* Bạch Hòa thượng, người xưa nói, thất thập cổ lai
hy, nhưng ngài năm nay nữa sẽ tròn trăm, được xem là bậc đại thụ không chỉ Phật
giáo VN, mà cả Phật giáo thế giới. Trong ngót trăm năm ấy, hẳn ngài đã trải qua
nhiều thăng trầm trong cuộc sống tu hành. Xin Hòa thượng cho chúng con hay về
tâm nguyện cũng như những chặng đường gian khó mà Hòa thượng đã vượt qua?
Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ
|
- Tôi xuất gia từ lúc 5 tuổi, được người
cô ruột là Ni trưởng Thích nữ Đàm Cơ đưa về chùa Quán ở Ninh Bình. Năm tôi 17
tuổi, được gửi đến tu học tại chùa Viên Minh (chùa Giáng) làm đệ tử Hòa thượng
Thích Quảng Tốn. Thuở ấy toàn vùng này là nơi xa xôi vắng vẻ, lau sậy mọc um
tùm, thú dữ rắn rết rất nhiều. Tuy ở nơi hẻo lánh, nhưng chùa Viên Minh là tổ
đình của sơn môn Đa Bảo, là một trong 3 sơn môn lớn nhất miền Bắc. Tại đây, năm
Nhâm Dần 1902, Tổ Thích Nguyên Uẩn mở đạo tràng Viên Minh pháp hội, quy tụ được
hơn 100 Tăng Ni giảng dạy và tu học trong 12 năm. Sau đó, Tổ Nguyên Uẩn về cõi
Niết-bàn, thì Tổ Quảng Tốn nối chí.
Cả đời tôi luôn kính ngưỡng các vị sư tổ
chùa Giáng. Các ngài cả đời tận lực vì đạo, cả đời gắng công truyền bá Phật
pháp: giảng kinh, thuyết pháp, viết sách, khắc ván in kinh, lập “Viên Minh pháp
hội”, không cầu danh lợi. Tôi được như ngày nay cũng là nhờ nhẫn nại noi tấm
gương chư Tổ. Từ khi được học giáo pháp của chư Tổ, tôi luôn ghi lòng tạc dạ
“giấy rách phải giữ lấy lề”, kiên trì giữ nền nếp của tổ đình, của Viên Minh
pháp hội.
Gần như cả cuộc đời tu hành của tôi là
kinh qua các cuộc chiến tranh, pháp nạn. Những năm kháng chiến chống Pháp, toàn
bộ sơn môn bị giặc Pháp đốt hết. Cứ dăm bữa, nửa tháng chúng lại đến càn quét,
đốt phá. Làng mạc điêu tàn, chùa chiền sụp đổ. Nhưng tôi xác định, nếu không
bám trụ, kiên trì ở lại, không duy trì thì tan nát hết. Cho dù biết rằng ở lại
có thể chết, mà ra đi, như một vài huynh đệ của tôi, thì cũng không thể quay về.
Mỗi lần chạy loạn đi đâu thì tôi cũng luôn mang theo bên mình những tài sản
tinh thần, lịch sử của chư Tổ. Thà chết thì tôi cũng giữ, vì vẫn tin rằng rồi sẽ
có cơ phục hồi.
Hòa bình lập lại ở miền Bắc, mình tôi
trở về nhìn cảnh tan nát mà lòng xót xa, nhưng phải xây dựng lại để nối dòng
sơn môn Đa Bảo. Những năm đầu, người ta tổ chức cho dân đi các khu kinh tế mới.
Dân ở lại cũng toàn người nghèo, ai cũng phải bươn chải để kiếm sống, làm gì có
tiền hay lương thực đem đến cúng chùa. Chúng tôi tự cày cấy làm ăn, đồng thời
tham gia các công việc xã hội, việc làng nước. Tôi trực tiếp tham gia giảng dạy
các lớp bình dân học vụ, rồi hộ đê, cứu đê, chống lũ lụt. Việc gì tốt thì làm.
Năm 1969 vỡ
đê vùng này, nước ngập chùa, kinh sách ướt hết. Canh cánh nỗi lo mất mát, hư hỏng
tài liệu, kinh sách của chư Tổ, nhất là những thư tịch độc bản, tôi chạy đua với
thời gian, tìm mọi cách để giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Ngay cả khi tôi đã
tám mươi tuổi vẫn còn ra đồng làm lụng tự nuôi thân để ngày đêm miệt mài nghiên
cứu kinh Phật theo nếp của Tổ xưa. Trải qua nhiều thăng trầm thế sự, tôi cùng
các đệ tử phải bền bỉ xây dựng dần lại chùa qua hàng chục năm mới được như ngày
nay. Nhờ chư Phật, chư Tổ gia hộ, nhờ Thầy tin tưởng ủy thác, nhờ ký tính huân
tập từ nhiều đời mà tôi tạm hoàn thành công nghiệp dịch các bộ kinh Phật. Ân đức
của chư Phật, chư Tổ làm sao báo đền cho hết.
* Tự cày
cấy nuôi thân, chạy đua với thời gian để dịch, nghiên cứu kinh Phật để lại công
nghiệp cho Phật giáo nước nhà, mà ngài đã bách niên vẫn không tỏ ra mỏi mệt.
Hòa thượng có bí quyết gì trường thọ để truyền lại cho hậu thế?
- Tôi không có bí quyết gì. Tuổi thọ
không phải là thước đo giá trị của đời người. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh
gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo. Ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51
năm, ngài Pháp Loa có 47 năm mà công nghiệp thì bất khả tư nghì. Tôi trụ thế đến
nay 99 năm, ở chùa 94 năm, thụ Đại giới được 78 năm, nghiệp là tu hành, nuôi
thân thể chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng
tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi.
Nhưng đã hỏi,
thì tôi cũng khuyên muốn sống lâu trước hết phải sạch sẽ từ thân đến tâm. Bốn
mùa, các Tăng trong chùa Giáng đều tự trồng lấy rau ăn mà không phải mua ở bên
ngoài. Rau trồng ở đây không bón phân vô cơ, không phun thuốc trừ sâu nên đảm bảo
luôn sạch, không có chất độc hại. Hàng ngày phải dưỡng sinh, tập thể dục, luôn
vận động thân thể, sinh hoạt điều độ thì có thể hỗ trợ để tăng cường sức khỏe
cơ thể. Về tinh thần, cần tu tâm dưỡng tính, tiết chế mọi ham muốn dục vọng, sống
trong tinh thần lục hòa thì sẽ tăng được tuổi thọ. Nhưng dù sao, cũng không thể
loại trừ được vô thường của sinh lão bệnh tử, vì đó là quy luật của mọi kiếp
nhân sinh.
* Với
người thế tục, để có được cuộc sống thanh bần, an lạc dường như khó khăn hơn...
Lời dạy nào của Hòa thượng nhằm xây dựng một đời sống an lạc, “trường thọ”, an
lạc thực sự?
- Đạo
nghĩa Lục hòa vốn là điều căn bản của Phật giáo. Thân hòa cùng ở; miệng hòa
không cãi nhau; ý hòa cùng vui vẻ; giới hòa cùng tu; kiến hòa cùng giải - thấy
biết kiến thức thì chia sẻ cho nhau hiểu; lợi hòa cùng chia - có của cải, lợi
ích thì chia cân nhau không ai tranh tham phần hơn cho mình. Vui với đạo pháp
mà quên hết phiền não, xóa bỏ đau khổ cho mình và người khác. Nếu tinh thần lục
hòa của Phật giáo mà được đem áp dụng vào đời thì trên từ quốc gia, dưới đến
gia đình, khắp nơi đều an lạc vui vầy.
* Bạch Hòa thượng, hiện ngài ở ngôi Pháp chủ của Giáo
hội nhưng quanh năm vẫn sống và tu ở ngôi chùa làng...
- Suốt đời
tôi chỉ mong được niệm Phật, cầu kinh, không mong cầu danh lợi. Tôi tự thấy
mình chưa có công đức gì nhiều đối với Giáo hội, nhưng các vị trong Giáo hội nước
ta lại ép, đưa tôi lên ngôi Pháp chủ. Lẽ ra, ngôi vị Pháp chủ chỉ Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni có đầy đủ phúc đức, trí tuệ nắm giữ. Miễn cưỡng ngồi lên ngôi
cao, đó không phải là phước mà là cái họa cho chúng tôi. Xin các vị đừng gọi
tôi là Pháp chủ mà hãy cứ nhìn tôi như một lão tăng thanh bần sống trong ngôi
chùa làng là tôi mãn nguyện.
Chùa to cảnh
lớn dù sao cũng chỉ là phương tiện, nên không quan trọng trong việc quyết định
thành tựu của người tu. Tôi cũng được người ta mời trụ trì một vài ngôi chùa lớn,
hoặc những ngôi chùa ở trong nội thành Hà Nội với lời khuyên rằng: Hòa thượng
già rồi, nên ở những ngôi chùa trong thành phố, gần các bệnh viện lớn để tiện
theo dõi, chăm sóc sức khỏe. Nhưng tôi từ chối hết. Vì tôi có trách nhiệm phải
nối dòng sơn môn Đa Bảo, duy trì mạng mạch Phật pháp của Viên Minh pháp hội,
nên phải bám trụ chùa Giáng này.
Sạch sẽ thân tâm...
* Năm qua, trong Phật giáo có nhiều điều không hay
được báo chí khai thác, như hiện tượng một số tu sĩ ăn mặn uống rượu và cho đó
là điều bình thường. Đạo Phật quan niệm vấn đề đó là như thế nào, bạch Hòa thượng?
- Phật
giáo theo hệ phái Nam tông (còn gọi là Tiểu thừa) không ăn chay, nhưng hệ phái
Bắc tông (Đại thừa) thì thường ăn chay. Xưa kia Đức Phật và chư Tăng đi khất thực,
ai cho gì thì các Ngài và chư Tăng dùng cái đó, không đòi hỏi, phân biệt chay mặn.
Trong Phật giáo Ðại thừa, đối với những người thụ Bồ-tát giới phải chịu 48 điều
kiêng cấm, trong đó có nội dung cấm ăn thịt chúng sinh. Thế nhưng thụ Bồ-tát giới
theo truyền thống Tây Tạng, không có giới nào cấm ăn thịt cả. Nói vậy để thấy rằng,
vấn đề ăn chay hay không là tùy thuộc ở từng hệ phái, từng sơn môn, chứ nói đến
chuyện có bắt buộc ăn chay hay không thì Đức Phật không bắt. Riêng sơn môn chùa
Giáng (Viên Minh), tất thảy mọi người đều phải ăn chay trường. Nhà chùa chúng
tôi ăn chay là vì quan niệm thịt các loài vật với thịt mình thì cũng là thịt
thôi.
* Vấn
đề là một số báo chí đề cập về cách sống, cách nói chuyện kiểu “chầy bửa” như
người trần tục của một số Tăng Ni. Là một bậc lãnh đạo Phật giáo VN, ngài nghĩ
gì về việc này?
- Tôi đọc báo thấy phê phán một số nhà
tu đã phóng dật, sống buông thả theo thế gian chứ không phải tu. Tu là gì? Là sửa
chữa những tai hại, sai lầm cho mình và cho người. Việc uống bia rượu, sống xa
hoa với người tu hành là không nên. Người xuất gia nếu không dụng công tu tập
thì chỉ là người tại gia ở chùa. Kính mong quý vị Tăng Ni nếu thấy mình không
có đủ sự tinh tấn tu trì thì nên xả giới hoàn tục, kẻo lâm chung đọa vào ba nẻo
ác.
Trước đây chưa có Giáo hội, chỉ có các
sơn môn, tổ đình, ai theo hệ phái nào thì cứ theo đó mà tu. Từng sơn môn học
theo giáo lý của Đức Phật rồi lại truyền dạy cho mọi người theo Kinh, theo Luật,
theo Luận. Luật thì nghiêm, luận thì sáng suốt, kinh thì thẳng thắn để đưa người
tiến hóa. Từ nhiều năm nay tất cả các sơn môn, các hệ phái Phật giáo nước nhà
đã được thống nhất trong một tổ chức Giáo hội Phật giáo VN. Giáo hội đã đoàn kết
được Tăng Ni cả nước để cùng thực hiện các Phật sự lớn không chỉ ở tầm quốc gia
mà còn ở cả tầm quốc tế. Tuy vậy, việc duy trì luật lệ trong từng sơn môn có phần
lơi lỏng, đó là nguyên nhân khiến một bộ phận Tăng Ni không được kiềm thúc vào
khuôn khổ, xa rời giới luật.
Trong sơn
môn chùa Giáng, chúng tôi duy trì luật lệ rất nghiêm, các Tăng không được sống
buông thả, xa hoa mà phải luôn tu sửa mình. Tôi cũng luôn dạy các đệ tử không
được lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, mà phải tự
mình vừa cày cấy làm ăn, vừa truyền bá giáo lý đạo Phật đem lại lợi lạc cho đời.
* Năm mới, qua Báo Giác Ngộ, Hòa thượng có lời nhắn
nhủ, chúc Tết gì gửi đến Tăng Ni, Phật tử cả nước?
- Kính
mong các bậc tu hành luôn gắng tâm, dụng sức giữ gìn lấy cơ nghiệp của chư Tổ,
giữ gìn lấy hạnh nguyện, Chính pháp của chư Phật. Chúc chư tôn đức Trưởng lão,
chư quý vị Tăng Ni, cư sĩ Phật tử và mọi người dân khỏe mạnh trường thọ, thân
tâm an lạc, có sức, có tuệ, tinh tiến tu tập, trau dồi giới hạnh, nghiêm trì giới
luật, xiển dương Chính pháp, hòa hợp Tăng-già, góp phần xây dựng đất nước hòa
bình, an lạc.
* Kính cảm ơn Hòa thượng!