Thuyết nghiệp như là đáp án lô-gích duy nhất, có sức
thuyết phục nhất đối với mọi bất công, sai biệt trong đời sống của con người.
Theo các nhà Ấn Độ học như Zimmer và Basham người Đức đều cho rằng là ngay
trước khi người Aryan vào Ấn Độ, những người thổ dân Dravidien vốn đã có các
khái niệm về nghiệp, yoga, luân hồi, giải thoát v.v...
Trong khuôn khổ bài viết này,
chúng tôi trình bày đôi nét về thuyết nghiệp của đạo Phật và sự ảnh hưởng của
nó trong văn hóa Việt Nam để người đọc có thể tìm hiểu thêm về thuyết nghiệp
của đạo Phật trong tâm thức của người Việt.
Vài nét về thuyết Nghiệp của đạo Phật
Từ Pāli kamma hay từ
Sanskrit karma (từ gốc từ kr là làm), Hán dịch là nghiệp,
có nghĩa là “hành động”, “làm”. Nhưng theo thuyết nghiệp của đạo Phật, nó có
một nghĩa đặc thù: nó chỉ cho “hành động có tác ý” (volitional action), chứ
không phải tất cả mọi hành động1. Nghiệp của đạo Phật không có tính
chất cơ giới và định mệnh luận. Nó đề cao ý chí tự do của con người, đề cao nỗ
lực bản thân. Thuyết nghiệp của đạo Phật tạo ra tính bình đẳng cho tất cả mọi
người và chúng sinh. Mỗi người là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp.
Mỗi người tự tạo ra nghiệp, vẽ nên cuộc đời mình và thọ lãnh những gì mình đã
tạo ra. Đạo Phật cho rằng, nghiệp dù là nghiệp thiện hay nghiệp ác chỉ có thể
hình thành trên cơ sở động cơ tâm lý của đương sự, tức là có dụng tâm của đương
sự mà Phật giáo gọi là tác ý (cetana). Nói cách khác, tác ý (cetana)
chính là nghiệp, nếu không có tác ý thì không có nghiệp.
Như vậy, đạo Phật xem nghiệp là bất
định, tức là có thể thay đổi được theo chiều hướng tốt hay xấu tùy theo đương
sự tạo nghiệp. Nếu đương sự tạo ra nhiều nghiệp lành, nghiệp thiện thì nghiệp
này có thể giúp cải tạo đời sống của đương sự theo chiều hướng tốt. Ngược lại,
đương sự tạo ra nhiều nghiệp ác, nghiệp dữ thì nghiệp sẽ hủy diệt đời sống của
đương sự.
Theo GS.Minh Chi, đạo Phật đề cập
tới hai loại nghiệp quan trọng quyết định hướng tái sinh và cuộc sống của chúng
sinh đó là dẫn nghiệp và mãn nghiệp:
Dẫn nghiệp: còn gọi là tái sanh nghiệp
(preproductive karma) là nghiệp dẫn dắt, quyết định hướng tái sinh của chúng
sinh vào một trong sáu cõi: cõi Trời, cõi A-tu-la và cõi Người (ba cõi thiện),
cõi Súc sinh, cõi Quỷ đói và cõi Địa ngục (ba cõi ác). Đây là loại nghiệp có
cường độ rất mạnh.
Mãn nghiệp hay còn gọi là năng trì nghiệp
(supportive karma), là nghiệp sai biệt làm cho mọi chúng sinh có sai biệt không
ít thì nhiều; không có hai con người giống nhau hoàn toàn (do nghiệp của họ tạo
ra không hoàn toàn giống nhau). Mãn nghiệp giải thích được tại sao ở đời này có
người hạnh phúc, người bất hạnh, người giàu sang, kẻ nghèo hèn, người có uy tín
nói ra ai cũng tin, người nói rất giỏi nhưng không ai tin, người có dung nhan
đẹp đẽ, kẻ có thân thể xấu xí, có người mới sinh ra mắc phải những dị tật, hay
những chứng nan y khó chữa v.v… Tất cả những sai biệt đó, tuy cùng là một thân
phận người, nhưng do họ tạo nghiệp quá khứ, ngay cả hiện tại khác nhau cho nên
chịu thọ nghiệp khác nhau.
