Nền Phật dò lần kiếp tẩy
sang
Phủi tay rửa sạch nợ trần gian
Tránh đàng danh lợi tìm nơi tịnh
Niệm chữ từ bi tránh cửa quan
Chuỗi hột tay lần khuya với sớm
Kệ Kinh tụng niệm vái rồi van
Một lòng thành kính lòng mình nguyện
Tịnh độ từ đây rất ở an.
Tỳ kheo Thích Quảng Đức
Kính đề
Văn xuôi của Bồ tát viết bằng chữ Nôm:
"Sau
khi sơn sửa lại chùa, và tổ chức hai buổi lễ chính, Ngài đã vận động quyên góp
được một số tài chánh tương đối. Từ trước đến năm 1962 chùa chỉ thờ Bồ Tát Quán
Thế Âm, do vậy khi làm trụ trì, Ngài đã vận động bà Phan Cẩm Lợi cúng một tượng
Phật Thích Ca Mâu Ni để thờ ở chánh điện. Trong dịp lễ an vị Phật vào ngày vía
đức Phật Thích Ca thành đạo năm 1962, trong lời chào đón quan khách Ngài đã
viết trong bản văn Nôm:
Chúng tôi thấy chùa Quán Thế Âm này vì còn thiếu một tượng đức
giáo chủ Thích Ca để cho tín đồ chiêm ngưỡng lễ bái công phu tịnh độ, để cầu
nguyện cho quốc thái dân an, thập phương bá tánh, nam nữ Phật tử tăng long
phước thọ, phát bồ đề tâm tăng trưởng. Cho nên, chúng tôi nhờ lòng hảo tâm
những người lúc trước đã lập ngôi chùa này. Sau đó nhờ lòng đạo tâm của hai ông
bà Lý Văn Lang có lòng xây dựng quỹ ngôi chùa. Nay có nhân duyên bà Phan Cẩm
Lợi cúng một vị tượng Thích Ca Mâu Ni Phật để tôn thờ sùng bái tu học giáo pháp
của Ngài cải tâm niệm của chúng sinh .. . Nhờ sự hảo tâm của chư thiện tín cho
nên chúng [giúp]tôi Phật sự được viên thành.
Ngày nay sự hiện diện đông đủ của quý Ngài từ trong đạo cho đến ngòai đời, điều
đó đã chứng minh sự khích lệ và ưu ái của quý vị đối với chúng tôi trên con
đường phụng sự chánh pháp.
Cũng trong dịp lễ vía Phật thành đạo tại chùa Quan Thế Âm vào cuối năm 1962,
Ngài đã có những nhận định thời cuộc lúc đó "hoàn cảnh khó khăn, nhân
tâm tao loạn," và "Chúng ta hãy noi gương cao cả của đức Từ
Phụ trọn đời hy sinh cho mọi loài." Tinh thần Bồ Tát của Ngài cũng đã
được biểu lộ rất rõ ràng qua bài giảng ngày hôm đó:
Vậy chúng ta là Phật tử, chúng ta không nên nghĩ chỉ làm lễ kỷ
niệm Ngài qua một hình thức thông thường cho có, mà cần phải nhận thức đời sống
có đức Phật tinh thần, tu học theo chánh pháp. Cố gắng cởi mở bớt các nghiệp
chướng phiền não, diệt trừ tam độc tham sân si, sống lợi quần sinh, sống từ bi
hỷ xả, mong có hy vọng đạt thành quả vị giác ngộ, đem lại không khí an bình với
tình thương chân thật cho mọi loài. Chỉ có thực hành như thế mới khả dĩ gọi là
kỷ niệm đức Phật mà thôi.
