Tripitaka là một từ Sanskrit, có
nghĩa là “Tam tạng”. Tam tạng bao gồm những lời dạy của đức Phật, (Kinh
tạng), giới luật và những thích nghĩa về giới luật của đức Phật (Luật
tạng), và những thích nghĩa và luận giải của các nhà nghiên cứu về lời
dạy của đức Phật (Luận tạng). Tam tạng có thể so sánh với Thánh kinh
Thiên chúa giáo. Đại Tạng Kinh Cao Ly được xuất bản năm 1251, gồm có 8
vạn mộc bản. Có nhiều bản dịch của Đại Tạng Kinh từ Ấn Độ, Trung Hoa,
Đài Loan, Tích Lan, và Nhật Bản, nhưng Đại Tạng Kinh Cao Ly là đại tạng
kinh đầy đủ nhất, hoàn hảo nhất và bảo quản lâu đời nhất. Tôi viết bài
viết này là để giải đáp lý do tại sao Đại Tạng Kinh Cao Ly lại được tổ
chức UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới và Đại Tạng Kinh Cao Ly
đã được bảo quản như thế nào.Đại Tạng Kinh Cao Ly được lưu trữ tại Tàng
Kinh Các của chùa Haein.
Tổ chức UNESCO cũng đã công nhận
Tàng Kinh Các là Di sản Văn hóa Thế giới. Đầu tiên, những mộc bản Đại
Tạng Kinh Cao Ly được cất giữ trong nhà kho trên Đảo Ganghwa. Từ năm
1398 đến nay, Đại Tạng Kinh Cao Ly được bảo quản tại chùa Haein. Chùa
Haein vốn được xem như là một nơi lý tưởng để bảo quản Đại Tạng Kinh Cao
Ly, bởi vì ngôi danh lam cổ tự này nằm sâu bên trong miền nam Hàn Quốc,
vượt ra ngoài phạm vi tấn công của các thế lực thù địch từ hướng bắc và
nam.
Cổng vào Đại Tạng
Kinh Cao Ly
Tàng Kinh Các có 108 cột trụ, biểu
tượng cho 108 nỗi phiền não của các Phật tử. Thông qua việc cất giữ Tam
tạng kinh điển trong ngôi nhà phiền não này, người Phật tử muốn nói, sự
giác ngộ nằm ngay trong những lời giáo huấn ấy. Trong khi các công trình
khác nổi tiếng vì kiểu dáng kiến trúc tuy đơn sơ, mộc mạc mà ấn tượng,
thì trái lại, điểm nổi bật quan trọng nhất của Tàng Kinh Các chính là
thiết kế của nó. Thiết kế của Tàng Kinh Các đã đảm bảo cho sự bảo quản
những bản gỗ khắc Đại Tạng Kinh Cao Ly được tồn tại lâu dài vì nó không
những có hệ thống thông gió tốt, thích nghi với mọi độ ẩm, mà còn duy
trì bên trong một nhiệt độ lý tưởng đối với một ngôi nhà ở miền núi.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa
học hiện nay, mặc dù Tàng Kinh Các là một công trình kiến trúc gỗ, có
diện tích 1204 mét vuông, không gắn máy điều hòa nhiệt độ hay máy sưởi,
nhưng không khí bên trong của nó luôn duy trì ở nhiệt độ khá ổn định, -
nhiệt độ chênh lệch trung bình là 20C. Thậm chí, khi nhiệt độ
bên ngoài Tàng Kinh Các thay đổi hơn 100C thì nhiệt độ bên
trong của nó cũng không thay đổi quá 50C. Quả thật, Tàng Kinh
Các xứng đáng cho các nhà khoa học hiện nay nghiên cứu.
Toàn cảnh Tàng Kinh
Các
Kết cấu của Tàng Kinh Các đặt trên
các tảng đá hoa cương. Mặt ngoài của công trình kiến trúc này không có
gì đáng chú ý, ngoại trừ 2 cửa sổ gắn các song gỗ lắp đăt bên trên và
bên dưới mỗi vách tường. Chính các cửa sổ gỗ này hiện đang giữ bí mật
bảo quản những bản gỗ khắc Đại Tạng Kinh. Tại mỗi bức tường của Tàng
Kinh Các đều lắp đặt 1 cửa sổ bên trên và 1 cửa sổ bên dưới. Kích cỡ của
các cửa sổ ấy thì đều khác nhau. Tại hướng Nam, cửa sổ bên dưới của mặt
tiền Tàng Kinh Các rộng gấp 4 lần cửa sổ bên trên; và cửa sổ bên trên
của mặt hậu rộng gấp 1.5 lần cửa sổ bên dưới. Tại hướng Bắc, cửa sổ bên
dưới của mặt tiền Tàng Kinh Các rộng gấp 4.6 lần cửa sổ bên trên; và cửa
sổ bên trên của mặt hậu rộng gấp 1.5 lần cửa sổ bên dưới.Tỷ lệ kích cỡ
chính xác này chứng tỏ rằng, khi xây dựng Tàng Kinh Các, các kiến trúc
sư ngày xưa đã am hiểu rất rõ về các luồng gió tự nhiên và tác dụng của
các luồng gió ấy đối với việc bảo quản những bản khắc Đại Tạng Kinh
trong mọi điều kiện khí hậu nóng lạnh khác nhau.
Sự sắp xếp các cửa sổ như đã nói
trên khiến cho các luồng không khí tự nhiên có thể lưu thông ra vào Tàng
Kinh Các đạt ở mức độ tối đa. Và cũng chính nhờ sự thiết kế này mà các
luồng không khí tự nhiên thổi qua cửa sổ lớn, chạy đều khắp bên trong
Tàng Kinh Các trước khi đi xuyên qua các cửa sổ đối diện thoát ra bên
ngoài. Tường và nền của Tàng Kinh Các được xây dựng bằng đất bùn đã làm
giảm bớt nhiệt độ và hạn chế độ ẩm trong suốt mùa hè nóng bức. Các nhà
khoa học đã phát hiện các lớp than, muối và vôi nằm bên dưới nền đất bên
trong Tàng Kim Các. Những chất này sẽ hút hơi ẩm dư thừa trong suốt mùa
có gió mùa, và nhả hơi ẩm ra trong suốt mùa đông khô ráo khi độ ẩm
xuống thấp. Các kệ dùng để xếp những bản gỗ khắc Đại tạng kinh trên đó
là những tấm ván dày, rắn chắc, và vuông vức.
Các bản khắc Đại tạng kinh được xếp
thành 2 lớp bên trên và dưới mỗi kệ, trông giống như những cuốn sách.
Vì các kệ dày hơn chính các bản gỗ khắc Đại tạng kinh nên những luồng
gió có khả năng lưu thông một cách tự nhiên khi các bản gỗ khắc Đại tạng
kinh được xếp thẳng đứng, đồng thời giúp kiểm soát độ ẩm và nhiệt độ.
Tình trạng tuyệt hảo của Cao Ly Đại Tạng Kinh là một thách thức đối với
khoa học hiện đại. Mặc dù toàn bộ công trình kiến trúc của Tàng Kinh Các
được xây dựng bằng chất liệu gần gũi với môi trường nhưng nó vẫn đáp
ứng mục đích sử dụng của nó tốt hơn bất cứ một công trình kiến trúc hiện
đại nào.
Cửa sổ của Tàng Kinh
Các – nơi giữ những bí quyết
trong việc bảo quản
Đại Tạng Kinh Cao Ly
Trong thập niên 60 của thế kỷ XX,
cựu Tổng thống Nam Hàn Park Chung-hee đã chỉ thị xây dựng một công trình
kiến trúc hiện đại để bảo quản Đại Tạng Kinh Cao Ly nhằm đề phòng khả
năng xảy ra hỏa hoạn, nhưng dự án xây dựng công trình kiến trúc đó đã bị
phá sản hoàn toàn vì nấm mốc đã bắt đầu tràn vào tấn công các bản gỗ
khắc Đại tạng kinh. Công trình kiến trúc thế kỷ XIII được đánh giá là
một công trình kiến trúc thích hợp cho việc cất giữ và bảo quản Đại Tạng
Kinh Cao Ly, vốn là một Quốc bảo của Hàn Quốc. Không có bất kỳ mối mọt
nào tấn công Cao Ly Đại Tạng Kinh. Đây là điều gây kinh ngạc cho phần
đông người Hàn Quốc.
Trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh
trong nước cũng như qua 7 vụ hỏa hoạn lớn tại chùa Hải Ấn, thế nhưng
Đại Tạng Kinh Cao Ly vẫn thoát khỏi những tai ương hiểm họa ấy.Việc xuất
bản Cao Ly Đại Tạng Kinh tự nó đã là một điều kỳ diệu. Cao Ly Đại Tạng
Kinh có trọng lượng nặng 280 tấn. Mỗi bản gỗ khắc Đại tạng kinh dày 4
cm. Nếu chồng tất cả những bản gỗ khắc Đại tạng kinh này lên nhau, nó sẽ
cao 3200 mét, cao hơn cả núi Baekdu - một ngọn núi cao nhất Hàn Quốc mà
cũng chỉ cao 2744 mét. Tổng cộng có 52.382.960 chữ được khắc trên các
bản gỗ khắc Đại tạng kinh. Nếu một người đọc Đại Tàng Kinh Cao Ly trung
bình mỗi ngày từ 4 đến 5 ngàn chữ thì họ phải mất 30 năm mới đọc xong bộ
Đại tạng kinh này.
Đại Tạng Kinh Cao Ly còn được giới
chuyên môn đánh giá là có nét chữ khắc đẹp nhất trong nghệ thuật khắc
chữ. Nét đẹp của các chữ được khắc trên các bản gỗ khắc Đại tạng kinh
Cao Ly vượt xa các bản khắc Đại tạng kinh thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII.
Mặc dù có tới hơn 30 nghệ nhân khắc chữ, nhưng nét đẹp của mỗi chữ được
chạm khắc trên các bản gỗ khắc Cao Ly Đại Tạng Kinh trông giống hệt như
chỉ có một người khắc. Cổ nhân đã bỏ ra 16 năm để xuất bản Đại Tạng Kinh
Cao Ly. Để gia công những bản gỗ khắc Đại tạng kinh, người Triều Tiên
chọn những cây lâu năm, chí ít cũng từ 40 đến 50 năm, cưa chúng thành
từng lóng trong suốt mùa đông. Những lóng cây được cưa trong suốt mùa
đông thì rất nặng và chắc, không dễ gì bị cong vênh. Để giúp cho gỗ được
giữ nguyên dạng và không bị mục nát, những lóng gỗ ấy phải trải qua một
tiến trình xử lý phức tạp và tốn mất nhiều thời gian.
Bản gỗ khắc Bát Vạn
Đại Tạng Kinh
Đầu tiên, các lóng gỗ
này được đem ngâm xuống dưới biển trong 3 năm để khử chất nhựa trong gỗ.
Sau đó chúng được xẻ thành từng những bản gỗ khắc Đại tạng kinh bằng
nhau, và đem luộc trong nước muối. Nước muối có thể ngăn ngừa mối mọt
đục khoét và nấm mốc tấn công cũng như có thể phân bổ độ ẩm đều khắp
trên mỗi bản gỗ khắc Đại tạng kinh. Sau khi đã luộc xong trong nước
muối, các bản gỗ được dùng để khắc Đại tạng kinh ấy được đem phơi khô
thêm 3 năm nữa trong các nhà kho thông thoáng. Mỗi khi chúng được phơi
khô xong, bề mặt của các bản gỗ khắc Đại tạng kinh này sẽ được làm nhẵn
bằng cát. Sau khi đã trải qua tiến trình xử lý công phu và tốn nhiều
thời gian như vậy, những nghệ nhân bắt đầu khắc Đại Tạng Kinh lên trên
bề mặt những bản gỗ này. Do lòng thành tâm và do làm công đức nên Cao Ly
Đại Tàng Kinh không có một chữ nào bị lỗi và bị sót. Sự kỳ công như thế
là rất hiếm có trong lịch sử ấn hành Đại Tạng Kinh và được coi là một
điều kỳ diệu.
Ngày xưa, các bản gỗ khắc Đại tạng
kinh sau khi được khắc xong, cổ nhân phủ thêm những lớp sơn Nam bên
ngoài. Lớp sơn Nam này không những chống mối mọt mà còn chống thấm nước
và ngăn ngừa các hóa chất xâm thực. Vì lớp sơn bám chặt vào gỗ, nên lớp
sơn Nam này đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc bảo quản những
bản gỗ khắc Đại Tạng Kinh.
Bản gỗ khắc Bát Vạn
Đại Tạng Kinh
Sau cùng, để tránh cong vênh, cổ
nhân dùng những nẹp gỗ hình chữ nhật viền thêm vào xung quanh các cạnh
của bản gỗ khắc kinh và dùng những hoa văn bằng đồng trang trí vào 4 góc
của bản gỗ khắc Đại tạng kinh. Các nhà khoa học hiện đại đã rất ngạc
nhiên khi khám phá ra rằng, đồng được dùng để trang trí trên các bản gỗ
khắc kinh ấy là gần như loại đồng nguyên chất, có tỷ lệ đồng chiếm
99.6%. Kỹ thuật có khả năng phân kim ở một trình độ như thế là thuộc
loại hiếm có vào thế kỷ XIII. Ngay cả những cây đinh được dùng để đóng
những hoa văn trang trí bằng đồng ấy cũng là loại đồng gần như nguyên
chất, có tỷ lệ đồng chiếm từ 94.5% đến 96.8 %. Nếu chế tạo đinh thép có
hàm lượng các-bon thấp, và chứa tỷ lệ măng-gan từ 0.33 % đến 0.38%, và
nếu có pha thêm bất cứ kim loại nào khác vào trong chúng thì những đinh
thép này cũng đã bị gỉ sét.
Đối với tôi, việc tái phát hiện giá
trị của Đại tạng kinh Cao Ly thế kỷ XIII là một điều ngạc nhiên thú vị.
Năm 2000, sau 9 năm miệt mài lao động, việc kỹ thuật số hóa Đại tạng
kinh Cao Ly đã được hoàn thành tốt đẹp. Một dự án chuyển bản gỗ khắc Đại
tạng kinh sang bản khắc đồng Đại tạng kinh hiện vẫn đang được tiếp tục
tiến hành. Bản khắc đồng Đại tạng kinh này sau khi được hoàn thành có
thể tồn tại cả 10.000 năm sau.
Choi
Yearn-hong - Thích Minh Trí dịch