Phật Giáo Có Thể Đóng Góp Gì Cho Văn Hoá Dân Tộc
Trần Trung Phượng
01/05/2010 23:56 (GMT+7)

Điều quan trọng nhất trong sự đóng góp của Phật giáo không phải là với tư cách một thiết chế tôn giáo có tính chất biểu tượng mà chính là với tính chất của một nền văn hoá chiều sâu có khả năng tác động sâu sắc, nuôi dưỡng và phát triển đời sống tâm linh của mỗi người. Có thể một mai đây, nước Việt Nam sẽ phát triển mạnh trên phương diện kinh tế và cuộc sống vật chất của mỗi người sẽ được nâng cao hơn. Nhưng sự phát triển đó sẽ không trọn vẹn khi đời sống tinh thần và tâm linh của mỗi người trở nên nghèo nàn và héo úa…

 

Từ sự phục hưng văn hoá dân tộc…

Với một nước chậm phát triển như Việt Nam, việc tập trung sức lực cho công cuộc phát triển kinh  tế là một điều có thể hiểu được khi mà trong danh sách phát triển của các nước trên thế giới, Việt Nam vẫn còn được xếp ở một thứ hạng rất khiêm nhường.

Nhưng tập trung cho việc phát triển kinh tế, điều đó không có nghĩa là chúng ta xao nhãng các vấn đề thuộc phạm trù tinh thần, vì thiếu nó, quá trình phát triển sẽ trở nên phiến diện, què quặt. Ngày nay, khái niệm “phát triển kinh tế” đơn thuần chỉ nói đến duy nhất sự tăng trưởng kinh tế tính theo chỉ số GDP mà thôi, nên đã không được chấp nhận như một đường lối phát triển chính thức của quốc gia. Thế nên, chúng ta đưa vào khái niệm “phát triển” những tính chất tổng hợp và toàn diện hơn, như phát triển con người, phát triển xã hội, phát triển bền vững… Và tất cả đều nói lên một chân lý đơn giản rằng con người là một thực thể đa chiều kích: sinh học – xã hội – lịch sử - tâm linh, do đó, sự phát triển  cũng phải mang tính chất tổng hợp, đa diện.

Một cách tổng quát, có thể hình dung qúa trình phát triển của một đất nước như là sự phát triển của hai loại hình phát triển cơ bản là sự phát triển trên bề mặt (surface development) và sự phát triển theo chiều sâu (deep development). Với sự phát triển trên bề mặt, chúng ta có thể đạt được những thành tựu có giá trị vật chất và có thể đánh giá, định lượng bằng những con số thống kê cụ thể (chỉ số GDP tính theo đầu người, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ tử vong nơi trẻ sơ sinh…). Trong khi đó, với sự phát triển theo chiều sâu, chúng ta muốn nói đến sự thăng hoa của các giá trị tinh thần của một cộng đồng cũng như của cá nhân mà nếu thiếu nó, tất cả sự phát triển trên bề mặt đều trở nên vô nghĩa. Tuy khó có thể miêu tả một cách thật chính xác cũng như không thể định lượng một cách thật cụ thể, nhưng sự phát triển theo chiều sâu này có vị trí và vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của một quốc gia, và chính nó làm cho quá trình này thực sự trở nên “bền vững” hơn và có ý nghĩa hơn.

Trong thực tế, ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước khác, chúng ta chỉ chứng kiến gần như chỉ một loại hình phát triển duy nhất: đó là sự phát triển đơn tuyến chỉ diễn ra trên bề mặt và hầu như bỏ qua sự phát triển theo chiều sâu. Điều này có thể thấy rõ trong giáo dục, một lĩnh vực, thay vì phải tập trung cho sự phát triển con người toàn diện, đặc biệt là chiều sâu trong tâm thức, lại quá nhấn mạnh các khía cạnh thuộc bề mặt, nhất là khía cạnh kỹ thuật và kinh tế. Giáo dục thay vì phải là một cơ chế định hướng giúp cho sự phát triển con người trở nên quân bình và toàn diện, lại trở nên một nhân tố góp phần tạo nên sự phiến diện của quá trình phát triển, làm nên sự tha hoá của chính quá trình này.

Để khắc phục sự lệch lạc và mất quân bình này của quá trình phát triển, điều có ý nghĩa quan trọng và có tính chiến lược lâu dài là phải xây dựng một nền tảng văn hoá thật vững chắc cho quá trình phát triển. Và khái niệm “văn hoá” được nói đến ở đây phải được hiểu là một nền văn hoá theo chiều sâu (deep culture), một nền văn hoá có khả năng bao quát được hết tất cả các khía cạnh trong thế giới tâm thức của con người, và tạo ra được những động lực cần thiết cho sự phát triển thế giới tâm thức này. Nói cách khác, nếu trên bình diện cộng đồng, quá trình phát triển có thể diễn ra trên bề mặt và vươn tới những mục tiêu có tính chất kinh tế, xã hội, thì trên bình diện cá nhân, mục tiêu cao nhất của sự phát triển phải là sự phát huy những giá trị tiềm ẩn trong tâm thức, và điều này sẽ có tác động tích cực đối với quá trình phát triển trên bề mặt thuộc bình diện cộng đồng.

Như vậy, sự phục hưng văn hoá chỉ có thể trở thành hiện thực khi quá trình phát triển một quốc gia đạt tới một sự thống nhất nào đó giữa nền văn hoá của những cấu trúc bề nổi (bao gồm kinh tế và các thiết chế xã hội khác) và nền văn hoá của những cấu trúc bề sâu mà trong đó tôn giáo đóng giữ một vai trò có tính chất tiêu biểu. Với ý nghĩa đó, khái niệm “phát triển” mà chúng ta thường đề cập phải bao hàm một nội dung rộng lớn và có một ý nghĩa văn hoá sâu sắc chứ không phải chỉ liên quan đến những vấn đề thuộc hiện tượng xã hội ở bên ngoài, tuy rằng những vấn đề này vẫn có một tầm quan trọng riêng biệt của nó.

Đến sự đóng góp của Phật giáo

Trong lịch sử hình thành và phát triển nền văn hoá dân tộc, có lẽ giai đoạn hiện nay là giai đoạn thích hợp nhất cho sự phục hưng văn hoá mà chúng ta đang chờ đợi. Và quá trình phục hưng văn hoá này không thể trở thành hiện thực nếu chúng ta không thực hiện được một sự tổng hợp lớn, một sự tập đại thành, nếu có thể nói như vậy, về phương diện văn hoá. Xuất phát từ một vị trí địa lý và một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, trên phương diện văn hoá và tư tưởng, Việt Nam là nơi  gặp gỡ, tụ hội của nhiều luồng tư tưởng, văn hoá khác nhau, nơi mà Đông và Tây có thể đan xen và giao thoa với nhau trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội và đời sống tinh thần. Trong các bộ phận cấu thành nền văn hoá dân tộc, ngoài dòng văn hoá-tư tưởng bản địa, còn phải kể đến nhiều dòng khác nhau đến từ phương Đông và phương Tây, tất cả đã tạo thành một diện mạo văn hoá hết sức phong phú và đặc sắc. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, sự sống chung giữa các bộ phận văn hoá này chỉ có tính chất “lắp ghép” (chữ dùng của tác giả Phan Ngọc) chứ chưa thật dung thông và đôi khi còn lâm vào tình trạng đố kỵ, xung đột. Nhưng nhìn chung, ý thức khoan hoà và bao dung vẫn là một trong những ý thức văn hoá nổi bật nhất trong truyền thống lịch sử của dân tộc, và ngày nay, trong hoàn cảnh mới của đất nước, ý thức khoan dung này có thể được xem là một nền tảng tư tưởng quan trọng để thực hiện một sự tổng hợp lớn trên phương diện văn hoá.

Trong những bộ phận cấu thành nền văn hoá dân tộc, phải đặc biệt kể đến Phật giáo, một tôn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng dễ dàng được văn háo dân tộc chấp nhận như một bộ phận hữu cơ của mình. Và trải qua gần 20 thế kỷ tồn tại, thăng trầm cùng với lịch sử phát triển của đất nước, những giá trị tinh hoa của Phật giáo đã thực sự trở thành “xương máu” của văn hoá dân tộc đến mức khi đề cập đến cái gọi là tâm thức Việt Nam không thể không nói đến tâm thức Phật gáo. Những danh nhân văn hoá và lịch sử Việt Nam như Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tông, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du…, đều là những con người mang đậm tâm hồn, cốt cách và khí phách Việt Nam, ít hay nhiều cũng thể hiện được tố chất Phật giáo trong con người của mình.

Ngọc hun đỉnh núi màu thuần nhã

Sen nở trong lò sen chẳng tàn

(Thiền sư Ngộ Ấn)

Từ sự đồng hành của dân tộc và Phật giáo trong lịch sử, có thể đưa ra một quy luật tổng quát là sự thăng trầm của lịch sử dân tộc luôn gắn liền với sư thăng trầm của Phật giáo và bất cứ một triều đại nào biết tôn trọng và thực sự phát huy được những giá trị tinh hoa của Phật giáo (như triều đại Lý, Trần) đều là những triều đại cường thịnh không những về phương diện xã hội mà còn cả về phương diện văn hoá nữa. Với một ý nghĩa hạn chế trong một phạm vi nhất định, có thể nói rằng Phật Giáo là dân tộc và dân tộc cũng là Phật giáo, và khái niệm văn hoá Phật giáo mà chúng ta đang đề cập ở đây vừa bao hàm những khái niệm riêng biệt của Phật giáo lại vừa có nhiều điểm chung với nội dung của văn hoá dân tộc.

Trên tinh thần đó, có thể nói sự đóng góp của Phật giáo vào quá trình xây dựng và phát triển văn hoá dân tộc là một sự đóng góp vô giá, đặc biệt là trên phương diện tư tưởng và tinh thần. Chẳng hạn như không thể nói đến đức khoan dung như một trong những phẩm chất đặc trưng của văn hoá Việt Nam nếu không đề cập đến sự ảnh hưởng sâu sắc của tinh thần vô ngã của Phật giáo, cơ sở của toàn bộ nền đạo đức học và triết học Phật giáo. Trong một thời đại còn mang đầy tinh thần cố chấp và cuồng tín như thời đại ngày nay thì tinh thần vô ngã và bao dung luôn là một điều cần thiết để đem lại sự an bình cho xã hội và con người.

Điều quan trọng nhất trong sự đóng góp của Phật giáo không phải là với tư cách một thiết chế tôn giáo có tính chất biểu tượng mà chính là với tính chất của một nền văn hoá chiều sâu có khả năng tác động sâu sắc, nuôi dưỡng và phát triển đời sống tâm linh của mỗi người. Có thể một mai đây, nước Việt Nam ta sẽ phát triển mạnh trên phương diện kinh tế và cuộc sống vật chất của mỗi người sẽ được nâng cao hơn. Nhưng sự phát triển đó sẽ không trọn vẹn khi đời sống tinh thần và tâm linh của mỗi người trở nên nghèo nàn và héo úa, và mối quan hệ giữa người với người, giữa người với môi trường không được cải thiện một cách cơ bản. Sự hoà giải, liên minh giữa chính trị và tôn giáo là một điều cần thiết để có thể tạo ra một quá trình phát triển có tính chất quân bình và toàn diện cho đất nước.

So với các giai đoạn trước đây trong lịch sử, có lẽ giai đoạn hiện nay là giai đoạn thích hợp nhất cho sự xuất hiện một loại thời cơ đặc biệt mà chúng ta có thể gọi là thời cơ văn hoá. Đây chính là thời cơ thuận lợi nhất để tập trung suy nghĩ, thảo luận và hành động về những vấn đề có liên quan đến văn hoá cả trên phương diện vi mô lẫn vĩ mô. Và cũng đã đến lúc cần phải đặt ra và suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề tổng hợp văn hoá, một điều không thể thiếu trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc.

Và chắc chắn rằng trong quá trình tổng hợp để xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, Phật giáo sẽ giữ một vai trò trọng yếu và có những đóng góp hết sức quý báu.

 

Trần Trung Phượng

(theo Văn Hoá Phật Giáo)

 

Các tin đã đăng: