùng cả phi cơ oanh tạc ngôi chùa Lithang ở tỉnh Kham. Hay được tin này tôi bật khóc. Tôi không ngờ con người lại có thể độc ác đến thế. Sau trận oanh tạc đó họ tra tấn và tìm giết vợ con các chiến binh kháng chiến, các nhà sư và nữ tu sĩ thì bị tra tấn thật dã man chưa từng thấy.

Mao chính thật là kẻ đã hủy diệt Đạo Pháp

 Trong thuở thiếu thời và vào lúc tuổi đời còn trẻ thế mà tôi đã phải chứng kiến những cảnh tượng như thế, thật vậy đấy là các biện pháp đàn áp quá sức tàn bạo - đốt chùa, tàn phá các công trình nghệ thuật, đóng đinh, xẻ thịt, chặt chân tay, mổ bụng, cắt lưỡi - tất cả những thứ ấy không còn cho phép một sự hợp tác nào có thể hình thành được nữa. Những cảnh ghê rợn đó đã xảy ra trên quê hương tôi và tôi tin chắc rằng Mao là một người "hủy diệt Đạo Pháp".

Khó khăn của một vị lãnh đạo tâm linh và tạm thời (tức thế tục) trong thời kỳ chiến tranh

 Tình cảnh trở nên tuyệt vọng. Tất cả mọi cố gắng tìm kiếm một giải pháp hòa bình không mang lại một kết quả nào. Chúng tôi rơi vào vòng lẩn quẩn giữa sự trừng phạt độc đoán và sự phẫn uất của dân chúng. Sự thối chí xâm chiếm lòng tôi. Từ nghìn xưa bổn phận của vị Đạt-Lai Lạt-Ma là mang lại hạnh phúc cho đất nước Tây tạng, ngày nay thật không thể nào kham nổi trách nhiệm đó. Trong vị thế phải giữ hai vai trò, tức vừa là vi lãnh đạo tinh thần vừa là người cai trị tạm thời, tôi phải chận đứng mọi hình thức bạo động trong dân chúng, thế nhưng người Trung quốc trong khi đó lại tìm đủ mọi cách để ly gián tôi với dân chúng. Ví như người dân Tây tạng có đánh mất lòng tin nơi vị lãnh đạo chính trị của mình đi nữa, thì họ cũng không được phép đánh mất lòng tin đối với vị lãnh đạo tinh thần. Tôi có thể ủy nhiệm trách vụ chính trị cho người khác kể cả việc từ chức, thế nhưng một vị Đạt-Lai Lạt-Ma không bao giờ từ bỏ uy quyền lãnh đạo tâm linh ; thật ra thì tôi cũng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ấy.
 Chính trong lúc cực kỳ tuyệt vọng tôi lại nhận được giấy mời sang Ấn độ dự lễ Bouddha Jayanti (tức lễ Phật đản) đánh dấu hai ngàn năm trăm ngày sinh của Đấng Thế Tôn.

Du hành Ấn độ

 Vì các nhu cầu chính trị và tôn giáo tôi nhất quyết phải du hành sang Ấn với bất cứ giá nào. Chẳng phải nước Ấn là quê hương của Đấng sáng lập ra Phật giáo, nguồn gốc mang lại trí tuệ cho chúng ta hay sao ? Dù mang nhiều khác biệt thế nhưng Tây tạng cũng không khác gì người con của nền văn minh Ấn độ. Trên phương diện chính trị thì đấy cũng là một dịp may cho tôi rút lui, ít nhất cũng được một thời gian ngắn nào đó, ra khỏi sự bang giao vô bổ và những cuộc bàn thảo vô tích sự với người Trung quốc. Ngoài ra tôi cũng hy vọng là nhân dịp này tôi có thể tìm đưọc sự cố vấn của Nerhu và của các nhà lãnh đạo dân chủ, họ đều là đệ tử của Mahatma Gandhi.
 Trước đây xứ sở chúng tôi đã từng bang giao lâu dài và thân thiện với chính quyền Anh quốc tại Ấn độ. Đó cũng là mối dây liên hệ duy nhất giữa chúng tôi và thế giới Tây phương. Thế nhưng từ khi quyền hành được chuyển giao cho chính quyền Ấn, thì mọi bang giao chính trị giữa chúng tôi và Ấn độ cũng tan biến nhanh chóng như tuyết gặp nắng. Vì thế tôi phải quyết định nối lại sự bang giao đó. Tôi không thể chấp nhận một xứ Tây tạng hoàn toàn bị cô lập trên phương diện chính trị. Tôi rời Lhassa vào cuối tháng 11 năm 1956, và vui mừng nghĩ đến sẽ được tự do đi lại không còn lo sợ người Trung quốc.

Ngài Mahatma Gandhi

 Buổi sáng đầu tiên khi đến New Delhi một đám đông người tu tập đón rước tôi, ngay sau đó tôi đến viếng Raijghat là nơi hỏa táng Mahatma Gandhi. Trong khi đang tụng niệm trên triền dốc thoai thoải đưa xuống bờ sông Yamuna thì bỗng hiện lên trong lòng tôi một niềm tiếc nuối thật sâu xa không được gặp Gandhi lúc ngài còn sống, thế nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hân hoan khi nghĩ đến cuộc đời của ngài là cả một tấm gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Tôi từng xem ngài - và vẫn còn xem ngài - như một vị lãnh đạo Quốc gia lão thành biết đặt lòng vị tha lên trên quyền lợi cá nhân. Giống như ngài, tôi tin một cách vững chắc rằng bất-bạo-động là khí giới chính trị hữu hiệu nhất.

Hội kiến với nhà thông thái Hehru

 Trong lần hội kiến đầu tiên với nhà thông thái Nehru, tôi giải thích thật chi tiết cho ông ta hiểu là người Trung quốc đã xâm lăng nước Tây tạng an bình của chúng tôi như thế nào và tôi đã phải cố gắng như thế nào để tìm một sự thỏa thuận với họ khi mà tôi hiểu rằng không có một quốc gia nào sẵn sàng ủng hộ chúng tôi đòi lại quyền độc lập cho xứ sở của chúng tôi. Lúc đầu ông ta cố gắng nghe tôi nói một cách rất lễ độ, thế nhưng sau đó lại từ từ chuyển sang thái độ lơ là. Sau cùng thì ông ta nói với tôi là ông ta hoàn toàn hiểu tôi thế nhưng lại nói thêm : "Tuy nhiên ông cũng phải hiểu rằng nước Ấn không thể giúp ông được". Tuy thế tôi vẫn cứ đề cập với ông ta ý định của tôi xin tị nạn tại Ấn. Về điểm này Nehru cũng thoái thác : "Ông phải trở về xứ sở của ông và tìm cách thỏa thuận với người Trung quốc". Tôi phản kháng lại là tôi đã cố gắng hết mức thế nhưng người Trung quốc đã làm cho tôi thất vọng.
 Trước khi rời Delhi tôi hội kiến lần cuối cùng với Nerhru. Kết quả thật minh bạch : nước Ấn không thể giúp gì cho Tây tạng. Nehru còn khuyên tôi nên nghe theo lời Chu Ân Lai và khi trở về Lhassa thì nên về thẳng không được ghé Kalimpong, một thành phố ở Bắc Ấn, theo lời mời của những người Tây tạng tị nạn tại đây. Thế nhưng sau khi tôi nài nỉ ông ta về điều khoản này thì bất ngờ ông ta lại thay đổi hẳn ý kiến và tuyên bố rằng : "Dù sao thì nước Ấn cũng là một nước tự do. Bất cứ gì ông dự đinh thực hiện không trái với luật pháp Ấn độ".
 Hai người em của tôi liên lạc với các chính trị gia Ấn độ có cảm tình với chúng tôi và cùng với vị cựu Thủ tướng chính phủ của tôi trước đây cả ba đều cố gắng thuyết phục tôi nên ở lại luôn tại Ấn. Cả ba đều thỉnh cầu Kashag (hội đồng bộ trường) khuyên tôi không nên trở về nước. Tôi nhất định không nghe ; tôi nghe theo lời khuyên của Nehru và căn cứ vào lời hứa hẹn của Chu Ân Lai để cố gắng thêm một lần nữa hợp tác với người Trung quốc xem sao. Thế nhưng trên đường về Lhassa lòng tôi vẫn nặng trĩu lo buồn.

Lhassa trờ thành một thùng thuốc súng

 Tình trạng khủng hoảng ngày càng lộ liễu hơn và sau cùng đã bộc phát vào những tháng sau cùng của năm 1958, lúc đó Liên quân chiến đấu cho tự do đang bao vây Tsethang, một đồn quân quan trọng của Quân đội Nhân dân Giải phóng Trung quốc. Dân số Lhassa tăng lên gấp đôi vì người dân chạy nạn từ khắp nơi đổ về, tôi cảm thấy nếu mà họ tham gia vào việc đánh nhau thì nhất định sẽ không còn một hy vọng nào tái lập được hòa bình. Thùng thuốc súng có nguy cơ sẽ nổ tung bất cứ lúc nào, thế nhưng trên thực tế lại không có gì xảy ra. Tôi cố tập trung vào việc tu học suốt những tháng dài băng giá của mùa đông.

