Tôi quen anh Hoàng Quang Thuận đến nay cũng gần 20 năm, đã từng cùng
nhau đi chùa dâng hương lễ Phật. Một sự trùng hợp thật ngẫu nhiên, 2
cặp vợ chồng chúng tôi đều cùng tuổi Quý Tị và Giáp Ngọ. Thời đó, 2 gia
đình thường gặp nhau. Đã lâu lắm, do bận công việc nên không gặp nhau
nữa. Nhưng tôi vẫn nhớ về anh, như 1 người bạn tâm tình.
Khi anh viết xong và đem in 63 bài thơ trong tập 'Thi vân Yên tử",
anh có nói chuyện với tôi về căn nguyên ra đời của các bài thơ ấy. Tôi
cũng tin như vậy, vì tôi là người tin vào tâm linh, 1 niềm tin tự nhiên
từ máu thịt của mình.
Từ niềm tin ấy, tôi vô tư quảng bá tập thơ "Thi vân Yên Tử" với sự ra
đời đặc biệt của nó với bạn bè. Nhưng hầu như, ai được tôi thông tin
cũng chỉ cười mà không nói gì.
Tình cờ, khi lên Yên Tử, vào quầy sách của Ban quản lý, thấy cuốn
"Chùa Yên Tử, Lịch sử - Truyền thuyết di tích và Danh thắng", của tác
giả Trần Trương, Trưởng Ban quản lý Yên Tử (1992-2003), tôi đã đọc ngấu
nghiến. Bởi sự thôi thúc của tâm linh, bởi sự tin tưởng, ngưỡng mộ vào
sự hiển linh của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Người Anh hùng dân
tộc- Đệ Nhất Tổ Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Đọc xong cuốn sách, tự nhiên tôi liên tưởng đến 63 bài thơ "Thiền"
của anh Hoàng Quang Thuận và thật ngẫu nhiên, tôi phát hiện ra trong
hầu hết các bài thơ anh Thuận viết, đều lấy từ nội dung cuốn sách này.
Thậm chí có nhiều bài thơ, câu thơ còn sao chép "nguyên xi" câu văn của
tác giả Trần Trương.
Tôi sững người và nghĩ tới điều anh Thuận nói về xuất xứ của 63 bài
thơ được anh viết trong 3 đêm với trạng thái như "nhập đồng", như có
"ai" đó, từ cõi cao xanh thúc giục anh phải viết. Tuy nhiên, vì là bạn
bè, nên tôi cũng không nỡ trao đổi với anh, e anh tự ái rồi giận.
Vả lại, tôi coi đó là 1 niềm vui riêng của anh, niềm vui có thể chia
sẻ trong phạm vi bạn bè, chẳng ảnh hưởng gì đến nhân tình thế thái. Thế
rồi, năm tháng trôi qua, do bận công việc, tôi cũng không còn để ý đến
điều đó nữa.
Mấy ngày gần đây, tôi được biết Tạp chí Nhà văn
(Hội Nhà văn Việt Nam) đã tổ chức Hội thảo "Hoàng Quang Thuận với non
thiêng Yên Tử" đã thu hút rất nhiều người quan tâm đến dự. Có nhiều ý
kiến xung quanh hiện tượng này với các lời khen, chê khác nhau.
Đặc biệt, tôi được biết anh Hoàng Quang Thuận đã khiêm tốn mà nói rằng : Anh không phải là tác giả của 2 tập thơ mà "đó là do tiền nhân mượn bút tôi để viết thơ". Tôi hiểu rằng, theo anh Thuận, tập thơ THI VÂN YÊN TỬ" gồm 63 bài đó không phải là của anh, mà là của "tiền nhân".
Tôi không dám khẳng định "tiền nhân" theo anh nói, có phải là Đức
Phật Hoàng Trần Nhân Tông không? Tôi còn biết người ta đã giúp anh nộp
hồ sơ những tập thơ "nhập đồng" của anh để tham gia dự Giải Nobel văn
chương nữa ! Điều này đã khiến tôi giật mình một lần nữa vì điều tôi
cho là bình thường đã vượt qua cái ngưỡng bình thường của nó mất rồi.
Tôi đã suy ngẫm mấy ngày nay để tìm cách xử sự thế nào cho hợp lẽ, hợp
tình. Trong tôi, có 2 điều ám ảnh: Một là, về đời thực, nếu im lặng thì
sẽ giữ được tình bạn với Hoàng Quang Thuận. Hai là, tôi sợ nếu sự thật
như tôi phân tích dưới đây, thì anh Hoàng Quang Thuận đã có 1 hành vi
mà tự thân anh ấy sẽ phải lãnh theo luật nhân - quả của Nhà Phật.
