Từ thời xa xưa, người Việt cổ đã bắt đầu
quan tâm đến cái chết. Có nhiều trường hợp chôn người chết ngay trong hang
động, chỗ ở, chỗ ăn ngủ của mình (như trong nền văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn,
trong một số hang động ở phía Bắc), và họ cũng biết giữ lại linh hồn theo kiểu
ma thuật đa thần giáo ngày xưa, mà nay một số đồng bào Mường ở phía Bắc còn
làm. Đó cũng là thời kỳ mà chưa phân định được các loại hình mộ táng ở Việt Nam, vì chưa
thể hiện những khuynh hướng tôn giáo rõ rệt. Mãi tới thời kỳ Lý - Trần, thì
chúng tôi thấy xuất hiện lại loại văn hóa mộ táng theo khuynh hướng tâm linh -
tôn giáo rõ ràng.
*
Khuynh hướng thứ nhất là loại hình văn hóa mộ táng theo Nho giáo.
Nho giáo không phải là tôn giáo, nên mộ
táng có sự tùy tiện hơn, để mồ mả theo ý niệm của phong thủy nhiều hơn, coi
trọng cung mạng người chết, để mồ mả phải đúng hướng, tránh ngày hung tháng dữ
v.v... (khuynh hướng này chúng tôi không trình bày nhiều, chờ dịp khác).
* Khuynh hướng thứ hai là loại hình văn hóa
mộ táng của Phật giáo.
Loại này tuy ít nhưng lại quy mô, kỳ vĩ
"hướng thiên, không hướng địa", như các mộ tháp để Xá Lợi của các Sư
tượng trưng cho linh hồn và xác thịt về với cõi Phật.
Loại
hình thứ hai, của Phật giáo là "thổ mộ" chôn xuống đất, biểu trưng ý
nghĩa phần hồn đã về với cõi Phật nhưng phần xác còn ở lại trần gian.
Loại này chiếm đa số, kể cả các Tăng Ni đến
công hầu quí tộc vua chúa, và hình thức rất gần gũi với Nho giáo. Do vậy, chúng
ta rất khó phân định những ngôi mộ cổ loại này của Phật giáo hay Nho giáo, kể
cả về vấn đề kiến trúc và nghệ thuật.
Dưới đây là những trường hợp cụ thể ở loại
hình văn bia mộ táng, vừa Nho giáo và Phật giáo đan xen nhau tạo nên một sắc
thái văn hóa mộ táng Việt Nam phong phú về nhiều mặt tâm linh lẫn vật chất cùng
với nền kỹ nghệ ướp xác cổ Việt Nam và đang được khắp thế giới quan tâm.
Văn hóa mộ táng kiểu Nho giáo hoặc Phật
giáo, thực ra là một khối văn hóa được tập trung cao và chứa đựng các ý niệm
tâm linh và vật chất. Vậy nên danh từ của mộ là kho, một tập hợp nhiều báu vật
về nhiều mặt mà nền văn hóa 4.000 năm của Việt Nam đã tiềm tàng và chứa đựng. Loại
kho báu đầy bí ẩn này đã bắt đầu được nghiên cứu, khám phá; và cá nhân tôi cũng
tự tin là đã "thám hiểm đầu tiên" về lĩnh vực này.
Năm 1963 - 1965, vô tình ở huyện Hoàng Hóa,
Thanh Hóa, các nhà khảo cổ đã khai quật được một xác ướp của vua Lê Dụ Tông
thời Lê-Trịnh. Xác còn nguyên như nhà vua còn đang an tịch ở giấc nồng. Nhà vua
đầu cạo trọc, đầu đội mũ tu ni thay vì là một vương niệm, mình mặc một áo cà sa
màu nâu, thay vì mặc hoàng bào. Tài sản của nhà vua mang theo không có gì ngoài
cây quạt lông, đôi hài thường và cây bút, cái nghiên! Sự chân tu đã làm cho nhà
vua hoàn toàn thoát tục; không mang theo hầu như một thứ gì của một thời về
cung vàng bệ ngọc.
Một ví dụ thứ hai: ở huyện Đông Anh ngoại
thành Hà Nội, vô tình nhà máy sấy thuốc lá ở đây đào được hai cái xác của hai
vũ nữ thời Lê. Tôi và ông Phạm Như Hồ đã được phái đến nghiên cứu hai cái xác
này, thì điều lạ lùng là theo bia ký là hai vũ nữ nhà Lê, nhưng lại đầu cạo
trọc, thân mình ăn mặc kiểu nâu sồng (quần áo còn nguyên), và cả thi thể như
được gói trong một bọc gấm hoa. Sau khi giải phẫu, ông Phạm Như Hồ còn lấy ra
trong cái bọc đó một quả tim, bằng nắm tay, rắn chắc. Ông Phạm Như Hồ có đem
quả tim ấy rửa trong dòng nước của sông Cà Lồ, song nó vẫn trơn láng và rắn rỏi
thêm.
Tìm hiểu câu chuyện, chúng tôi được biết
hai vũ nữ này có tiếng hát rất hay mà nhà vua hâm mộ, nhưng hai nàng lại thiếu
một vẻ mặt mỹ nhân, nên nhà vua hất hủi, sau đó đi tu và khi chết còn để lại
một quả tim mà chúng tôi ghi nhận được.
