Hiện
nay, thành tựu vượt bậc của khoa học cùng với tư tưởng tiến hóa của
nhân loại đòi hỏi phải thẩm định lại nhiều tư tưởng triết học xưa và
nay. Đương nhiên, những tư tưởng mang tính phi lý, lạc hậu, phản khoa
học đều phải bị đào thải.
Thế nhưng tòa nhà cổ kính hơn hai mươi lăm thế kỷ của Chân lý Phật
giáo vẫn trường tồn cùng năm tháng, thời gian, sừng sững như cây đại thọ
giữa núi non trùng điệp.
Điều này chứng tỏ Phật giáo đã toát ra một sức sống mãnh liệt bắt
nguồn từ một giá trị tinh thần phong phú, tinh thần ấy thể hiện Chân lý
và Giáo pháp của Chân lý Phật giáo, chúng ta đều biết rằng, Chân lý đạo
Phật chứng ngộ được do Thái tử Tất Đạt Đa là Đức Thích Ca Mâu Ni cũng ở
ngay thế giới này, chân lý này vận hành cùng vũ trụ - nhân sinh (Định lý
duyên khởi).
Nó tồn tại khách quan trong sự sống của loài người. Do đó Đức Phật có
xuất hiện hay không, nó cũng vận hành như vậy, nó lấy những điều Nhân
bản, Vô ngã, Từ bi, Bình đẳng mà làm căn bản để vận hành.
Cũng vậy! Phật giáo Việt Nam vẫn sống trong lòng dân tộc, thịnh suy
theo vận đất nước, Phật giáo có thể đóng góp một vai trò quan trọng
trong sự hướng dẫn đời sống tinh thần cho mọi người và phát triển quốc
gia trong thời kỳ hội nhập, làm nền tảng luân lý để xây dựng một xã hội
tiến bộ, đạo đức, trí tuệ cho mọi người.
Nhân bản là đánh thức con người đức tín tự tin, tự chủ, tự trọng với
tinh thần trách nhiệm bản thân và xã hội; Vô ngã: đánh thức cái ta, còn
gọi là cái tôi, cái của tôi, nó giả tạo, mong manh, không bền chắc, luôn
luôn biến chuyển. Thay thế bức tường thành ích kỷ, trở thành sự hy sinh
nhẫn nhục.
Trong Phật giáo quan niệm: Mọi người đều bình đẳng có trí tuệ như
nhau, nhưng đặc tính cố hữu của từng người khó hay dễ, mau hay chậm, chỉ
khác nhau để nhận được trí tuệ này. Phật giáo lấy từ bi vị tha là quan
điểm quan trọng khiến phát huy và tồn tại trên toàn cầu. Nhưng muốn làm
được những việc này, bản thân Phật giáo phải đào tạo cho được con người
chúng ta ứng dụng được việc đó.
Những triều đại trước, các nhà sư là thành phần ưu tú của xã hội,
thông minh, đức hạnh. Phật giáo từ thời các nhà vua Lê, Lý, Trần, qua
các trường Đại học Phật giáo cung cấp cho xã hội giai tầng trí tuệ. Vì
thế, tư tưởng và hành động người tu sĩ Phật giáo khác người thường.
Một đằng vì lợi ích cá nhân, một bên vì lợi ích cho đại chúng. Phải
vận dụng trí tuệ hòa nhập vào cuộc sống và xã hội, giúp người an vui
hạnh phúc, làm sáng tỏ Phật pháp. Đạo Phật là đạo trí tuệ, tự bản thân
mình phải rọi tuệ giác vào cuộc sống để nhập thế hành đạo.
Trực diện với mọi người để hiểu thêm "chư pháp thường không tánh, các
vật điều giả hợp, hay không cố định" chúng ta có thể hướng dẫn, thay
đổi được người xấu, thay đổi diễn biến trong cuộc sống, làm giàu đẹp văn
minh trí tuệ xứ sở chúng ta, chúng ta có thể liên hệ mấy đặc tính sau:
1 - Nhân bản: Điểm căn bản nhất mà chúng ta nhận thấy được ở
Chân lý Phật giáo là, Vị giáo chủ không phải là một thần linh, không
phải là một thượng đế đầy quyền uy thưởng phạt, mà là một con người thật
sự như bao nhiêu con người khác tên là Tất Đạt Đa, ngài thuộc giai cấp
Sát Đế Lợi, dòng dõi vua chúa, con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da.