Tôi không dám khẳng định điều gì, nhưng nếu như sự thật là không có
một "tiền nhân" nào mượn bút anh để viết thơ như anh nói, mà chỉ do
anh biên soạn lại thành thơ từ nội dung cuốn sách "Chùa Yên Tử, Lịch
sử- Truyền thuyết di tích và Danh thắng", thì Nam-Mô-A-Di-Dà-Phật, anh
Thuận đã tạo một NGHIỆP rất nặng nề, cần phải hồi tâm mới mong có thể
chuyển được.
Cuốn sách của Trần Trương gồm có Lời nói đầu và 3 chương. Chương 1:
Đường về Cõi Phật. Chương 2: Bầu trời cảnh Bụt. Chương 3: Ông Vua hóa
Phật.
Toàn bộ cuốn sách gồm có 21 bài viết giới thiệu, miêu tả các sự kiện
lịch sử, những địa danh, cảnh vật, chùa chiền trong hệ thống Danh sơn
Yên Tử để giúp người hành hương tìm hiểu nơi mình đến dâng hương lễ
Phật.
Với tấm lòng thành, tôi quyết định viết bài này để hầu mong góp phần
làm sáng tỏ sự thật về tập thơ "nhập đồng" của anh. Nếu anh Thuận đọc
mà buồn hoặc giận dữ thì tôi thành tâm tạ lỗi.
Nhưng dù thế nào, tôi cũng mong anh đọc và suy nghĩ để cảm nhận được
động cơ, mục đích viết bài của tôi. Chỉ mong anh hiểu rằng, tôi viết
với cái tâm trong sáng, cái "tâm" của 1 người theo Đạo Phật, để giúp
anh.
Tôi dùng phương pháp so sánh để chứng minh suy nghĩ của tôi, rằng:
Những bài thơ của anh Hoàng Quang Thuận có xuất xứ từ cuốn sách nói
trên của tác giả Trần Trương, chứ không phải là thơ "nhập đồng".
Tôi chỉ chọn một số bài trong tập thơ để so sánh và xin dẫn chiếu đến
người đọc, nếu ai quan tâm thì tìm cuốn sách đó để so sánh các bài
khác cho đầy đủ.
|
GS.TS Hoàng Quang Thuận trao tặng cho Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử cuốn sách độc bản "Thi Vân Yên Tử". Ảnh: Tư liệu |
Cách so sánh của tôi là: Nêu những đoạn văn trong cuốn sách của tác
giả Trần Trương, sau đó là bài thơ của anh Hoàng Quang Thuận trong tập
"Thi vân Yên Tử" do Nhà xuất bản Hội Nhà văn, xuất bản tháng 3/1998 để
người đọc cùng suy ngẫm.
1. Trang 20-21 cuốn sách của Trần Trương(sau đây gọi tắt là cuốn sách) viết :
" Hồ Yên Trung nằm ở ngang lưng núi. Hồ rộng hàng ngàn mẫu, nằm
lọt giữa bốn bề núi biếc. Nước từ khe suối đổ về. Đôi gò bồng đảo bập
bềnh trên sóng nước giữa hồ. Bồng đảo phủ đầy thông...
Những đêm trăng sáng, lòng hồ đầy ánh trăng. Bốn bề im ắng, chỉ
nghe tiếng chim gù trên núi. Thực là một bức tranh sơn thủy hữu tình...
Hồ Yên Trung - Nàng công chúa ngủ quên nay đã thức... Tạo hóa khéo bày
tuyệt tác của thiên thiên. Được kết tụ bởi mây trời non nước thanh
hương sắc con người. Nàng vô tư không một chút ưu phiền".
Trong bài thơ "Hồ Yên Trung" (trang 15), anh Thuận viết: Yên Trung vắt vẻo ngang lưng núi/ Bốn bề mây biếc sóng lô xô/ Đôi bồng đảo bập bềnh trên sóng/ Cả rừng thông xao động mặt hồ.
Tạo hóa bày tuyệt tác thiên nhiên/ Kết tụ bởi mây trời non nước/ Nàng vô tư không chút ưu phiền/ Ngắm sao trời đầu gối Hoa Yên.