Ngoài ra, đạo Phật còn đề cập tới
một số loại nghiệp khác2 như:
Năng tiêu
nghiệp (countereractive karma, impeding karma) là loại nghiệp tùy vào tình hình
mà có thể tốt hay xấu! Chẳng hạn, một người được hưởng phước báo, sống trong
một gia đình giàu sang, nhưng người này không lo học hành, không giữ lối sống
đạo đức mà ngược lại chỉ biết ăn chơi trác táng, phá sản, rốt cuộc trở thành kẻ
nghèo, đi ăn xin. Nghiệp mà anh ta đã tạo ra như vậy là loại năng tiêu nghiệp
tiêu cực. Ngược lại, có người sinh ra trong một gia đình nghèo nàn, phải lao
động cực khổ, nhưng anh ta cố gắng làm việc, học hành, sống lối sống đạo đức,
giúp người khác. Kết quả, anh ta vươn ra khỏi cảnh nghèo, có uy tín có học vấn,
được mọi người tôn trọng. Nghiệp mà người ấy tạo ra như vậy là năng tiêu nghiệp
tích cực.
Năng hủy
nghiệp (destructive karma) là loại nghiệp được con
người tạo ra trong đời sống quá khứ hay hiện tại, có cường độ rất mạnh có thể
hủy đi dẫn nghiệp một cách bất ngờ. Nó giải thích được là vì sao con người chết
đột tử hay chết bất đắc kỳ tử như chết vì thiên tai, chết vì tai nạn, chết vì
chiến tranh. Năng hủy nghiệp tiêu hủy thân phận người ngay khi người đó đang có
sống bình thường. Sách Phật thường ví con người sống như chiếc đèn dầu đang
cháy. Khi nào chiếc đèn cạn dầu, cháy hết bấc là lúc thọ mạng của người ấy đã
hết. Năng hủy nghiệp tác động như một cơn gió thổi tắt vụt ngọn đèn, tuy đèn
còn nhiều dầu và chưa cháy hết bấc như những trường hợp con người chết đột tử,
cuộc sống đột ngột chấm dứt. Sách Phật thường nói có năm trường hợp con người
tạo ra nghiệp cực ác phải lãnh hậu quả là bị đọa vào cõi địa ngục sau khi mạng
chung như giết cha, giết mẹ, giết một vị A-la-hán, cố ý làm chảy máu Phật,
phá hòa hợp Tăng chúng.
Cộng nghiệp (collective karma): là loại nghiệp chung được tạo ra của cùng một
nhóm người, một cộng đồng, một loại chúng sinh hay nhiều loại chúng sinh cùng
phải chịu chung hoàn cảnh. Chẳng hạn, một dân tộc bị chiến tranh liên miên, bao
nhiêu người phải cầm vũ khí ra chiến trường mà giết hại lẫn nhau. Hoàn cảnh mà
cả dân tộc ấy đang phải chịu cảnh chiến tranh đó là cộng nghiệp, tức nghiệp
chung cho mọi người trong cộng đồng dân tộc đó.
Biệt nghiệp (individual karma) là loại nghiệp riêng biệt
của từng chúng sinh, nghiệp này không ai giống ai. Chẳng hạn, người thân của
chúng ta chịu bệnh tật giày vò rất đau khổ, chúng ta rất muốn chia sẻ nỗi đau
khổ đó với họ nhưng không làm được.
Cận tử
nghiệp (approximate death karma): người
gần chết không đủ sức hành động bằng thân, thậm chí bằng lời nói, do đó nghiệp
của đương sự khi sắp mạng chung là ý nghiệp, được tạo ra bằng ý nghĩ của họ.
Nghiệp này có cường độ rất mạnh, có thể quyết định hướng tái sinh của đương sự
trong tương lai. Chúng ta có thể minh họa tầm quan trọng của cận tử nghiệp bằng
rất nhiều ví dụ, chúng tôi xin lấy ví dụ điển hình trong kinh Phật, truyện vua
Asoka (A Dục).
Vua Asoka được đánh giá là một
trong những vị vua hiền minh nhất trong lịch sử nhân loại. Ông đối đãi với tất
cả các tôn giáo hết lòng, hết sức và bình đẳng. Ông là một Phật tử thuần thành,
yêu thương hết thảy mọi loài một cách sâu sắc. Một đấng quân vương như ông, đã
tạo ra cho chính bản thân ông nhiều thiện nghiệp. Một chuyện kỳ lạ xảy ra là,
trước khi lâm chung, có chuyện không đâu làm cho nhà vua giận dữ, nghiệp ác dẫn
ông tái sanh thành một con mãng xà lớn. Em ông là Đại đức Tissa biết vậy bèn
đến bên nhà vua (lúc đó đã biến thành con rắn) nói những lời từ ái, khuất phục
nó, khiến cho con mãng xà phút chốc lột xác, tái sanh vào cõi thiện lành.
Câu chuyện cho chúng ta thấy cận
tử nghiệp là rất mạnh, đặc biệt nó chỉ được tạo ra bằng ý nghĩ. Theo tôi, câu
chuyện trên thật có ý nghĩa nhân bản về nghiệp của đạo Phật. Kinh Pháp cú
(Dammapada) có nhiều ẩn dụ về nghiệp rất hay, xin trích dẫn ra đây một vài bài
để minh họa cho nghiệp theo quan điểm của đạo Phật:
“Không trên
trời dưới biển,
Không lánh vào
động núi,
Không nơi nào
trên đời,
Tránh được quả
ác nghiệp”.
“Không trên
trời, giữa biển,
Không lánh vào
động núi,
Không chỗ nào
trên đời,
Tránh khỏi tay
thần chết”
(Kệ 127 & 128, Thích
Minh Châu, 2000: 39)
Ảnh hưởng của thuyết nghiệp trong văn hóa Việt Nam
Đạo Phật được truyền bá vào nước ta
khoảng đầu TL, đến nay đã hơn 2.000 năm. Dưới thời phong kiến, từ vua chúa,
quan lại đến người bình dân, từ các tác phẩm văn thơ bác học đến các tác phẩm
văn học dân gian đều nhuốm màu Phật giáo. Có nhà nghiên cứu còn cho rằng chính
đạo Phật đã góp công lớn trong việc chiến thắng quân Mông-Nguyên ba lần sang
xâm lược nước ta3. Ở đây, chúng tôi chỉ xét riêng thuyết nghiệp mà
chúng tôi tin rằng nó có ảnh hưởng sâu rộng trong tâm thức của người Việt Nam.
Thế kỷ XIII là thế kỷ oai hùng của
dân tộc Việt Nam.
Ông cha chúng ta đã ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên-Mông một cách oanh
liệt. Vua Trần Nhân Tông, sau khi lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng giặc
Nguyên-Mông, ngài truyền ngôi cho con và lên làm Thái thượng hoàng. Và sau khi
sắp xếp việc triều chính ổn thỏa, ngài đã xuất gia và trở thành vị Tổ sáng lập
ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài vân du khắp nơi trong dân gian, khuyến
khích dân chúng phá bỏ dâm từ, thực hành mười điều thiện.
Nghiệp, Trung Hoa dịch từ chữ Karma
hay Kamma có nghĩa là hành động có dụng tâm. Ra đường chúng ta thường thấy
những cảnh thương tâm như tai nạn giao thông, người ăn xin, người gặp cảnh ngộ
éo le, chúng ta thường buông câu nói tội nghiệp để tỏ ý thương hại cho những
người đó. Ít người quan tâm đến nguyên nghĩa của từ tội nghiệp ban đầu có nghĩa
là gì. Theo chúng tôi biết, tội nghiệp có nghĩa là nghiệp có tội. Nghiệp của
những người lúc trước làm ra nhiều tội lỗi cho nên bây giờ họ mới chịu hậu quả
xấu, gặp báo ứng ngày nay. Một số câu thơ trong Truyện Kiều nói về
nghiệp như các câu:
“Số còn nặng
nghiệp má đào,
Người dầu muốn
quyết trời nào đã
cho” .
(câu 997-998)
Sư rằng: “Song
chẳng phận gì,
Nghiệp duyên
cân lại nhắc đi còn nhiều”.
(câu 2679-2680)
“Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình
ái khỏi điều tà dâm”.
(câu 2681-2682)
“Đã mang lấy
nghiệp vào thân,
Cũng đừng
trách lẫn trời gần trời xa” .
(câu 3249-3250)
Thúy Kiều còn nặng nghiệp má đào,
cho nên dù Kiều có muốn quyên sinh, chết đi cho xong cũng không được vì Trời
chưa cho. Trời chưa cho là theo cách nghĩ của cụ Nguyễn Du, còn
chúng tôi hiểu rằng đây là nghiệp báo, nghiệp lực của Thúy Kiều chưa hết nên
chưa thể chết được. Nàng Kiều phải tiếp tục sống để trả hết “nghiệp má đào” cái
đã. Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều là câu nói của nhà sư Giác Duyên cho nên câu
này mang nghĩa từ nguyên (tội nghiệp là nghiệp có tội hay nghiệp mang tội lỗi
mà kiếp trước Thúy Kiều đã gây ra). Đã mang lấy nghiệp vào thân thì cũng đừng
có trách lẫn trời gần trời xa, vì nghiệp là do bản thân mình tạo ra, có trách
ai được. Trách trời cũng vô ích vì trời không giúp được gì.
Câu nói dân dã phổ biến của người Việt “gieo gió gặt
bão” chính là thuyết nghiệp của nhà Phật đã thấm sâu vào văn hóa dân gian Việt Nam. Người Trung
Hoa có câu cách ngôn: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi
gia tất hữu dư ương” [Kinh Dịch - Quẻ Thuần Khôn]4. Tạm hiểu
là: Một nhà tích chứa điều tốt sẽ có thừa điều lành; một nhà tích chứa điều ác
tất có nhiều điều dữ. Câu tư tưởng này không thuộc về đạo Phật nhưng nghĩa lý
rất tương đồng với nghiệp, nghiệp báo.
Người đời thường nói “lời nói gió
bay”. Đạo Phật không cho rằng như vậy vì lời nói cũng là một dạng tạo nghiệp
(khẩu nghiệp), cho nên không thể xem thường được. Ta thấy trong đời sống thường
ngày, nhiều trường hợp lời nói tuy trên hình thức gió thổi đi mất nhưng người
nói nhiều khi phải trả giá ngay tức khắc, có khi là bằng mạng sống của mình vì
hành vi khẩu nghiệp của mình. Hay một lời nói tốt đẹp có thể cứu một mạng người,
hoặc mang lại hạnh phúc, an lành cho người khác thì chúng ta không thể không
cẩn thận khi phát ngôn.
Nghiệp được ghép với một từ nữa
chỉ cho kết quả của hành động trong từ ngữ nhà Phật rất nhiều như: nghiệp
duyên, nghiệp chướng, nghiệp báo, nghiệp đạo, nghiệp lực, nghiệp quả, nghiệp
nợ, nghiệp miệng (khẩu nghiệp) v.v…
“Tiền sanh
nghiệp chướng có dầy,
Cho nên trời
mới đem đày nhân gian”.
(Quan Âm Thị Kính)
“Ăn rau ăn
trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay”.
(Trần Nhân Tông - Cư
trần lạc đạo phú)
“Nghiệp nợ kết
dày, chướng tội thêm thẳm”.
(Lời tựa quyển Thiền
uyển tập anh)
Hay dân gian ta có câu: “Dù xây
chín đợt phù đồ/ Không bằng làm phúc cứu cho một người”. Câu nói trên không có
từ nào chỉ nghiệp cả nhưng cả câu hàm ý về nghiệp, nghiệp quả của người làm ra
là như thế nào.
Những dẫn chứng sơ bộ trên đây về
nghiệp, nghiệp báo cho thấy thuyết nghiệp của đạo Phật ảnh hưởng rất sâu rộng
trong tâm thức của người dân Việt Nam. Người Việt dù ít hay nhiều
cũng ý thức được nghiệp báo luân hồi, ý thức được cái mình đang làm, đang nói
hay đang suy nghĩ có ảnh hưởng như thế nào đến bản thân mình, bà con, người
thân hay mọi người xung quanh mình nên nghiệp có tác dụng giáo dục nhất định.
Một vài nhận xét về thuyết Nghiệp
Điều gì giải thích được muôn vàn
sai biệt của thế giới này? Chỉ có thuyết nghiệp mới giải thích được. Thật sự,
trên thế gian này không có hai người giống hệt như nhau, thậm chí những cặp
sinh đôi có hình tướng giống hệt nhau nhưng tính cách, sự suy nghĩ cũng có cái
khác biệt không ít thì nhiều. Đó là do nghiệp của họ tạo ra không giống nhau.
Mỗi suy nghĩ, hành động nho nhỏ hơi khác nhau thì đã tạo ra những nghiệp khác
nhau rồi. Cũng nhờ vào thuyết nghiệp mà chúng ta có thể giải thích được những
trường hợp mà khoa học hiện nay chưa làm được.
Thuyết nghiệp của đạo Phật không
mang tính quyết định luận như các tôn giáo và triết thuyết Ấn giáo chính thống;
cũng không có tính cơ giới, máy móc như đạo Jain, mà trái lại, thuyết nghiệp
của đạo Phật rất năng động, tích cực. Nó còn có chỗ cho ý chí tự do của con
người. Đề cao con người. Con người chỉ có thể tạo nghiệp khi có dụng tâm.
Thuyết nghiệp của đạo Phật cho ta những bài học quý giá và sâu sắc như sau
(theo tổng kết của GS.Minh Chi):
Một là, thuyết nghiệp của đạo Phật
dạy cho chúng ta bài học nhẫn nại và bình thản. Một việc gì không may xảy ra
cho chúng ta ở đời sống này đều chỉ là một sự trả giá công bằng cho một nghiệp
bất thiện của quá khứ mà chúng ta đã làm từ trước. Ngược lại, nếu gặp may,
chúng ta cũng không quá vui mừng mà mất hết tỉnh táo.
Hai là, nghiệp là niềm tin và nỗ lực tối đa. Niềm tin vào thuyết nghiệp của đạo Phật thúc đẩy chúng ta làm việc hết
mình, sống hết mình vì lý tưởng cao cả đó.
Ba là, thuyết nghiệp giúp ta sống
tỉnh táo và có tinh thần trách nhiệm. Người tin vào thuyết nghiệp biết rằng mỗi
phút giây mình sống đều tạo ra nghiệp qua suy nghĩ, lời nói và việc làm. Chúng
đều có tác động đến bản thân, gia đình và xã hội trong hiện tại và tương lai5.
Hiểu biết như vậy, chúng ta sống
đầy tinh thần trách nhiệm với những ý nghĩ, lời nói và hành động của mình dù là
cái nhỏ nhất, chúng cũng giúp chúng ta cải tạo bản thân, cải tạo gia đình và xã
hội, đem lại lợi ích thiết thực cho mọi người.
Nói tóm lại, thuyết nghiệp của đạo
Phật nếu được phổ biến rộng rãi sẽ có tác dụng giáo dục quần chúng rộng rãi.
Người tin theo thuyết nghiệp của đạo Phật sẽ hạn chế được những hành vi, lời
nói, ý nghĩ sai trái hại người, hại chính bản thân mình; thuyết nghiệp khuyến
khích con người làm việc thiện, nói lời tốt đẹp, tích cực, nghĩ thiện… sẽ có
tác dụng cải tạo xã hội rất lớn. Ngoài ra, thuyết nghiệp của đạo Phật còn rất
gần gũi, thậm chí giải thích được những ưu tư mà khoa học hiện đại không thể
cung cấp một sự giải thích thỏa đáng được.
Võ Văn
Thành
(Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo,
Viện Khoa học Xã hội vùng Nam
Bộ)
______________________
(1) Walpola Rahula, What the
Buddha Taught, 1962, p.32.
(2) Xem thêm Minh Chi, Quan
niệm của đạo Phật về Sống-Chết, 2007, tr.25- 44.
(3) Xem thêm ý kiến của GS.Minh Chi trong bài
“Phật giáo đời Trần hay là nguyên nhân sâu xa của cuộc kháng chiến thắng lợi
đối với quân Nguyên-Mông” in trong Thiền học đời Trần, NXB Tôn Giáo
2003.
(4) Xem bản Kinh Dịch
của Ngô Tất Tố, tr.121, NXB TP.Hồ Chí Minh tái bản lần 2, 1995.
(5) Minh Chi 1996: Thuyết
Bốn đế (bản in nội bộ của Trường Cao
cấp Phật học).
............................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, NXB Khoa Học Xã Hội, 1974.
2- Kinh Dịch (Ngô Tất Tố dịch), NXB
TP.Hồ Chí Minh tái bản lần 2, 1995.
3- Kinh Pháp Cú (Thích Minh Châu
dịch), NXB Tôn Giáo, 2000.
4- Minh Chi, Thuyết Bốn đế,
Trường Cao cấp Phật học (lưu hành nội bộ), 1996.
5- Minh Chi, Quan niệm của đạo Phật đối
với Sống-Chết, NXB TP.HCM, 2002.
6- Nhiều tác giả, Thiền học đời Trần, NXB Tôn Giáo, 2003.
7- Walpola Rahula, What the Buddha Taught,
Grove Press, Inc New York,
1962.