Ngài sinh ra, lớn lên, đi học. Vợ của ngài là công chúa Da Du Đà La,
con của ngài là La Hầu La. Ngài thấu rõ nỗi thống khổ của sinh, lão,
bịnh, tử, ngài chứng kiến những lầm than cơ cực của dân chúng trước
những bất công của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Ngài đã một mình ra đi tìm
phương pháp giải quyết những vấn đề trên. Sau những tháng năm học đạo
với các đạo sĩ nổi tiếng mà kết quả vẫn không làm vị đạo sĩ trẻ tuổi,
thông minh Tất Đạt Đa giải quyết những vấn đề bức xúc trong lòng.
Cuối cùng ngài quyết định tự mình tham cứu. Suốt 49 ngày tham thiền
nhập định dưới cội cây Bồ đề. Ngày cuối cùng, khi sao mai vừa mới mọc,
ngài đã thấu đạt được Chân lý, rõ được chân tướng của vạn pháp. Ngài đã
giác ngộ và thành đạo, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Sự kiện trên đây đã hình thành một khái niệm về tính nhân bản của
Phật giáo. Đạo Phật quan niệm, con người là trung tâm điểm, hay nói cách
khác, không có nhân loại thì không có Chân lý Phật giáo hiện hữu trên
cõi đời này.
Trong thế giới quan của đạo Phật, chủng loại chúng sinh được chia
thành sáu bậc: Thiên, Nhân, Atula, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh. Trong
sáu giới ấy, con người được coi là hội đủ điều kiện tốt nhất để đạt đến
các quả vị tu chứng trí tuệ trong Phật giáo.
Chân lý Phật giáo giải thích rằng: Ở cõi Thiên thì khó nhận thức được
khổ đau vì cuộc sống của họ quá ư sung sướng. Trái lại, các cõi Atula,
Địa ngục, Súc sinh, Ngạ quỷ, chúng sanh quá si mê, ngu dốt trong hoàn
cảnh tối tăm đọa đày nên cũng không dễ nắm bắt được Chân lý Phật Đà.
Duy chỉ có cõi Nhân, bản thân con người mới có hoàn cảnh nhận thức
được khổ đau của cuộc sống (đây là điều kiện thích ứng để dễ dàng khai
sáng) và có khả năng khai sáng được ngọn đèn trí tuệ nơi chính tấm thân
nhỏ bé này.
Trong quan niệm Chân lý Phật giáo, con người là chủ nhân của mọi hành
vi của chính bản thân mình ở cả ba thời: Quá khứ, hiện tại và vị lai,
là thượng đế duy nhất có toàn quyền thưởng phạt cho chính cuộc đời mình.
Ngoài mình ra không ai hoặc bất cứ thần linh nào có khả năng đưa mình
lên thiên đàng hay ném mình xuống địa ngục. Trong Kinh Pháp Cú, câu 145,
Đức Phật dạy rằng:
"Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta
gội rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta, không ai có thể làm
cho người khác trở nên trong sạch".
Lại nữa, Phật giáo luôn đề cao nỗ lực và ý chí của bản thân con
người. Tinh tấn là một trong những đức tính quyết định việc thành tựu
đạo quả Bồ Đề. Đến bờ giác ngộ chẳng bao giờ có dấu chân của kẻ lười
biếng, bạc nhược.
Với những tâm hồn khát khao tự do và giải thoát tuyệt đối, dốc hết
sức bình sinh cùng với sự hiểu biết Chân lý của đạo Phật, mỗi chúng ta
chắc chắn sẽ đạt được kết quả tốt đẹp trên bước đường tu học tập và nhập
thế. Nhược bằng ngược lại, cho dù có ngàn vị Phật giang tay tế độ cũng
không làm sao đưa chúng ta thoát khỏi biển trần lao đầy thống khổ này.
Ngoài ra, Phật giáo còn đề cập đến những trường hợp của những người
thời chưa có Đức Phật ra đời. Có những con người tự lực, tự vận dụng
triệt để ý chí, khả năng của chính mình trong quá trình tư duy, chiêm
nghiệm và tu tập đúng đắn, quán tưởng và thấu rõ lý vô thường của vạn
pháp vẫn có thể bừng sáng được Chân lý. Đức Phật công nhận những người
này là Bích Chi Phật.