Tinh thần và bổn nguyện Bồ tát của Ngài được biểu lộ qua các câu nói "trọn
đời hy sinh", "sống lợi quần sinh, sống từ bi hỷ
xả mong có hy vọng đạt thành quả vị giác ngộ, đem lại không khí an bình
với tình thương chân thật cho mọi loài." Tinh thần này đã được Ngài
đem ra áp dụng trong cuộc đời hành đạo, và nhất là việc tự thiêu thân mình gần
nửa năm sau [5]
Văn chữ Hán của Bồ tát:
Chúng ta tìm hiểu
thêm lối hành văn chữ Hán và chí nguyện xuất trần vì chúng sinh đau khổ của Bồ
tát qua hai câu đối: "Ngài viết ở chùa Long Phước, xã Ninh Quang,
Khánh Hòa, một năm trước ngày Ngài tự thiêu. Ngài nguyện xả bỏ cái thân mộng
huyễn này là vì báo đáp ơn đức của Phật và vì muốn cứu giúp nhiều người ra khỏi
hoạn nạn. Bời vì có xả bỏ thân hình giả tạm này một cách uy hùng và không thể
nghĩ bàn được thì mới cứu giúp cho Phật Pháp được mãi mãi trường tồn. Và nếu
làm như thế sẽ để lại tiếng thơm cho đời sau, không phải chỉ nơi này mà còn
vang vọng khắp nơi.
佛恩以報誓捨幻身還渡恒娑衆
法藏長存誓成正覺流芳塵刹土
不思議!
Phiên
âm:
Phật ân dĩ báo thệ xả ảo thân hoàn độ hằng sa chúng.
Pháp tạng trường tồn thệ thành chánh giác lưu phương trần sát độ.
Bất tư nghì!
Dich
nghĩa:
Vì báo ơn đức Phật nguyện bỏ huyễn thân để độ hết thảy chúng sanh,
Vì chánh pháp trường tồn nguyện thành chánh giác để lưu tiếng thơm cho đời.
Không thể nghĩ bàn!"[6]
Người đương thời
thương mến Bồ tát:
Sau nhiều tuần thiền định và tụng kinh Pháp Hoa để nuôi dưỡng
tâm bồ đề, sáng ngày 11.6.1963 giữa ngã tư đường Phan Đình Phùng - Lê Văn
Duyệt, Sài Gòn , giữa vòng vây yêu thương của Tăng Ny Phật tử Bồ tát ung dung
tẩm xăng quẹt lửa, ngọn lửa bốc lên"Bùng cháy! Ngọn lửa ngất trời! Không
thể nào tả xiết nỗi bàng hoàng của tất cả Tăng Ni và những người đứng xung
quanh! Lệ rơi! Tiếng khóc vang lên! Sau 30 phút, thi hài của Hòa
thượng Thích Quảng Đức được rước về chùa Xá Lợi trên một lá cờ Phật giáo. Tới cổng chùa ông Mai Thọ Truyền nằm lăn
trên đất dưới thi hài của Hòa thượng từ cổng tới cửa nhà giảng. Rồi những
làn sóng người bốn phương tràn tới chùa Xá Lợi để kính viếng một Bồ tát đã
thiêu thân. Đài phát thanh trong nước và khắp thế giới đều kính cẩn đưa tin tự
thiêu này"[7] .
Từ Huế Sư Bà
Diệu Không nghe tin Bồ tát tự thiêu đã khóc thương:
Bài thơ như sau:
“Thầy ơi! Con biết tính sau đây
Lễ kính lòng đau trước thánh thây
Lửa dậy lưng trời, thân chẳng động
Dầu loang khắp đất, ý không lay
Tiêu diêu cõi Tịnh, Thầy theo Phật
Lận đận trần lao con nhớ Thầy
Phật tử Việt Nam còn nhớ mãi
Nét son lịch sử vẫn không phai
”[8]
(Nhiếp ảnh gia Nguyễn văn Thông, người chụp ảnh Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu năm 1963)
- "
Ông
Nguyễn Văn Thông, mật vụ theo dõi hoạt động đấu tranh của Phật giáo và chứng
kiến từ đầu đến cuối vụ tự thiêu, cũng công khai bác bỏ sự xuyên tạc Bồ tát
Thích Quảng Đức bị chích thuốc mê.