2.Trang 24, cuốn sách viết: Đến hẻm núi
kia có 3 tên cướp nhảy ra chặn đường, vua Trần khoan thai ra hiệu cho
Bảo Sái cho chúng vài lạng bạc, cả suất cơm chay để độ đường. Đoạn ngồi
trên mình ngựa, Ngài thuyết giáo, thức tỉnh từ tâm, đoạn trừ tam độc
trong lòng chúng... Cả 3 quỳ sụp xuống lạy tạ và hứa rằng "sẽ
trở về lương thiện làm ăn". Kể từ ngày đó, chúng bỏ nghề đao búa, chăm
chỉ nghề nông, siêng làm công đức xây dựng chùa miếu, trở thành các tín
đồ ngoan đạo của Trúc Lâm. Và từ độ ấy, nạn cướp nơi đây được tiệt
trừ. Con đường dốc gập ghềnh nơi hẻm núi, kẻ lại người qua được bình an.
Trong bài "Kẻ cướp chắn đường" (trang 19), anh Thuận viết: Ba tên kẻ cướp nhảy chắn đường/ Vua Trần cho bạc lẫn phần cơm/ Nhẹ nhàng thuyết giáo trừ tâm độc/ Cả 3 quỳ lạy hứa hoàn lương.
Bỏ nghề đao búa thiện giáo đường/ Sơn lâm từ ấy hết tai ương/ Gập gềnh hẻm núi người qua lại/ Bình an vô sự hết đạo cường.
3. Trang 34, cuốn sách viết: Phía bên kia cầu là
cổng tam quan, dáng vẻ cổ kính, đắp nổi đôi câu đổi viết theo chữ thảo
"Cổ tự lưu danh Linh Nhâm Tự"... Xung quanh chùa xum xuê cây trái. Quả
trứng gà sai chíu chít vàng ươm. Quả hồng đỏ thắm như hàng trăm chiếc
đèn lồng treo lơ lửng. Quả mận tím trĩu cành lúc lỉu...
Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Linh Nhâm là tên của một
vị Thiền sư đã được Tổ Trúc Lâm giao xây dựng ngôi chùa và nhiều năm
trụ trì ở chùa này. Tên của Thiền sư được đặt tên cho chùa....
Trong bài "Chùa Cầm Thực" (trang 26), anh Thuận viết: Tam quan đắp nổi Linh Nham Tự/ Thiền sư có phải đặt tên thầy/ Mận chín trĩu cành lúc lỉu quả
Trứng gà chiu chít cả trong mây/ Linh Nham đâu khác nơi tiên cảnh/ Hồng đỏ như trăm đèn lồng cầy...
4. Trang 40, cuốn sách viết: Thưở
xưa, cánh đồng Nam Mẫu nước ngập trắng. Từ dốc Quàng Hái, muốn vào Yên
Tử, phải đi bè mà vào. Hay tin Vua Trần vào Yên Tử, các cung tần mĩ nữ
của triều đình đã tìm về, gặp Vua ở tại con dốc này. Họ than khóc thảm
thiết, xin Vua quay trở lại triều đình...
Vua cho lập đàn tràng cầu Phật Tổ Như Lai. Vài ngày sau, nước ở
hồ Nam Mẫu rút hết. Lòng hồ phơi ra, khá bằng phẳng. Đất nơi đáy hồ
thật màu mỡ. Dân bản ùa ra bắt tôm, cá, khai khẩn bãi hoang, thành
ruộng vườn. Cánh đồng Nam Mẫu được khai sinh.
Trong bài "Làng Cung Nữ" (trang 28), anh Thuận viết: Làng Mụ,
Làng Nương đường Nam Mẫu/ Xưa kia nước ngập trắng lòng hồ/ Vua Trần
thương xót đoàn cung nữ/ Lòng trung không trở lại kinh đô
Vua lập đàn cầu Phật Như Lai/ Nước hồ rút hết ruộng đất dài/ Đáy hồ mầu mỡ, tôm cùng cá/ Làng Mụ, làng Nương được sinh khai.
5. Trang 53, cuốn sáchviết: Cá tôm say nước nhảy lia
thia. Trăm hoa khoe sắc bên bờ suối... Mới hay chín suối chỉ chung một
dòng... Con suối cắt chia tuyến đường Hạ Kiệu - Nam Mẫu thành chín
đoạn".
Bài "Chín suối chung một dòng" (trang 36), anh Thuận viết: Trăm hoa khoe sắc bên bờ suối/ Cá tôm say nước nhảy lia thia/ Mới hay chín suối chung dòng một/ Đường đi Nam Mẫu suối cắt lìa.
6. Trang 98, cuốn sáchviết: Trong
ngách hang, có một núm đá, nước nhỏ tí tách từng giọt một, cả đêm chưa
đầy một bát con. Nhà sư gọi đó là sữa mẹ. Một điều kì lạ: Khi bát nước
đầy, từ núm không nhỏ thêm giọt nào nữa. Nền chùa sạch khô không giọt
nước thừa tràn.
Trong bài "Sữa mẹ" (trang 52), anh Thuận viết: Ngách hang núi đá núm vú con/ Sữa mẹ linh thiêng nhỏ giọt tràn/ Nhỏ dần từng giọt đêm đầy bát/ Nước đầy chỉ một bát con con.
7. Trang 103, cuốn sách viết:
Bóng Tùng thấp thoáng bên ô cửa. ngày nay, các "ông" Rồng xanh thi
thoảng lại xuất hiện... Những lúc trở trời, các "ông" bò ra nằm la
liệt... Một con rắn lớn từ xà ngang buông mình xuống ban thờ, náu mình
vào Tượng Phật nhìn ra".
Trong bài "Rắn xanh Yên Tử" (trang 31), anh Thuận viết: Bóng Tùng
thấp thoáng bên ô cửa/ Rồng xanh thi thoảng nghỉ trên bàn/ Mấy ông rắn
lớn nằm trên mái/ Náu mình tượng Phật ngắm giang san.
....
Do sự "sao chép" quá nhiều chỗ, tôi chỉ xin trích dẫn để so
sánh một số bài như trên. Còn nhiều bài thơ khác cũng có nội dung
tương tự với các bài trong cuốn sách của Trần Trương.
Trong số 63 bài, tôi kiểm lại thì thấy có một số bài không có liên
quan gì tới cuốn sách. Cụ thể là các bài: Xúc cảm non thiêng; Cô chú
thăm Yên Tử; Vân du Yên Tử; Nghỉ lại chùa Yên; Kim xà; Ân hận; Tặng sư
thầy, là do anh Thuận cảm tác mà viết ra.
Từ những so sánh trên, liệu có thể suy luận rằng: Tập thơ "Thi Vân
Yên Tử" của anh Hoàng Quang Thuận không phải là thơ "nhập đồng", cũng
không phải là "thơ Thiền" mà có xuất xứ từ cuốn sách của tác giả Trần
Trương.
Vì những bài thơ ấy thuần túy chỉ là tả cảnh vật qua con mắt của
người phàm trần. Nếu thơ "nhập đồng" sẽ có giọng thơ khác, thâm linh,
huyền bí và mang hồn cách của "người nhập". Những so sánh trên đã cho
thấy, từ những bài viết trong cuốn sách của Trần Trương, anh Thuận đã
có cảm xúc và dùng năng khiếu thơ của mình viết lại thành các bài thơ.
Có thể trong 3 đêm, nguồn cảm xúc từ cảnh vật thật, từ tấm lòng thành
kính đối với Tam tổ Trúc Lâm và Danh sơn Yên Tử, lại được thông tin
từ cuốn sách của Trần Trương, anh đã thành tâm viết nên 63 bài thơ ấy,
để ghi lại cảm xúc của mình.
Tôi chắc khi đó, anh chưa hề nghĩ đến việc quảng bá cho những bài
thơ này theo hướng "nhập đồng" hoặc "thơ thiền". Có lẽ, những tán dương
sau này của nhiều người thái quá, đã khiến anh say sưa với ý tưởng ấy,
và thổi vào đó yếu tố tâm linh, huyền bí, càng về sau càng... mãnh
liệt, như chúng ta đã thấy diễn biến của "Thi Vân Yên Tử" từ đó đến
nay.
Để kết thúc, tôi xin xác quyết một điều rằng: Tôi viết bài
này chỉ với cái tâm trong sáng của một Phật tử có pháp danh là Thiện
Hòa, hầu mong anh Thuận sẽ đọc và suy ngẫm về những điều đã làm, để
trả về cho "Thi Vân Yên Tử" đúng giá trị của nó. Đó là điều tôi quan
niệm rằng, đã giúp anh, vì tôi vẫn là người bạn của anh!
Luật sư Nguyễn Minh Tâm - Trannhuong.com