Ví dụ thứ ba là xác ướp của bà Phạm Thị
Nguyên Chân, vợ Thượng thư Trụ quốc Đặng Đình Tướng thời Lê-Trịnh, phát hiện
được ở Phủ Dãy tỉnh Hà Nam
vào năm 1968!
Xác bà do bom Mỹ năm Mậu Thân làm bật lên.
Tóc bà được cạo và gói thành một gói để bên gối. Xác bà được quấn vào nhiều lớp
vải vóc nhung lụa bên ngoài, và hình như là bà không quan tâm gì đến những thứ
đó, bởi lẽ một lá minh tinh phủ trên ngực bà có ghi rõ "Phạm Thị Nguyên
Chân Phật diệu phù tri". Ngoài ra không có gì nữa, bà như giấu hết tên
tuổi và đời riêng của một "phu nhân ở loại khai quốc đại công thần".
Sở dĩ chúng tôi biết được điều này là khoảng sau đó 6 năm, chúng tôi mới tìm
thấy lăng mộ của chồng bà và bia ký có ghi rõ "Bà là Phạm Thị Nguyên Chân
tên thực là Phạm Thị Hoa", vì theo đạo Phật chân tu nên mới lấy tên là
Nguyên Chân thoát tục từ đó. Bà là chánh thất phu nhân của tướng quân Đặng Đình
Tướng - Trấn sơn Nam
Đại tướng quân - Phụ quốc Công thần. Ấy vậy, mà qua khai quật chỉ thấy bà là
một Phật tử chân tu, bà không muốn mang theo vàng ngọc châu báu của thân thể,
kể cả tên tuổi của bà ở nơi di mộ.
Thêm một dẫn chứng cuối cùng là vào cuối
năm 1994-1995, tại xóm Củi - Q.5 của TPHCM, chúng tôi khai quật lăng mộ bà
Nguyễn Thị Hiệu (cũng có thể là Trần Thị Hiệu vì chữ Trần hay chữ Nguyễn bị
nhòe không rõ).
Bà được chôn cất cẩn thận theo nghi thức
của hoàng gia, thi thể bà còn nguyên viện, thậm chí là còn rất đẹp, cơ bắp còn
co duỗi được. Các nhà y học đã tiếp vào cơ thể bà nhiều lít nước thuốc vẫn dẫn
hết dưới da thịt như chúng ta tiếp nước ở bệnh viện vậy.
Bà mang theo nhiều đồ trang
sức và dưới chân có hai đôi giày thêu bằng vàng. Đáng nói là trong lớp áo cuối
cùng, ngay ở ngực, chúng tôi tìm thấy được một bài chú vãng sanh và một bản quy
y với Phật hiệu là Trần Thị Hiệu pháp danh là Minh Trường (chúng tôi sẽ công bố
riêng 2 bản bút văn này với bản báo ở dịp khác).
Và như vậy bà Hiệu cũng là một Phật tử được
chôn cất theo hình thức thổ táng; còn những hiện vật gì quý chôn theo bà ở đây
là do người thân thương bà chôn theo, đương nhiên là ngoài ý muốn của bà. Hiện
nay xác bà được lưu giữ ở Bảo tàng Lịch sử TPHCM.
Nhìn chung, các xác ướp trong các di mộ nói
trên đều có liên quan với sự tu hành ngày xưa, đều là xác còn nguyên, đều là
những người chân tu theo Phật. Có phải kỹ thuật ướp xác của tiền nhân xưa đã
được cộng thêm vào đó một "siêu lực" nào đó của thế giới tâm linh nhà
Phật nên các xác đó tồn tại tốt đẹp như vậy?
*
Loại hình cuối cùng là mộ tháp:
Mộ tháp rất dễ phân biệt với mộ địa, vì mộ
địa còn lẫn lộn với ý niệm chôn cất của Nho giáo. Mộ tháp thường dành cho các
bậc chân tu trưởng thượng trong Phật giáo.
Như trên chúng tôi đã nói, khi một vì Hòa
thượng nào đó qua đời thí thi thể được hỏa thiêu, tro than còn lại được gọi lá
những xá lỵ (hay xá lợi). Nhưng điều đáng lưu ý ở đây là mộ tháp. Mộ tháp của
tu sĩ nhà Phật là một thế giới dành riêng cho mối liên hệ tâm linh giữa trần
gian và cõi Phật. Còn ngọn tháp chỉ có một ngọn duy nhất hướng thẳng về trời
(đấy là Tây Trúc, đất Phật) và cũng chỉ có một ngọn đó thôi. Triết lý uyên thâm
này đến nay chúng ta chưa hiểu được bao nhiêu...
Nhìn chung, văn hóa mộ táng cổ Phật giáo đã
góp phần khá độc đáo vào nền văn hóa kiến trúc dân tộc còn tàng ẩn nhiều vấn đề
tâm linh triết học khác, ý niệm nhân văn của con người Việt Nam thuở xa xưa
rất đáng trân trọng.
Chúng tôi nghĩ rằng giới Phật tử cùng chúng
tôi nên quan tâm nghiên cứu và bảo vệ các di mộ cổ có giá trị về mặt văn hóa ở
nhiều mặt. Đó cũng là góp phần vào việc phát huy văn hóa của dân tộc./.