1. Khái quát về văn hóa
Cũng như trường hợp tôn
giáo, triết
học, thẩm mỹ…, thật khó tìm một định nghĩa xác đáng cho văn hóa. Ở đây
chúng
tôi chỉ nêu một khái quát về ý nghĩa của văn hóa để từ đó nói lên một
số
nhận định về văn hóa Phật giáo và nêu vài ý kiến về việc bảo tồn, phát
huy
văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Trong ý nghĩa chung, văn hóa
là một
mẫu thức tập hợp kiến thức, tín ngưỡng và thái độ ứng xử của con người.
Như
thế, văn hóa bao gồm ngôn ngữ, tư tưởng, niềm tin, tập quán, luật tắc,
thể
chế, công cụ, kỹ thuật, nghệ thuật, nghi lễ và các thành tố liên hệ
khác. Sự
phát triển văn hóa tùy thuộc vào khả năng học tập và truyền đạt kiến
thức từ
thế hệ trước cho thế hệ sau.
Tùy theo từng trường phái tư
tưởng,
các nhà khoa học xã hội và nhân loại học đã nêu ra một số định nghĩa về
văn
hóa. Trong tác phẩm Văn hóa Sơ khai (1), nhà nhân loại học người
Anh
Edward Burnett Tylor đã định nghĩa văn hóa bao gồm tất cả mọi khả năng
mà
con người như là một thành viên của xã hội thu đạt được. Như vậy, văn
hóa
mang tính giao tiếp, tâm lý, cộng đồng, nói chung là tính xã hội. Mỗi
vùng
đất, xã hội thường có một nền văn hóa riêng, thường được gọi là một
trong
những hệ thống văn hóa xã hội (socio-cultural systems) vốn có ảnh hưởng
qua
lại với nhau. Mặt khác, mọi cách ứng xử, giá trị, niềm tin, tư tưởng
của một
cá nhân chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn hóa nơi mà cá nhân ấy sinh
sống
cũng như chịu những ảnh hưởng nhất định từ các nền văn hóa ở nơi khác
mà cá
nhân ấy tiếp xúc thường xuyên.
Từ định nghĩa về văn hóa của
Tylor
ở thế kỷ 19 cho đến nay, theo UNESCO, có hơn 250 định nghĩa khác nhau,
được
sắp xếp từ “cách ứng xử có học thức”, đến “những ý niệm trong tâm trí”,
“một
cơ cấu tâm lý”, “một giả tưởng bằng thống kê”, “một cơ chế bảo vệ tâm
lý”…
Theo Kroeber và Kluckhohn cũng như nhiều nhà nhân loại học khác, văn
hóa là
một sự trừu tượng hay chuyên môn hơn, “một sự trừu tượng từ cách cư xử”
(An
abstraction from behavior). Quan điểm cho rằng văn hóa là một sự trừu
tượng
như thế gặp phải hai vấn nạn. Thứ nhất, người ta đòi hỏi một thực thể
của
văn hóa vì đã là trừu tượng thì không thể nhận biết được; thứ hai, phải
chối
bỏ sự hiện hữu của văn hóa một khi văn hóa ở bên ngòai hiện hữu và
không có
những sự vật, sự kiện thực sự thuộc thế giới bên ngoài thì nó là phi
khoa
học. Kroeber và Kluckhohn đã kết luận văn hóa là một sự trừu tượng với
lý
luận rằng nếu văn hóa là sự cư xử thì nó trở thành chủ đề cho tâm lý
học. Từ
đó hai ông kết luận rằng văn hóa là “một sự trừu tượng được suy diễn từ
cách
cư xử cụ thể nhưng chính nó không phải là sự cư xử”. Định nghĩa này xem
ra
chưa thỏa đáng vì người ta có thể hỏi rằng sự trừu tượng của một nghi
lễ cầu
siêu hay của một đại hồng chung là gì. Trong khảo luận Khái niệm về
văn
hóa (2), Leslie A. White đưa ra một cách giải quyết : Vấn đề thực
sự
không phải văn hóa là thực thể hay trừu tượng, mà vấn đề là bối cảnh
của sự
diễn dịch mang tính khoa học. Một sự vật hay sự kiện nếu được nhìn
trong mối
liên hệ với một người, chúng gây nên một phản ứng tâm lý, một thái độ
cư xử;
còn nếu chúng được nhìn trong mối liên hệ với nhau và với một số sự
vật, sự
kiện khác, chúng hình thành một ý nghĩa biểu tượng, chúng tạo thành văn
hóa.
Chuông mõ đối với một người Phật tử có thể là những khí cụ âm nhạc,
khiến
người ấy ưa thích, muốn sở hữu…, như thế là chúng gây nên một thái độ
tâm lý.
