Hòa với
niềm vui chung của toàn dân tộc, sự thành tựu của đất nước trên mọi
lĩnh vực, Phật giáo Việt Nam luôn phát huy truyền thống “phụng đạo – yêu
nước”, bằng nét đẹp ấy, dưới sự đạo phong, đạo lực và đạo tâm của các
bậc cao tăng lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ Trung ương đến địa
phương, Phật giáo Việt Nam từng bước phát triển và đi lên, làm cho đạo
pháp xương minh, góp phần làm cho Tổ quốc ngày càng phồn vinh thịnh
vượng. Bên cạnh đó, nghi lễ Phật giáo cũng góp phần quan trọng, hoạt
động hữu hiệu theo phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa Xã hội”.
Nói
đến nghi lễ là mọi người đều trực nhận sự hiện hữu của nghi lễ từ gia
đình đến ngoài xã hội, chứ không riêng cảnh già lam Phật tự. Từ khi
thành đạo với cội bồ đề, trong suốt 49 năm hoằng dương tế độ, Đức Phật
dùng vô số phương tiện để giáo hóa độ sanh. Đức Phật không bị ràng buộc
bởi bất cứ một khuôn khổ hay giáo điều nào, trái lại Đức Phật luôn vận
dụng tính “Tùy duyên bất biến” để đem đạo Phật đi vào cuộc đời. Thấm
nhuần tính “Tùy duyên bất biến” mà chư Tổ đã tùy thuận căn cơ chúng
sanh, tùy dòng lưu chuyển không ngừng của thời đại, nên đã dùng phương
tiện quyền xảo “nghi lễ Thiền gia” để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm
linh của đông đảo quần chúng mà từng bước hướng dẫn họ vào đạo.
Từ
khi du nhâp vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam đã dung hóa hài hòa với
bản sắc văn hóa dân tộc. Cho nên dù tiếp thu nền nghi lễ Phật giáo của
chư Tổ Trung Quốc, nhưng nghi lễ Phật giáo Việt Nam được chư Tổ chúng ta
tùy theo tình dặc thù của Phật giáo Đại thừa Việt Nam mà hình thành nên
những nét đặc trưng cho nghi lễ Phật giáo nước nhà với tinh thần “Hữu
tướng vô tâm” đượm mùi thiền vị, cho nên đã phù hợp với tín ngưỡng dân
tộc Việt Nam qua bao thời đại. Tuy nhiên với vị trí địa lý, đặc thù của
từng vùng miền nên nghi lễ Phật giáo Việt Nam có những đặc trưng riêng.
Trong các nghi thức hành trì, tán tụng của mỗi vùng miền có giọng điệu
khác nhau, nhưng đều có chung một mục đích là tuyên dương diệu pháp, báo
ân Đức Phật. Do đó, người thực hành nghi lễ ngoài việc làu thông giáo
điển mà còn phải có sự điêu luyện về giọng điệu mang tính đặc thù của
văn hóa Việt Nam, nhất là người thực hành nghi lễ phải có nội tâm an
tịnh mới có thể phát huy đúng tầm quan trọng của nghi lễ.
Trên
bước đường hoằng pháp độ sanh, nghi lễ là một trong những hành trang
không thể thiếu của mỗi sứ giả Như Lai. Bởi lẽ với âm điệu trầm bổng đầy
thiền vị giải thoát của những bậc thực hành nghi lễ sẽ tạo được sự an
lạc trong lòng người nghe, dương thới âm siêu. Nếu các hình thức và nội
dung của nghi lễ có sự kết hợp nhuần nhuyễn với giáo lý mầu nhiệm của
Đức Phật thì chúng sanh dù làm việc thiện hay ngược lại đều được cảm
hóa, đạt được sự an lành trong ánh hào quang của chư Phật.
Nghi
lễ Phật giáo luôn gắn liền với văn hóa dân tộc. Trải qua bao cuộc thăng
trầm của lịch sử, nói đến nghi lễ là nói đến những lễ nghi phép tắc từ
hình thức đến nội dung. Lâu nay có sự ngộ nhận, nói đến nghi lễ thường
được ám chỉ đó là những hình thức bên ngoài, nhưng xét nghĩ nếu không có
sự thì người học Phật khó thấu triệt được lý tánh cao siêu của Phật
pháp. Sự chỉ là phương tiện để diễn bày lý tánh, cho nên sự tướng nghi
phong của nghi lễ chính là một trong vô lượng pháp môn phương tiện tối
cần mà Đức Phật đã chỉ bày, đó là tính “tùy duyên bất biến của Đạo
Phật”. Nếu mọi hành giả đều quán triệt sự lý viên dung, tùy duyên bất
biến thì nghi lễ là công cụ đắc lực để thành tựu việc tu việc học. Nếu
chỉ chú trọng một phần nào thì đều bị chi phối bởi vòng đối đãi của nhị
nguyên, Phật pháp khó được hoằng dương đúng nghĩa, không bảo tồn và phát
huy văn hóa Phật giáo Việt Nam cũng như văn hóa dân tộc./.