Mỹ thuật thời Lý & cuộc hội nhập khu vực và quốc tế "lần thứ nhất"
08/10/2010 07:20 (GMT+7)

1. Quá trình Phật giáo hóa Đông Á và Đông Nam Á diễn ra muộn nhất ở Đại Việt với vai trò quốc giáo của Phật giáo trong thời nhà Lý và nhà Trần. Mỹ thuật Lý là giai đoạn mỹ thuật vương quyền và mỹ thuật Phật giáo cực thịnh, hoàn chỉnh nhất.

Tính chất vương quyền thể hiện ở kết cấu, quy hoạch và quy mô kiến trúc hoàng thành Thăng Long cũng như các không gian cung đình khác ở Bắc Ninh và các địa phương. Một hệ thống dày đặc các chùa Phật được xây dựng với quy mô lớn nhất, lớn hơn mọi thời kỳ sau. Kết cấu kiến trúc và phong cách mỹ thuật hoàn toàn thống nhất đến mức hiếm có. (Năm 973 Đinh Liễn khắc 100 cột kinh Phật ở Ninh Bình, năm 1007 Minh Đề và Hoàng Thành Nhã sang Tống xin sách Nho và kinh đại tạng, năm 1040 triều đình làm tượng Phật, tranh Phật, đại phan mỗi thứ 1000 bản, năm 1075 dựng chùa Phật Tích, năm 1087 dựng chùa Dạm, ngoài ra còn có tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền - chùa Một Cột..., tất cả đều quy mô nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam). Mô hình hòa nhập vương quyền và thần quyền (các vua đều đi tu, thậm chí Lý Thánh Tông còn khai minh phái Thảo Đường, phát triển Phật học, tăng lữ tham gia triều chính, làm quốc sư, chăm lo giáo dục đào tạo. Theo Lê Văn Hưu thì thời Lý “nhân dân quá nửa là sư, sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa”. Mô hình này sẽ dẫn tới đồng nhất thần - vua như “Phật Hoàng” Trần Nhân Tông ở ta hay gương mặt Jayavarman VII và mặt Phật Bayon ở Cambodia sau này. Các ngôi chùa thời Lý chắc chắn từng là những trung tâm đào tạo và trung tâm văn hóa quan trọng nhất của đời sống Đại Việt.

2. Trong quá trình củng cố vương quyền và khuếch trương đạo Phật, mỹ thuật tất nhiên đã đóng vai trò quan trọng nhất, hơn mọi ngành văn nghệ khác. Cũng tất nhiên là nền mỹ thuật có vẻ là non trẻ nhất trong thế giới Đông Á và Đông Nam Á sẽ giao hòa mọi ảnh hưởng từ các nền mỹ thuật lân cận, đậm nét nhất là với mỹ thuật Trung Hoa và mỹ thuật Chăm. Tuy nhiên trực tiếp hơn, gần gũi hơn, sâu nặng hơn là với mỹ thuật Chăm bởi có sự tham gia cụ thể trực tiếp của các thầy và thợ Chăm từ phía Nam ra định cư ở đất Bắc. Mỹ thuật ở Hoàng thành Thăng Long, chùa Dạm, chùa Phật Tích và các di tích Lý khác nói lên điều đó. Cột biểu chùa Dạm với kết hợp kỳ lạ có một không hai Linga-Yoni-Rồng là biểu trưng sáng rõ của sự giao hòa máu thịt này. Sự giao hòa văn hóa Bắc - Nam không chỉ trong mỹ thuật mà còn rộng rãi ở mọi lĩnh vực: ca, múa, nhạc, diễn xướng… (Năm 1060 triều đình dịch nhạc khúc và đánh điệu trống Chiêm Thành, sai nhạc công ca hát. Sự giao hòa có lúc “quá đà” đến mức năm 1374 triều đình Trần phải cấm quân dân mặc áo kiểu người phương Bắc - dân Tống sang lánh nạn mang theo hàng hóa phong tục của họ - cấm bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm, Lào!…). Giao lưu hàng hóa, thương mại với các nước Indonesia, Malaysia, Xiêm La…cũng làm cho cuộc giao hòa thêm sặc sỡ. Thiết tưởng mỹ thuật Lý nói riêng và văn hóa Đại Việt thời Lý nói chung từng là kết quả của một cuộc hội nhập khu vực và quốc tế “lần thứ nhất” khá sâu rộng. Mỹ thuật Lý đặc sắc chính bởi những kết quả hội nhập đó.

3. Nhà Lý mở đầu và kết thúc bằng hai lần nhường ngôi “êm ả”. Hai thế kỷ Lý cũng là thời kỳ thanh bình, khoan hòa, an lạc nhất trong lịch sử Việt Nam. Mỹ thuật Lý thấm đậm lý tưởng Phật giáo nhu hòa, bao dung, hỷ xả. Tính tinh tế, kỳ bí, mềm mại, uyển chuyển và dày đặc của nghệ thuật trang trí kiến trúc cũng như các thành phần điêu khắc giàu chất trang trí trên hai chất liệu chính là đá và gạch nung là sự đối lập hữu cơ với tính hoành tráng, đồ sộ uy nghi của các công trình. Đường cong họa tiết, các đồ án hình tròn, bán viên và hoa dây lên ngôi, làm mẫu mực cho các thời kỳ sau. Nghệ thuật gốm đạt đỉnh cao chưa từng có với gốm men ngọc, men lam và men nâu của các “lò quan” cung đình cũng như “lò chợ” dân gian. Điêu khắc - tháp Chăm, gốm Lý Trần Mạc và tượng gỗ - đình chùa Bắc bộ thế kỷ 16-18 chắc chắn là những ba đóng góp đáng kể nhất của văn hóa Việt Nam vào văn hóa nhân loại.

4. Nói đến mỹ thuật Việt Nam nói chung và mỹ thuật Lý nói riêng chúng ta thường nêu ra chủ đề tranh luận về ảnh hưởng của mỹ thuật Trung Hoa và mỹ thuật Chăm tới mỹ thuật Việt như là ảnh hưởng hay tiếp biến văn hóa từ Bắc xuống và từ Nam lên. Điều đó cũng có nghĩa là ta đã đánh đồng mỹ thuật của người Việt - Kinh với mỹ thuật Việt Nam. Đó là một khía cạnh bất công và sai lầm bởi mỹ thuật Việt Nam bao gồm các thành phần khác quan trọng và rực rỡ như mỹ thuật Chăm, mỹ thuật Hoa, mỹ thuật K’me, mỹ thuật của các dân tộc Tây Nguyên - Miền Trung và mỹ thuật của các dân tộc thiểu số miền Bắc.

Trong khi mỹ thuật của người Kinh trong thiên niên kỷ thứ nhất còn là một dải băng trắng thì mỹ thuật Việt Nam chúng ta có mỹ thuật Chăm làm xương sống, phát triển rực rỡ đến tầm nhân loại ở một vương quốc độc lập duy nhất trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay.

Một trong những giá trị nổi bật, tiêu biểu của mỹ thuật thời Lý chính là Hoàng thành Thăng Long, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Trong thiên niên kỷ thứ hai mà mở đầu là nhà Lý, mỹ thuật của người Chăm giao hòa với mỹ thuật của người Kinh để phát triển mỹ thuật Việt Nam tới thế kỷ 19. Cộng đồng người Chăm ở miền Trung và cả ở miền Bắc đã giao hòa với người Việt góp phần phát triển tộc người Việt cận hiện đại. Mặt khác cộng đồng người Chăm còn tồn tại độc lập như một tộc thiểu số vẫn có mỹ thuật riêng của mình. Quá trình giao hòa văn hóa và dòng tộc này gắn với quá trình mở đất về phương Nam. Có thể nói không quá rằng đoạn kết của giai đoạn “Tam Quốc” Chúa Trịnh - Chúa Nguyễn - và các Vua Chăm là sự hình thành quốc gia và dân tộc Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Tôi từng cảm thấy có lỗi và xấu hổ khi nhiều sinh viên hỏi tôi vì sao họ không được học lịch sử các vương quốc Chăm và lịch sử mỹ thuật Chăm (trong cả phần lịch sử mỹ thuật Việt Nam cũng như lịch sử mỹ thuật thế giới). Họ “lý luận” rằng nếu Tần Thủy Hoàng hay Hán Cao Tổ thống nhất Trung Quốc và chữ Hán được dùng cho tất cả các tộc người trên đất Trung Hoa thì mỹ thuật Trung Hoa cũng vẫn là thống nhất bao gồm cả mỹ thuật Tây Vực, Tần, Hán, Sở, Việt, Ngô…và cả Nguyên-Mông, Kim-Thanh…sau này nữa. Tôi ước mong các nhà giáo dục lịch sử Việt Nam và các nhà lịch sử mỹ thuật trong tương lai gần sẽ trả lời và đáp ứng được nhu cầu của họ.

Theo Họa sĩ, nhà phê bình Nguyễn Quân - VH&TT

Các tin đã đăng: