Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật Giáo Việt Nam Net)
Người Khmer ở hầu hết các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thường sống thành
từng vùng, có nơi chiếm tới 70% dân số, tập trung nhiều ở các tỉnh giáp
biên giới Campuchia như vùng Bảy Núi (Tịnh Biên, Tri Tôn), Hà Tiên
(Kiên Giang), Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Dân tộc Khmer thuần theo đạo Phật
tiểu thừa. Ở đồng bằng sông Cửu Long có hơn 440 ngôi chùa lớn nhỏ của
người Khmer, mỗi chùa có ít nhất 5 -10 ông lục, nhiều khi đến 60 - 70
ông ăn ở, học tập tu hành. Các ông lục, còn gọi là sư sãi, là con em
người bổn sóc. Gia đình nào có con trai từ 12 tuổi trở lên đều cho vào
chùa tu, có thể 3 tháng hoặc 3-4 năm hay trọn đời tuỳ ý, để học kinh,
học chữ, rèn luyện thành người có trí thức và đức hạnh.
Ngày xưa, nếu người con trai nào không qua giai đoạn tu trong chùa
thì bị xã hội và gia đình cho là bất hiếu và lớn lên rất khó lấy vợ. Bởi
vì người con gái Khmer đến tuổi lấy chồng, thường chọn những chàng trai
đã qua tu luyện trong chùa, đã hoàn tục. Theo họ, đó là người đã hoàn
thành nghĩa vụ và học được cách làm người, nhất là biết chữ nghĩa, được
mọi người trọng vọng.
Lễ đi tu thường được tổ chức vào ngày đầu tết Chôl Chnâm Thmây. Vào
ngày này, gia đình nào muốn đưa con vào chùa tu (vài tháng trước đó,
người con trai này phải vào chùa học thuộc vài bài kinh cơ bản) sẽ tổ
chức một lễ gọi là Bank-Bom-Buôn để người đi tu từ giã họ hàng, bạn bè
và được mọi người cầu chúc sức khoẻ. Khi vào lễ, anh ta cạo đầu, thay
quần bằng chiếc xà rông, thay áo bằng một khăn vải trắng đắp lên vai từ
trái sang phải gọi là Pênexo, chứng tỏ rằng anh ta từ bỏ thế tục. Lúc đó
người ta gọi anh là Nec (rồng).
Theo truyền thuyết từ kinh điển Phật giáo, ngày xưa có một con rồng
tu luyện thành người và xin được vào tu theo đức Phật. Một hôm, khi ngủ
trưa rồng hiện nguyên hình. Môn đệ khác của đức Phật phát hiện ra liền
báo ngay. Đức Phật trục xuất rồng khỏi hàng môn đệ, vì không phải người
thì không được tu. Rồng khóc van xin, nhưng không lay chuyển được lòng
đức Phật. Cuối cùng rồng xin đức Phật ban cho một ý nguyện là sau này,
những ai bước chân vào tu cũng phải gọi bằng tên tộc là Nec. Từ đó đến
nay, từ "nec" dùng để gọi nhà sư tương lai và cũng để nhớ đến truyền
thuyết trên.
Để vào lễ, buổi tối họ mời sư sãi đến tụng kinh, cúng tam bảo và thọ
giới theo Phật. Sáng hôm sau, khi cơm nước xong, họ đưa anh con trai lên
chùa, có bạn bè thân quyến mang lễ vật cùng đi theo. Đến chùa, họ đi
vòng quanh chánh điện ba vòng rồi mới vào trong làm lễ. ở đây có một nhà
sư ngồi gọi là Uppachhe giảng dạy, hỏi và đọc các điều của luật tu hành
cho các nec nghe. Sau đó nec mới cầm áo cà sa đi vào hàng giữa sư sãi
và đọc lời xin tu. Khi vị thượng toạ chấp thuận thì nec mới đi thay xà
rông và khăn trắng bằng áo cà sa. Tiếp theo là lễ thọ giới 10 điều của
Phật giáo: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm; 4.
Không nói láo; 5. Không uống rượu; 6. Không ăn ngoài bữa; 7. Không xem
múa hát; 8. Không dùng đồ trang sức; 9. Không chiếm ghế cao và giường
êm; 10. Không đụng đến vàng bạc.
Cuối cùng các nhà sư cùng Phật tử tụng kinh cầu phước cho người mới tu hành và chúng sinh để chấm dứt buổi lễ.
Ngày nay, tục đi tu vẫn còn phổ biến trong người Khmer ở miền Tây Nam
bộ. Bởi vì tu không phải để thành Phật mà để thành người, chuẩn bị cho
cuộc sống tốt đẹp ở ngày mai, là một cơ hội tốt để cho họ được học chữ
nghĩa, đạo lý và rèn luyện đức hạnh.
Đi tu đồng thời theo nếp nghĩ truyền thống cũng là một cách tích
phước cho cha mẹ, gia đình và chính bản thân. Tuy nhiên, ngày nay người
con trai Khmer vì theo học ở một trường nào đó hoặc có những gia đình
quá khó khăn, thiếu lao động thì không phải đi tu và luật tu hành cũng
không quá khắt khe như xưa nữa.
Thạch Sen