Gần nửa thế kỷ trôi
qua, ông vẫn xúc động khi nhớ lại: “Chúng tôi đã theo sát vụ tự thiêu này ngay
từ đầu ở chùa Xá Lợi. Chính mắt tôi và các cảnh sát khác đều thấy ngài Thích
Quảng Đức khoan thai bước xuống xe, quay mặt xá tứ phương, rồi ngồi kiết già
trước khi chính tay mình châm lửa tự thiêu. Những hành động bình thản của một
nhà tu hành thượng đẳng như vậy không thể là người bị thuốc mê. Còn các nhà sư
khác chỉ đứng vòng quanh tụng kinh cho ngài và ngăn chặn cảnh sát. Không có bàn
tay nào tác động, xâm phạm đến hành động tự thiêu của ngài”[9]
Cư sĩ Tống Hồ Cầm"Trong
lúc này, ở tuổi 95, tôi đang ngồi tưởng nhớ lại đại nguyện thiêng liêng vì sự
trường tồn của Phật giáo 50 năm trước, tưởng nhớ một con người vĩ đại, tưởng nhớ
một vị Bồ-tát với bao cảm xúc dâng trào… Sự kiện vị pháp thiêu thân của Bồ-tát
Thích Quảng Đức là dấu ấn lịch sử ghi đậm trong lòng của biết bao thế hệ Tăng
Ni, Phật tử Việt Nam.Với một cư sĩ như tôi, đời sống phạm hạnh trong sáng, thuần
tịnh và ngọn lửa mang tinh thần Đại từ, Đại bi 50 năm trước của bậc xuất trần
thượng sĩ là những bài học vô giá, tạo dựng niềm tin bất diệt về Chánh pháp ở
cõi nhân gian này"[10]
. Thế hệ sau thương mến Bồ tát: Ngoài chư
tôn đức lãnh đạo GHPGVN (trong và ngoài
nước), cộng đồng Tăng Ny, Phật tử kính yêu thương mến, còn có các cá nhân tưởng
niệm Bồ tát hết lòng, tiêu biểu như:
- Hòa thượng
Thích Thiện Dương: "Và hôm nay, tại tổ đình Linh Sơn thôn Hiền Lương
xã Vạn Đức huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa, nơi Bồ Tát trụ trì trong tám năm
(1940-1948) một ngôi nhà làm toàn bằng gỗ để kỷ niệm Bồ Tát Quảng Đức được hoàn
thành. Tổ đình Linh Sơn trước đây chỉ là một vùng đất hoang vắng, rừng tiếp với
biển. Vào thời vua Lê Hiển Tông thuộc thế kỷ 18 có vị Hòa Thượng Đại Bửu mang pháp hiệu Kim Cang Đại Lão Tổ Sư đến ngồi
tu thiền dưới gốc một cây kén cổ thụ lối đầu thôn. Thấy nơi đây phong cảnh u
nhã, đại sư quyết định ở lại đại đạo hoằng hóa nên ra công xây dựng một ngôi phạm
vũ, hoàn tất vào năm Cảnh Hưng thứ 22 (1761) đặt tên chùa là Sa Long Tự. Năm Tự
Đức Thứ 21 (1867) chùa bị cháy và được xây cất lại. Sau khi trùng tu, chùa đổi
tên là Linh Sơn Tự.
Bồ Tát Quảng Đức là vị Tổ sư thứ 6.
Hiện nay các công trình xây dựng chùa của Bồ tát vẫn
còn: Các cột ba biểu, ngôi cổng tam quan, miếu cô hồn và ngôi nhà tu niệm (ngôi nhà này mới đây đã bị sụp đổ vì mục nát)
được thay thế bằng một ngôi nhà gỗ.
Ngôi nhà gỗ gồm toàn danh mộc. Trong 70 cây cột có đến
64 cây cột bằng gỗ mít rừng (một danh mộc có tên trong nhóm gỗ quí). Mỗi cây to
có đến một người ôm cao đến 5 thước. Các cây xiềng, đính, kèo, đòn tay rui mè đều
là danh mộc như trắc, soan, ché v.v.. và nhất là có một số gỗ huỳnh đàn. Hòa
thượng trụ trì Thích Thiện Dương, đệ tử đời thứ 8 đã đích thân vào rừng, vùng
núi Vạn Ninh, là một vùng núi nổi tiếng về trầm hương của tỉnh Khánh Hòa, cùng
với các thợ rừng có tên tuổi đi tìm và đem về trong suốt 14 năm ròng rã. Sự
chuyển vận vừa bằng sức người, sức trâu. Sân sau chùa, gần bên cây kén cổ thụ,
gian trại mộc được thành lập, qui tụ các thợ mộc nổi danh về ngày đêm xẻ gỗ. đục
bào. Công việc xây dựng mãi đến 4 năm mới hoàn thành"[11].
- Giáo sư Lê Mạnh Thát: Là nhà nghiên cứu, sử gia Phật
giáo có uy tín, có nhiều công trình về sử, văn học Phật giáo giá trị đã tìm hiểu
nghiên cứu về Bồ tát Quảng Đức, và đã cho xuất bản tập sách "Bồ tát Quảng
Đức ngọn lửa và trái tim" (nhà xuất
bản tổng hợp TP.HCM năm 2005).
- Đại đức Thích Như Hoằng: Trụ trì chùa sắc tứ Thiên
Tứ, làng Mỹ Trạch, phường Ninh Hà, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Chùa sắc tứ
Thiên Tứ Bồ tát Quảng Đức trụ trì khoảng 23 năm (Bồ tát chính thức ởchùa
Thiên Tứ, nhưng đi hoằng hóa trùng tu xây dựng chùa khắp nơi, thỉnh thoảng về
chùa Thiên Tứ một thời gian rồi lại ra đi) Đại đức Như Hoằng là người vô cùng kính yêu Bồ tát cũng đã để nhiều thời
gian công sức, sưu tầm tư liệu liên quan Bồ tát và có viết một tác phẩm: "Những giai thoại về Bồ tát Thích Quảng
Đức"Nhà xuất bản thông tấn xã Việt Nam, xuất bản năm 2008" Đại đức
đã tìm tư liệu về Bồ tát suốt 23 năm. Những tư liệu về Bồ tát Quảng Đức Giáo Sư
Lê Mạnh Thát và Giáo sư Nguyễn Tri Ân có được cũng từ nơi Đại Đức Như Hoằng
cung cấp.
-
Giáo Sư Nguyễn Tri Ân:( Người Mỹ gốc Việt) là giáo sư Đại học Bates
(Bates Colleghe) đã nhiều lần về Việt Nam (kể từ năm 1991) để nghiên cứu về văn
hoá, mỹ thuật Phật giáo. Ông tâm sự: “Mình không phải là nhà khoa học - công
chức bàn giấy nên phải đi, đi thực tế để nghiên cứu, tìm hiểu”.
Mới đây, ông có một chuyến về Việt Nam 3 tuần,
tham dự Phật đản ở Huế, rồi đi đến tham cứu ở các chùa ở TP.HCM, Cai Lậy (Tiền
Giang), Khánh Hoà để tìm thêm những “dấu tích” của Bồ tát Thích Quảng Đức.
Nghiên cứu về Bồ tát Thích Quảng Đức chính là 1/57 đề tài nghiên cứu được Hội
đồng Hiệp hội Học thuật Hoa Kỳ - American Council of Learned Societies) chọn
tài trợ nghiên cứu từ 1136 người nộp đề tài.[12]
Những lời phát biểu đồng tình còn đọng lại với lịch
sử:
Lúc nhìn hình HT. Quảng Đức tự thiêu, Tổng
thống Mỹ, John Kennedy, nhận định,“trong lịch sử, chưa có một bức hình nào
trên báo đã tạo được nhiều xúc động cùng khắp cả thế giới như bức hình này”...
New York Times (Nữu Ước Thời Báo): Số ra ngày 8-8-1963 viết:
“... Chính phủ Hoa Kỳ đã tìm đủ mọi cách để
buộc ông Diệm phải giải quyết vấn đề Phật giáo. Nhưng người ta hết sức kinh
ngạc khi nghe bà Ngô Đình Nhu, em dâu của Tổng thống Diệm, vu khống các lãnh tụ
Phật giáo là phiến loạn, sát nhân, và áp dụng chiến dịch Cộng sản. Có tin cho
biết, chồng bà Nhu, em của Tổng thống Diệm, có thể cầm đầu một cuộc đảo chánh
đã làm cho Hoa Kỳ lo ngại. Có nhiều người cho rằng những tin đồn về cuộc đảo
chánh như vậy là một phần trong chiến tranh tâm lý chống Phật giáo, và cũng là
một sự hăm dọa đối với Hoa Kỳ”.