Tính nhân bản đã được thể hiện mạnh mẽ ở điểm này. Đây là một điểm ưu
việt của Chân lý đạo Phật mà chúng ta khó tìm thấy ở một giáo lý của
bất cứ tôn giáo nào khác: Một vị giáo chủ lại đề cao khả năng của con
người một cách khách quan hiện thực như vậy. Xuất phát từ tính nhân bản
này, nhân cách con người được tôn trọng triệt để trong đạo Phật: Quyền
sống, quyền tự do, quyền bình đẳng đều có một giá trị đích thực.
Điều đáng nói nhất là khả năng của con người mà Phật giáo luôn nhấn
mạnh, đó chính là trí tuệ chính mình tự có. Đây là khả năng tối cao của
nhân loại, là di sản vô cùng quý báu mà bất kỳ ai cũng có, nếu biết vận
dụng và phát huy đúng đắn, thì có thể tiêu diệt mọi khổ đau, đạt đến bến
bờ hạnh phúc.
Điều này đã được minh chứng cụ thể qua đời sống của Đức Phật cũng như
những bậc tiền nhân kế thừa trong lịch sử đạo Phật. Đức Phật đã tuyên
bố: "Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật".
Trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, từ cuộc sống thô sơ lạc hậu từ
xa xưa cho đến hôm nay, những phát minh khoa học cùng với thành quả của
nó đã đưa nhân loại đến thời kỳ vàng son của sự tối tân hiện đại. Kết
quả ấy có được là do khả năng khối óc của con người.
Dù vậy, theo phân tích của Chân lý Phật giáo khả năng đó chỉ mới là
một phần nhỏ giới hạn của trí tuệ, hay nói cách khác, con người khoa học
chỉ mới vận dụng được một phần trí sáng thế gian của mình, chứ chưa
phải là toàn bộ trí tuệ của mỗi con người từ nơi tâm thanh tịnh nơi
chính mình sẵn có.
Như Đức Phật đã chỉ rõ trong giáo điển, thuật ngữ đó tạm gọi là trí
tuệ Bát Nhã, và chính trí tuệ ấy là chiếc chìa khóa vàng để mở cánh cửa
Vô Sanh Niết Bàn Tịnh Tĩnh hạnh phúc.
Đối với Phật giáo, con người vốn là một chúng sanh ưu việt, có rất
nhiều tiềm năng phi thường, nếu chúng ta khéo triển khai, thì không gì
không thể thực hiện được trên cõi đời này.
Như vậy, ta có thể nói rằng: Phật giáo là đạo của con người, xuất
phát từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài là một đấng giác ngộ nhưng ngài
chính là một con người, ngài đã cất tiếng nói và có một đời sống của con
người, vì con người mà ngài khai thị Chân lý, hướng dẫn con người đi
đến cuộc sống thực sự an vui, hạnh phúc.
2 - Bình đẳng: Chúng ta biết rằng: Phật giáo đã ra đời trong
một hoàn cảnh vô cùng phức tạp của một đất nước, mà trong đó đời sống
con người phải chịu nhiều bất công, trong một xã hội phân chia năm giai
cấp lâu đời là Ấn Độ. Một là giai cấp Bàlamôn giáo tập trung số người tu
của 62 đạo khác nhau, chủ trương công việc nghi lễ, tế tự, cúng tế.
Giai cấp này chiếm vị trí tối cao. Hai là giai cấp Sát Đế Lợi, tập
trung dòng dõi vua chúa, là giai cấp nắm quyền điều hành xã hội. Ba là
giai cấp thương gia giàu sang. Giai cấp thứ tư là Tỳ Sá, bao gồm những
người bình dân.
Giai cấp thứ năm là thuộc giai cấp Thủ Đà La, họ là những người hạ
tiện hay còn gọi là dân nô lệ. Hai giai cấp Bàlamôn và Sát Đế Lợi thuộc
giai cấp thống trị. Năm giai cấp này theo chế độ thế tập, cha truyền con
nối. Vì vậy, người dân nô lệ thì cứ làm nô lệ đời đời tạo thành một xã
hội đầy rẫy những bất công.