Nếu chúng được đặt trong mối liên hệ với nhau và liên hệ với chiêng,
trống,
hương, đèn, với lời kinh và nghi thức lễ lạc thì chúng tạo thành văn
hóa. Do
vậy, văn hóa là từ được đặt cho một nhóm sự vật hay sự kiện vốn tùy
thuộc
vào tính biểu tượng được xét trong một loại bối cảnh vượt ngoài sự can
dự
của con người. Điều này nghe có vẻ mâu thuẫn với tiền đề văn hoá là sản
phẩm
của con người, của xã hội loài người; nhưng ở đây muốn chỉ rõ rằng một
khi
một nhóm sự vật, sự kiện đã trở thành văn hóa thì chúng mang tính khách
quan,
khoa học, sự hiện hữu của chúng là hiển nhiên không thể bị chối bỏ cho
đến
khi chúng không còn liên hệ với nhau, không mang ý nghĩa hệ thống nữa.
2. Nhận định về văn hóa Phật
giáo
Hiển nhiên, Phật giáo với
lịch sử
hình thành và phát triển trong hơn hai mươi lăm thế kỷ phải có một nền
văn
hóa với những giá trị mang tính nhân loại. Phật giáo Việt Nam với hơn
hai
ngàn năm lịch sử hẳn phải có một nền văn hóa với những thành tựu có tầm
cỡ.
Thật vậy, những thành tố văn hóa dân tộc như ngôn ngữ, tư tưởng, niềm
tin,
tập quán, văn học, nghệ thuật…, không đâu là không có dấu ấn Phật giáo.
Trong suốt hai ngàn năm qua, Phật giáo đã hòa quyện vào lòng dân tộc,
dung
hợp với tín ngưỡng bản địa cũng như các tư tưởng khác, tham gia vào
việc xây
dựng và bảo vệ đất nước, từ đó hình thành cho mình một nền văn hóa
phong phú,
sinh động, đậm đà bản sắc dân tộc, có ảnh hưởng lớn lao đối với dân tộc
đến
nỗi có thể nói nền văn hóa Phật giáo là nền văn hóa dân tộc.
Phật giáo đến với nhân dân
Việt Nam
bằng con đường hòa bình, như một liều thuốc xoa dịu khổ đau. Từ khi mới
du
nhập, với tư tưởng giải thoát khỏi mọi khổ đau, được hiểu như là giải
thoát
khỏi ách nô lệ áp bức của phương Bắc, Phật giáo mang đến một niềm hy
vọng,
một ý chí tự chủ tự cường cho nhân dân. Với sự đồng tình ủng hộ của
nhân
dân, Phật giáo đã có vị thế vững vàng và có sức lan tỏa mạnh, những
công
trình văn hóa Phật giáo phát triển không ngừng. Chùa chiền ngay từ buổi
đầu
không chỉ là những trung tâm sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, mà còn là
cơ sở
giáo dục, y tế, tư vấn về nhiều mặt trong đời sống xã hội… Nhiều công
trình
kiến trúc, điêu khắc Phật giáo như trung tâm Luy Lâu, các tự viện,
tượng
đài… đã tạo nên những dấu ấn văn hóa sâu đậm trong lòng dân tộc. Các
tác
phẩm văn học đầu tiên của nước ta trước thế kỷ15 hầu hết đều mang nội
dung
Phật giáo v.v…
Học giả Đào Duy Anh đã nhận
định về
tầm quan trọng của Phật giáo trong mười thế kỷ đầu: “Hán học ở Trung
Quốc
truyền sang nước ta từ đầu thời kỳ Bắc thuộc, thế mà mãi đến thời kỳ
Đinh,
Lê (thế kỷ thứ 10) trong làng Nho học chưa thấy được người nào xuất
sắc, mà
chỉ trong Phật học mới thấy xuất hiện được những nhân tài giỏi. Như vậy
thì
ta có thể nói rằng trong lịch sử học thuật nước ta, thời đại ấy là thời
đại
Phật học độc thịnh.”(3)
Từ khi du nhập, trải một
ngàn năm
độc thịnh cho đến đời Đinh, Lê, bốn trăm năm cực thịnh trong đời Lý,
Trần và
phát triển không ngừng suốt sáu trăm năm cho đến ngày nay, hiển nhiên
Phật
giáo Việt Nam đã cống hiến cho dân tộc những thành quả văn hóa vô cùng
quý
báu.
3. Về việc bảo tồn, phát huy
văn
hóa Phật giáo Việt Nam
Nghiên cứu văn hóa Phật giáo
là rất
cần thiết trong việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hóa nước nhà;
thế
mà đến nay, kể cả trong giới Phật giáo, chưa có những công trình nghiên
cứu
một cách toàn diện về văn hóa Phật giáo Việt Nam, ngoài một số tác phẩm
nghiên cứu từng phần hoặc trực tiếp hay liên quan, nhưng phần nhiều
mang
tính tự phát.
Văn hóa là sản phẩm của con
người
xã hội, mang tính xã hội và việc bảo tồn, phát huy văn hóa chủ yếu là
do
quần chúng nhân dân thực hiện. Trong thời đại mới, sự tiếp xúc, hội
nhập
giữa các nền văn minh, văn hóa là tất nhiên; nhưng không phải ai cũng
có đủ
điều kiện để chọn lọc nhằm thâu nhận cái hay cái đẹp phù hợp với tính
dân
tộc, để có ý thức bảo tồn và phát huy văn hóa nước nhà. Sẽ rất mù mờ
khi bảo
rằng đưa văn hóa vào đời sống hay xã hội hóa văn hóa một khi văn hóa đã
là
sản phẩm của người đời, của con người xã hội. Trái lại, người làm công
tác
nghiên cứu văn hóa nên thâm nhập vào lòng xã hội để tìm cách làm nổi
bật cái
hay, cái đẹp của văn hóa qua lối sống, cách nhìn, tư duy, tình cảm,
cách ứng
xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội và giữa con
người
với môi trường thiên nhiên.
Bảo vệ và phát huy văn hóa
chính là
nhằm xây dựng một nhận thức về một lối sống hiền thiện, về cái hay, cái
đẹp
của truyền thống và thận trọng với những thị hiếu nhất thời có thể gây
nguy
hại cho văn hóa dân tộc. Đây là công việc của tất cả mọi người, của các
nhà
trí thức, nhà đạo đức, tôn giáo, của chính quyền. Riêng trong Phật
giáo, để
thực hiện công việc này, theo chúng tôi, chúng ta cần lưu tâm đến một
số
điểm cơ bản sau đây:
- Tăng cường việc phổ biến
giáo lý
của Đức Phật, đặc biệt là đạo đức học Phật giáo.
- Bảo tồn các cơ sở, tự
viện, di
tích, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Phật giáo.
- Khuyến khích việc giữ gìn
và phát
huy các tập tục tốt đẹp của người Phật tử (đến chùa, tham gia thực hiện
các
lễ lớn, ăn chay, thờ Phật, bố thí, phóng sinh…)
- Khuyến khích, nêu gương về
nếp
sống đẹp, các đức tính tốt (hòa thuận, hiếu để, từ bi, hỷ xả…)
- Các
phương tiện truyền thông đại chúng đều có thể đóng góp hữu hiệu cho
việc bảo
tồn và phát huy văn hóa Phật giáo. Chúng tôi nghĩ, trước mắt các cơ
quan
thông tin Phật giáo cần nỗ lực chuyển tải những nội dung theo các điểm
trên.
Báo chí Phật giáo muốn xã
hội hóa,
muốn phục vụ đạo pháp và dân tộc thì phải nghĩ đến quần chúng Phật tử
và
quần chúng nhân dân nói chung, phải đi sâu vào đời sống bình thường,
phải
được số đông cảm nhận. Ngoài những phần mang đậm nét Phật giáo, báo chí
Phật
giáo cần có nội dung phản ánh đời sống thường nhật, những rung cảm về
cuộc
sống đẹp đẽ, hiền thiện,… Ca ngợi cái đẹp tinh thần, các thái độ, hành
xử
thể hiện tâm hồn trong sáng, hiền thiện chính là góp phần vào việc bảo
tồn
và phát huy truyền thống dân tộc, đồng thời cũng là bảo tồn, xây dựng
và
phát huy văn hóa Phật giáo. “Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp”,
với
tinh thần đó, không phải nghiên cứu giáo lý, đạo đức Phật giáo, thông
tin
các Phật sự của Giáo hội,… mới gọi là Phật pháp. Được biết tại nhiều
nơi
trên thế giới và cả ở nước ta, từng xuất hiện những tờ báo của tôn giáo
nhưng người đọc khó nhận ra tính chất tôn giáo trong đó, bởi nội dung
dù
luôn giữ đúng tôn chỉ của tôn giáo nhưng lại được thể hiện bằng những
ngôn
ngữ, hình ảnh rất đời thường. Do đó, chúng tôi nghĩ, nếu báo chí Phật
giáo,
nhất là những tờ báo chủ trương góp phần bảo tồn và phát huy văn hóa
Phật
giáo thì nên thực hiện theo chiều hướng như vừa trình bày. Đó cũng là
con
đường mà các nhà làm công tác văn hóa Phật giáo sẽ đi.
-----------------------------------
(1) Primitive Culture, London, 1871.
(2) The concept of culture, 1959.
(3)Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Bốn
Phương, Sài
gòn,1951, tr.234.