Hình tự thiêu của HT. Quảng Đức cũng là một ấn
tượng ảnh hưởng đến Tòa Bạch Ốc. Tôi (Browne) được biết rằng lúc ông Henry
Cabot Lodge đến gặp cố Tổng thống Kennedy về việc được bổ nhiệm chức đại sứ tại
Việt Nam, Kennedy cũng đã có một bức hình tự thiêu của HT. Quảng Đức trên bàn
giấy. Cái chết của ngài Quảng Đức có lẽ là một trong những yếu tố chính cuối
cùng Bộ Ngoại giao và Tòa Bạch Ốc chống ông Diệm, và thay đổi một vài chính
sách lớn ảnh hưởng đến lịch sử Việt Nam”.
Miến Điện: Sau
ngày các chùa tại Việt Nam bị bố ráp, Chính phủ Miến Điện càng công phẫn hơn.
Báo “Guandiantai” tại Rangoon, thủ đô Miến Điện, cực lực lên án chính
sách bạo ngược của chính phủ Ngô Đình Diệm. Báo viết:
“Mỹ sẽ lầm khi nghĩ rằng tiếp tục ủng hộ một chính phủ
đang ngự trị trên thân xác đau thương của những Phật tử Việt Nam mà có thể giữ
được nguyên vẹn tình cảm ngoại giao với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á”.
Thái Lan: Ngày
22-8-63, Thống chế Sarit Thanarat, Thủ tướng Thái Lan, đề nghị triệu tập một
hội nghị sơ bộ gồm các nước Phật giáo trước lúc đưa vấn đề Phật giáo Việt Nam
ra Liên Hiệp Quốc. Bốn ngày sau đó Đại tá Mutukhan, Phó Giám đốc Nha Tôn giáo
thuộc Bộ Giáo dục, đã khuyến cáo Chính phủ Việt Nam bằng những lời gay gắt và
như một tiên tri:
“Vì đã đàn áp Phật tử Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình
Diệm sẽ hứng chịu hết những tai họa dưới đủ mọi hình thức, hiểu theo giáo lý
nhà Phật, kể cả diệt vong và đọa địa ngục...”.
Liên Hiệp Quốc: Những hình ảnh Phật tử Việt Nam bị đàn áp, bắt
bớ, tù đày, vu khống bởi chính quyền Ngô Đình Diệm được đăng tải trên trang nhất
của hầu hết các báo khắp thế giới, tổ chức Liên Hiệp Quốc đã không thể làm ngơ,
ngày 24-9-1963, một phái đoàn đặc biệt được gửi đến Việt Nam để điều tra vụ Phật
giáo. Mặc dầu chính quyền Ngô Đình Diệm không cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc tự
do đến những nơi cần thiết để điều tra, nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đã thu
thập đủ bằng chứng để kết luận rằng ‘Phật tử Việt Nam bị chính quyền Ngô
Đình Diệm kỳ thị, khủng bố, tra tấn, tù đày, giết hại và cải đạo trong nhiều
năm qua’.
“Tự
tử là một hành động tự hủy do những nguyên nhân sau đây: (1) Thiếu ý chí để
sống và gặp những khó khăn; (2) Thất bại trong cuộc sống và tuyệt vọng; (3)
Không muốn sống... Vị tu sĩ tự thiêu (Thích Quảng Đức) không mất nghị lực,
không thiếu hy vọng; cũng như không phải không muốn sống. Trái lại, ngài có đầy
nghị lực, tràn hy vọng và mong ước một cái gì tốt cho tương lai. Ngài không có
ý nghĩ tự hủy; nhưng tin vào những hoa trái tốt từ sự tự hy hiến đời mình cho
kẻ khác... Tôi tin chắc rằng tất cả các vị sư tự thiêu không muốn những người
cai trị chết, nhưng chỉ nhằm thay đổi chính sách của họ. Kẻ thù của chúng ta
không phải là con người. Kẻ thù của chúng ta là sự thiếu khoan dung, cuồng tín,
độc tài, tham đắm, hận thù và kỳ thị, chúng đang nằm sẵn trong tâm của con
người”. (Thượng tọa Nhất Hạnh)
Khác với các lời xuyên tạc của những người
bênh vực nhà Ngô, ký giả Nữu Ước Thời Báo (New York Times) David
Halberstam đã tường thuật bằng những lời vừa ngạc nhiên vừa kính nể:
“Tôi được thấy lại cảnh tượng ấy, nhưng chỉ
một lần cũng đã quá đủ. Lửa phủ khắp người; thân từ từ khô lại, đầu cháy đen
như than, không khí bay mùi khét thịt, thân hình chìm trong lửa quá nhanh chóng
và kinh ngạc. Phía sau, tôi có thể nghe tiếng khóc của những người đang lần
lượt kéo đến. Tôi quá xúc động khóc không nên lời, quá bàng hoàng để ghi chép
hoặc hỏi vài câu, quá bối rối để suy nghĩ... chìm trong biển lửa nhưng ngài vẫn
bất động, thịt gân không nhúc nhích, không một tiếng rên, ngài bình thản điềm
đạm trước bao người òa khóc xung quanh”.
Đối
với nhiều người Mỹ, hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc về việc tự thiêu của Bồ tát
Thích Quảng Đức năm 1963 như là một ký ức lâu dài nhất về cuộc chiến tranh Việt
Nam. Tháng 6 năm đó, sự phản đối của Phật tử chống lại Ngô Đình
Diệm giúp họ có thêm động lực thúc đẩy, người tu sĩ già ngồi ở tư thế hoa sen
tự thiêu trên đường phố náo nhiệt ở Sài Gòn. Sự tự thiêu của Ngài đầu
tiên là gây ấn tượng nhất cho cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963, là một hành
động phản đối không thể tin nổi đã thúc đẩy dư luận của thế giới, là một tấm
gương gây xúc động mạnh mẽ của người dân miền Nam chống chế độ Diệm, đã
in một dấu ấn không bao giờ phai nhòa trong cuộc chiến tranh Việt Nam
(Robert J.
Topmiller)
Có nhiều nhân tố để tạo nên cảm xúc cho
văn thi sĩ, một trong những nhân tố là bắt gặp sự kiện lớn. Không có sự kiện năm 1963 Phật giáo bị chà đạp,
bức hại, có thể đưa đến sự hủy diệt. Không có Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu để
bảo vệ chân lý, và để lại trái tim bất diệt sẽ không có bài thơ lửa từ bi của
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Không có đại hội thống nhất các hội đoàn, hệ phái Phật
giáo năm 1964 tại chùa Xá Lợi Sài gòn sẽ không có bài Đạo ca Phật giáo Việt
Nam. Và chính sự kiện đau buồn đêm 20 tháng 08 năm 1963 (Ngô Đình Nhu tổ chức chiến dịch Nước Lũ tổng tấn
công chùa chiền bắt giam Tăng Ni) mà hai năm sau ngày 20 tháng 08 năm
1965, tuần báo Thiện Mỹ của Phật giáo mới có bài, đăng bài Kinh Cầu Nguyện tràn
đầy cảm xúc thiết tha, không hờn oán hận thù những kẻ đã gây ra đau khổ cho Đạo
mình.
Bài Kinh Cầu Nguyện này các văn khố lưu trử của PGVN
có thể không còn, tôi đã tìm thử khắp trên mạng thấy không có, may mắn thay
chúng tôi còn giữ được số báo này [13]. Xin
đăng nguyên văn để cộng đồng có tư liệu.
Nguyên văn: Kinh Cầu Nguyện
(chậm rãi trang trọng) Để cho lửa hận thù thôi bốc
cháy, không thể đốt thêm một ngọn lửa hận thù. Để cho lửa hận thù tàn
tạ, suối từ bi phải được từ lòng người khơi mở.
(Khẩn thiết) Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Lời
dạy của Thế Tôn mát mẻ như một dòng suối thơm lành, đức từ bi của Thế
Tôn là dòng suối ngọt chảy trong sa mạc khô cháy, là đóa sen tươi mát
hiện trong thế giới dầu sôi, lửa bỏng, cho chúng con được thấm nhuần
trong biển đại lượng bao dung của từ bi hỷ xả, của trí giác năng nhân.
(Chậm rãi) Ngày 20 tháng 8 là ngày chứng tỏ niềm tin
mãnh liệt của Phật tử Việt Nam đối với giáo lý từ bi của đức Giác Ngộ. Bạo lực
càng cao thì từ bi càng sáng rỡ. Đúng nửa đêm, tiếng reo hò vang dậy. Từ huyệt
sâu của bạo lực của căm thù, chân giậm giày đinh, tay ghìm báng súng, họ đã tiến
lên vây kín ngôi chùa thiêng, trong đó 20 thế kỷ niềm tin đã ngự trị.
(Khẩn thiết) Lạy Phật! Cho chúng con nhớ rằng oán
thù chỉ khơi dậy oán thù. Cho chúng con vững tâm tin tưởng rằng chỉ có tình
thương mới kêu gọi được tình thương. Cho chúng con được an trú vững vàng nơi từ
bi chánh định.
(Chậm rãi) Một tiếng hô lên; Dưới bóng đèn khuya, bọn
họ hiện hình. Họng súng lưỡi lê. Hận thù ngùn ngụt lửa. Những gót giày đinh ác
quỷ giậm đạp không thương tiếc trên mảnh đất của tình thương.
(Khẩn thiết) Lạy Phật từ bi! Cho chúng con vững tâm
nguyện cầu, bình tĩnh mỉm cười trong tinh thần từ hòa bất bạo động. Cho đuốc Bi
Trí Dũng bừng lên soi sáng cho chúng con những lúc nguy nan.
(Khẩn thiết) Hai mươi tháng tám đau thương! Ác quỷ
xa tăng xông vào điện Phật, lưỡi lê, súng thép, giày đinh. Máu linh chảy chan
hòa lòng đất nước. Trong đêm sâu, tiếng kêu la dậy đất.
(Khẩn thiết) Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Cho
nước mắt của chúng con được chảy cho vẹn tình sau trước. Cho lòng ruột chúng
con xin đau để nghĩa được vẹn toàn. Cho tất cả chúng con hòa hợp lại trong ý
nghĩa bảo vệ niềm tin, bảo vệ chánh pháp, bảo vệ quyền tự do tối thượng của con
người. Xin ban một giọt nước tù bi cho hận thù trở nên thương xót.
(Chậm rãi) Ngọn lửa thiêng của tuần lễ Kim Cương bừng
cháy. Ôi trái tim ngàn muôn năm bất diệt! Bảy vì Thánh tử đạo đã nối tiếp theo
nhau đốt lên ngọn đuốc thương yêu. Quách Thị Trang ngã xuống. Từng lớp người đứng
lên, lòng nặng xót thương, lao mình vào sắt thép, ngục tù.
(Khẩn thiết) Lạy đức Phật từ bi! Cho chúng con hôm nay
tưởng niệm và tri ân tất cả những người đã vì chúng con mà gục xuống. Cho chúng
con trang trọng nhắc lại lời hứa không bao giờ dám phản bội ân đức của các
Thánh tử đạo và của bao nhiêu người, hữu danh cũng như vô danh, đả đem niềm
tin, tình thương và sự hy sinh cứu lấy phẩm giá và tự do của con người. Cho
chúng con ý thức rằng các vị Thánh tử đạo đã trao trên vai chúng con trách nhiệm
của một lời nguyện lớn. Xin mười phương chư Phật hộ niệm cho chúng con thành tựu
được nghĩa vụ vẹn toàn.
.
Nửa
thế kỷ trôi qua, chư tôn đức lãnh đạo Phật giáo đồng thời với Bồ tát rất nhiều
vị đã trở thành người thiên cổ, tuy vậy lớp tăng ny trẻ kế thừa lớp lớp vẫn sản
sinh, vẫn noi gương uy hùng của Bồ tát tinh tấn tu tập, làm đạo. Nhân 50 năm (1963-2013)
ngày Bồ tát tự thiêu (11/06) Tăng Ny, Phật tử ở các thành phố lớn Sài gòn, Hà Nội,
Huế, Nha Trang.... Và cả chư tôn đức Tăng Ny Phật tử nước ngoài cùng long trọng
tổ chức kỷ niệm, cùng ôn lại bài học lịch sử, cùng nhắc nhau theo hạnh nguyện của
Bồ tát, luôn gần gũi quần chúng khổ đau, biết hy sinh cho đại nghĩa dân tộc, biết
xả thân làm đạo để cho đạo pháp trường tồn.
.
Năm mươi năm nay Tăng
ny, Phật tử luôn cầu nguyện ao ước trái tim bất diệt của Bồ tát, là quốc
bảo của
quốc gia phải có Tháp 9 tầng thờ phụng, thì hôm nay nhân duyên hội đủ,
ngày 02
tháng 7 năm 2013 tại thiền viện Quảng Đức, thành phố Hồ Chí Minh, Ban
Thường Trực Hội Đồng Trị Sự, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, đã tổ chức
Hội Nghị và ra quyết nghị 14 điều, trong điều 7 có nội dung:" Hội nghị nhất trí chủ trương xây dựng Bảo tháp tôn thờ trái tim
Bồ tát Thích Quảng Đức. Giao Văn phòng Trung ương Giáo hội, Học viện Phật giáo
Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh, Ban Trị sự GHPGVN Tp. Hồ Chí Minh phối kết hợp
lập đề án xây dựng bảo tháp và báo cáo Hội nghị Thường niên của Hội đồng Trị sự
vào tháng 12/2013".
Lời
kết:
Qua chuyện ngoài lề của ông Đạo Dừa cũng góp cho ta
một chút nhận định:" Chủ thể không có nhân cách cao quý, không có đức hy
sinh, không có đạo tâm đức độ, thì tìm
sao cho ra đối tượng để nhớ để thương về
chủ thể".
Qua những tư liệu và dữ kiện nêu trên chúng ta đã thấy
quá rõ về công hạnh, hành trạng, quá trình tu tập của Bồ tát và những linh cảm
tiên đoán về thời cuôc và vận hạn của Phật giáo mà Bồ tát đã có những bước chuẩn
bị chu đáo cho ngày mình tự thiêu để bảo vệ đạo pháp. Công đức tu hành như thế,
hạnh nguyện lợi tha vì chúng sinh như thế, lòng từ bi vô lượng như thế, để lại
cho nhân thế cho Phật giáo một trái tim bất diệt đó là trái tim từ bi của Bồ tát, cố
nhiên.
Những luận điệu thù hận, lật ngược lịch sử nói rằng
Bồ tát bị chích thuốc mê rồi đem đốt, cũng chỉ là luận điệu của những ai không
dám nhìn thẳng sự thật. Vì sự thật muôn đời vẫn là sự thật.
Thích Giác Tâm
--------------------
Dẫn chiếu:
. [*] Tăng Sâm giết người
. [1] Ông Đạo Dừa sinh năm 1909 tại
xã Phước Thịnh , tổng An Hòa, quận Trúc Giang, tỉnh Kiến Hòa (nay là huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre).
Người sáng lập ra Đạo dừa (Hòa Đồng Tôn Giáo) http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1o_D%E1%BB%ABa
. [2] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
. [3] [4] [5] [6] trích:
Bồ tát Quảng Đức: Cuộc đời và hạnh nguyện nhìn qua các văn bản và khảo
cứu - Giáo sư Nguyễn Tri-Ân, Đại Học Bates, Hoa Kỳ
. [7] Những điều
chưa kể vụ tự thiêu của Bồ tát Quảng Đức - Hồi ký của HT. Thích Đức Nghiệp.
. [8] Nguồn: Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường
thiền sen nở (hồi kí), NXB. Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ
Đông Tây, Hà Nội, 2009, trang 105.
. [9]http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/381801/Trai-tim-bat-tu---Ky-4-Su-that-ve-loi-xuyen-tac.html.
. [10] Trích: Bồ- Tát trong lòng tôi của Cư sĩ Tống
Hồ Cầm. Giác Ngộ số 693. Chuyên đề đặc biệt: Một thiên thu tuyệt tác! Kỷ niệm
50 năm Bồ-Tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân 1963-2013.
. [11] Trích:
Lửa Từ Bi của Quách Giao, Tập san Quảng Đức Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Khánh Hòa số
09/2013. Kỷ niệm 50 năm Bồ-Tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân 1963-2013.
. [12] Lưu Đình Long - Báo Giác Ngộ
. [13] Tuần
báo Thiện Mỹ số 39-20/08/1963