Ngay trong buổi hoàng hôn tối tăm đó, một hiền nhân thuộc dòng dõi
vua chúa đã dũng mãnh gióng tiếng chuông tiên phong, phá tan bóng đêm
của xích xiềng nô lệ và bức tường phi lý phân chia giai cấp bằng một
châm ngôn bất hủ: "Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước
mắt cùng mặn".
Lời tuyên bố hùng hồn của Đức Phật là nền tảng hình thành một hệ
thống giáo lý mà trong đó tính bình đẳng được thể hiện trọn vẹn trên
phương diện lý thuyết và cả thực tiễn.
Theo Phật giáo, vạn vật trên thế giới này đều tùy thuộc nhân duyên mà
sanh khởi. Cũng vậy, sự khác nhau về địa vị, hoàn cảnh giàu sang hay
nghèo khổ, ngu dốt hay thông minh, tất cả đều hoàn toàn do hành vi tạo
tác của mỗi con người, chứ không phải do tự nhiên hay được sắp đặt theo
thông lệ hay bất kỳ một quy định nào.
Trên tinh thần này, sự phân chia giai cấp trở thành phi lý và vô
nghĩa. Việc Thái tử Tất Đạt Đa từ bỏ ngôi vị đế vương, quay lưng với tất
cả mọi vinh hoa phú quý, khước từ mọi đặc ân cao tột dành cho giai cấp
vua chúa.
Ngài đã một thân độc hành với mảnh áo vá thô sơ, đầu trần, chân đất,
vân du đây đó, hình ảnh đó đã thể hiện tinh thần bình đẳng tuyệt vời của
ngài. Và cũng chính Đức Phật, với đời sống giản dị khiêm tốn đã thể
hiện tấm lòng bình đẳng trong suốt cuộc đời giáo hóa chúng sanh. Ngài
rải tình thương vô biên xuống muôn loài một cách công bằng, vô phân
biệt.
Từ hạng cùng đinh như gã gánh phân, thợ cạo tóc cho đến hạng vua chúa
giàu sang phú quý, từ hạng thấp hèn ty tiện như gái giang hồ cho đến
bậc quyền uy, Đức Phật luôn thương yêu chân tình, giúp đỡ, khuyên dạy để
họ nhận thức được tính chất thật của cuộc sống tự thăng hoa tâm hồn,
đạt đến an lạc hạnh phúc. Lòng bình đẳng ấy không phải dừng lại mà lan
tỏa khắp muôn loài muôn vật.
Ngài đã dạy rằng "Tất cả chúng sanh đều có một tâm lý tham sống sợ
chết. Vì vậy, không có lý do gì ta nỡ cướp đi mạng sống của kẻ khác, như
vậy là không bình đẳng". Tâm trạng buồn nhớ mẹ của một chú cừu non lạc
đàn chẳng khác gì sự đau buồn của một người mẹ phải chia lìa với đứa con
thơ, bởi một nguyên nhân nào đó. Và vì vậy, sinh mạng của một con vật
cũng quý như bất kỳ sinh mạng của một con người.
Với quan điểm này, trên bước đường du hóa, có lần Đức Phật đã tự tay
bế một chú cừu non lạc đàn tìm về với mẹ. Và cũng chính ngài đã lên
tiếng giải thích và vạch rõ những ngu xuẩn của bọn người mê tín, dị đoan
làm lễ tế thần bằng cách dâng lên những con thú sống. Ngài đã cứu lấy
những con vật thoát khỏi cái chết hỏa thiêu chỉ vì sự tín ngưỡng mù
quáng.
Trong giáo điển, Phật giáo quan niệm rằng: Tất cả mọi loài chúng
sanh, từ con người cho đến các sinh vật nhỏ bé đều có ẩn một khả năng
thành Phật (Phật tính) nhưng do các đặc tính cố hữu ở mỗi loài, việc
triển khai khả năng ấy tùy đó mà khó hay dễ, nhanh hay chậm khác nhau.
Điều này có thể tóm ý trong một câu kinh: "Ta là Phật đã thành, chúng
sanh là Phật sẽ thành". Đây là nền tảng để hình thành đức tính bình đẳng
triệt để, vô phân biệt trong đạo đức luân lý của Phật giáo.
(còn tiếp)
Thích Huệ Đăng (ANTG)