Tiến sĩ Phật học

 Đầu năm 1959, tôi rời Norbulingka (cung mùa hè ở Lhassa) để đến ngôi chùa Jokhang tham dự lễ Monlam và đấy cũng là dịp tôi phải dự thi lần cuối cùng để lấy bằng tiến sĩ. Khi đến nơi thì đã có khoảng hai mươi lăm đến ba mươi ngàn nhà sư đã tụ họp từ trước để đón rước tôi, họ bị tràn ngập bởi đám người thế tục thật đông đảo kéo về từ những nơi xa xôi và hẻo lánh trên toàn thể đất nước Tây tạng. Suốt ngay hôm đó trước sự chứng kiến của một cử tọa gồm nhiều ngàn người, tôi phải tranh luận với các học viên cùng khóa về các chủ đề thuộc Lôgic học, Khoa học luận (Epistemology), Madhyamaka (Trung Quán Tông) và Prajnaparamita (Bát-nhã Ba-la-mật-đa : tức trình bày về giáo lý và kinh sách Đại thừa). Sau đó các học giả Phật học hạch hỏi tôi về năm chuyên ngành chính yếu. Thật là một ngày nhọc mệt, thế nhưng ban giám khảo đều nhất trí chấm đậu và tuyên bố tôi xứng đáng nhận chức Geshe, tức tiến sĩ Phật học.

Một nghìn năm văn hiến biểu dương sự vinh quang lần cuối cùng

 Ngày 5 tháng 3 tôi rời chùa Jokhang để trở lại cung mùa hè trong cảnh nhộn nhịp. Các người cận vệ ăn mặc đồng phục sáng chói bao quanh chiếc kiệu của tôi, theo sau là hội đồng bộ trưởng và giới quý phái ở Lhassa, tất cả ăn mặc thật lộng lẫy. Tiếp theo sau là các vị trụ trì và các vị lạt-ma tiếng tăm nhất trong nước, sau hết là hàng nghìn và hàng nghìn người dân Tây tạng. Đấy là nền văn hiến của hơn một nghìn năm không gián đoạn đang biểu dương lần cuối cùng sự vinh quang của mình trên một đoạn đường sáu cây số chia cách hai tòa kiến trúc.

Đi xem một tuồng hát

 Trước chuyến du hành đến chùa Jokhang, người Trung quốc thúc hối tôi phải dự kiến một buổi trình diễn kịch nghệ, thế nhưng họ không hé môi thảo luận trước với chúng tôi nghi thức sẽ được tổ chức như thế nào, tuy nhiên tôi vẫn chấp nhận trên nguyên tắc sẽ tham dự vào ngày 10 tháng ba. Sau khi trở về Lhassa, chúng tôi được biết là buổi trình diễn sẽ được tổ chức bên trong trại quân của người Trung quốc đóng cách cung mùa hè chưa đầy ba cây số . Chỉ cần nêu lên ý nghĩ một vị Đạt-Lai Lạt-Ma đích thân đi đến một nơi như thế dù với mục đích nào đi nữa cũng là một điều không thể hình dung được (người tu hành không xem hát xướng). Bất cứ ai cũng đều nhận thấy lời mời ấy chứa đựng đầy những điều đáng nghi ngờ, nhất là tôi lại nghĩ thêm đấy là một sự kiện mới lạ chưa từng xảy ra, có nghĩa là tôi phải bước vào bên trong trại quân của người Trung quốc không một người cận vệ đi theo. Đúng ngày hôm đó, vào lúc tinh sương tôi tản bộ như thường lệ trong khu vườn của cung Norbulingka, vẻ đẹp của một buổi sáng mùa xuân làm cho tôi quên khuấy đi những nỗi lo lắng trong lòng. Bỗng nhiên những tiếng hò hét vang lên từ phía bên kia bức tường : dân chúng Lhassa hét to lên cho tôi nghe thấy là họ kéo nhau đến đây để cứu tôi. Đám người ngày càng đông thêm, người ta bảo với tôi là phải đến ba mươi ngàn người. Khi các thành viên chính phủ tràn vào Lâu đài, tôi nghe thấy họ nói với nhau : "Người Trung quốc ra khỏi Tây tạng ! Nước Tây tạng của người Tây tạng !". Tôi bảo hội đồng bộ trưởng hãy thông báo với vị đại tướng Trung quốc là tôi không thể tham dự buổi trình diễn được nữa. Tôi có cảm giác đang đứng giữa hai ngọn núi lửa sẵn sàng nổ tung bất cứ lúc nào. Một bên là dân tộc tôi cương quyết, nhất trí và dứt khoát phản đối chế độ Trung quốc, một bên là quân đội của một lực lượng chiếm đóng vô cùng hùng mạnh và hung hãn. Trong trường hợp chạm trán giữa hai bên : hàng ngàn người dân sẽ bị sát hại một cách tàn bạo.

Cuộc nổi loạn tại Lhassa

 Những ngày sau đó tình trạng trở nên hoang mang cùng cực. Vị đại tướng Tan Kuan-Sen cho biết đấy là một sự "phản bội" và lên án chính phủ Tây tạng đã tổ chức các cuộc khuấy động chống lại chính quyền Trung quốc. Người ta đồn là đang có một cuộc giàn quân nhằm phá tan cung Norbulingka. Khí thế của đám đông có vẻ như cuồng loạn. Tôi phải lưu lại nơi này hay nên bỏ trốn ? Tôi tham vấn vị tiên tri, lại thêm một lần nữa vị này lập lại câu trả lời trước đây : tôi phải ở lại để cố gắng duy trì sự đàm thoại cởi mở với người Trung quốc. Thế nhưng đây là lần đầu tiên tôi do dự, tôi muốn tìm trong câu trả lời của vị tiên tri một quyết định nào khác hơn. Và rồi đến ngày 16 tôi nhận được lá thư thứ ba và cũng là lá thư cuối cùng của vị đại tướng Tan Kuan-Sen. Đấy là bức tối hậu thư cho biết quân đội Trung quốc đang chuẩn bị tấn công vào đám đông và oanh tạc Norbulingka.

Cuộc sống lưu vong

 Hừng đông ngày 17 tháng ba năm 1959, phút cuối cùng đã gần kề. Tiếng đồn cho biết các đạo quân tăng cường không vận từ Trung quốc đã đến nơi.
 Về phía người Tây tạng thì một đám đông đang phẫn nộ - mang gậy, dao, kiếm và cả vài khẩu súng - họ đang bao quanh cung mùa hè với hy vọng giải cứu "người gia hộ cho họ", chẳng qua vì sinh mạng của vị Đạt-Lai Lạt-Ma là những gì quí giá nhất đối với họ. Họ quyết tâm lưu lại và sẽ chết ở đấy.
 Tình thế trở nên hoàn toàn tuyệt vọng. Tôi lại hỏi vị tiên tri thêm một lần nữa. Lần này thì tôi vô cùng ngạc nhiên vì vị này thét lên :" Đi ngay ! Đi ngay tối hôm nay !". Vị tiên tri đang trong tình trạng nhập hồn ghi lên giấy thật chi tiết cách thức (hóa trang) thoát ra khỏi Norbulingka và cả lộ trình vượt biên. Vào đúng lúc đó một biến cố xảy ra hình như có ý nhấn mạnh thêm lời sấm truyền : hai quả đại pháo rơi đúng vào cửa bắc của khu vườn Bảo châu. Tôi và các bộ trưởng tham vấn các vị lãnh đạo đại diện cho dân thì tất cả đều nhất loạt sẽ ra sức giúp đỡ chúng tôi và bảo toàn bí mật.
 Khi trời vừa sụp tối, tôi thân hành đến nơi chính điện thờ vị Mahakala, tức vị thần linh hộ mệnh của tôi. Tôi dâng lên một tấm kala (khăn quàng bằng lụa trắng) và lưu lại một lúc trước bàn thờ để nguyện cầu. Cửa chính của cung có một bờ thềm. Tôi đi một vòng và dừng lại ở mép thềm để hình dung cuộc hành trình của tôi khi đến nước Ấn và tôi lại quay trở lại phía cửa để tượng trưng cho sự trở về quê hương Tây tạng của tôi. Sau đó tôi ra đi giữa một đêm giá buốt, mặc một chiếc quần và khoác lên người một áo tơi dài, cặp kính bỏ vào túi, trên vai đeo khẩu súng, hai người cận vệ đi theo, và sau đó lại có thêm một người hầu cận nhập bọn. Như thế đó tôi rời vòng thành của lâu đài như một chiến sĩ Tây tạng thật bình dị. Hướng về nước Ấn, tôi bước vào con đường lưu vong.

 
      Bures-Sur-Yvette, 10.03.11
        Hoang Phong chuyển ngữ

Frédéric Hatier biên soạn Hoang Phong chuyển ngữ

Các tin đã đăng: