Ước vọng muôn đời
Tự do dân chủ luôn là một ước vọng
từ nghìn xưa của bao dân tộc, bao thể chế, xã hội. Có người cho rằng ở phương
Tây, ngay trong thời Aristote đã có khái niệm về một xã hội công dân (Civil
society). Bao thế kỷ sau, con người vẫn luôn đau đáu ước mơ ấy dù sống
trong thời quân chủ phong kiến. Chẳng thế mà phát sinh ra Phong trào Khai sáng
(Enlightenment Movement) ở châu Âu đầu thế kỷ XVIII, kêu gọi xây dựng xã
hội trên cơ sở bình đẳng, công lý và những
nguyên tắc bắt nguồn từ quyền lợi
con người. Các luận điểm lớn của phong trào này bao gồm:
- Ðẩy lùi bóng tối là những điều huyền
hoặc, giáo điều, mê tín, bất công, lạc hậu, ngăn cản sự phát triển của
con người.
- Ánh sáng là lý trí, tiến bộ và tự
do.
- Con người tự bản chất luôn hướng
về chân, thiện, mỹ.
- Mọi người đều bất khả xâm phạm,
bình đẳng trước luật pháp và tự do cá nhân.
Ngay từ ngày Phật còn tại thế,
Người đã khuyên các vị quốc vương như Ba Tư Nặc
và Tần Bà Sa La trị nước và giữ nước bằng đạo đức nhiều hơn
bằng hình phạt
Xã hội càng văn minh, nhu cầu tự do
dân chủ của con người càng tăng lên và
có nhiều điều kiện thực thi hơn.
Ðất nước chúng ta cũng không thoát
ngoài quy luật ấy. Chúng ta đang xây dựng những thể chế nhằm phát huy tiếng nói
người dân, mở rộng phản biện xã hội, nhưng cũng phải thấy rằng còn đó những lực
cản, xuất phát từ tư duy của “một bộ phận" những nhà quản lý xã hội, những
công chức nặng tính giáo điều, xem nặng cái riêng của mình hơn cái chung của
cộng đồng, sợ hãi và phủ nhận tự do cá nhân.
Vết xe đổ của những nước Ðông Âu
thập niên 80 thế kỷ trước được một số
nhà lý luận nhận định: “Những sai lầm nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ hàng loạt
nước xã hội chủ nghĩa thời gian qua có
một trong những nguyên nhân bắt nguồn từ
chỗ coi tự do dân chủ là cái để ban phát, để mở rộng cũng được mà muốn khép lại
lúc nào cũng được, thực hiện cũng được mà không
thực hiện cũng được, phủ nhận hoàn toàn những thành tựu mà các nền dân
chủ trước đã đạt được, phủ nhận yếu tố nhân loại trong các giá trị dân chủ.” (1)
Nếu xem dân chủ là biện pháp duy
nhất tạo ra sự phát triển và hạnh phúc cho con người, thì chúng ta mới đảm bảo
được mọi giá trị cuối cùng của sự phát triển được phân phối công bằng đến từng
con người, lúc đó phát triển không chỉ là vấn đề chung của xã hội hay quốc gia
mà còn là vấn đề riêng của từng cá nhân
con người tạo nên tập hợp đó. “Tự do không chỉ là linh hồn của sự phát
triển mà chính là sự phát triển”(2)
Nhân mùa Phật đản, chúng ta hãy
đọc lại, xem từ ngàn xưa Phật đã dạy chúng ta những gì?
Giáo lý Phật
dạy về dân chủ
Ngay từ ngày Phật còn tại thế,
Người đã khuyên các vị quốc vương như Ba Tư Nặc và Tần Bà Sa La trị nước và giữ nước bằng đạo đức nhiều hơn
bằng hình phạt. Hình ảnh quốc vương cũng đồng thời là một vị Bồ-tát hộ pháp đã
được tiếp tục xây dựng qua nhiều thế hệ. Vua A Dục là một người như thế sau khi
chinh phục được toàn Ấn Ðộ, thấy
được thảm cảnh bao sinh linh bị tàn sát,
vua đã phát tâm quy y, hỗ trợ tự viện,
Tăng đoàn, kết tập, đại hội Phật giáo, đã dựng trụ đá ca ngợi Phật và khuyến
khích dân chúng tu học và làm lành.
Hình tượng mẫu mực cho những vị quốc vương
khác noi theo, đó là hình ảnh Chuyển Luân Thánh Vương (Cakravartirājan), được
mô tả như sau: “Ðó là một vị vua thống suất quân ngũ, công minh (tiếng Phạn:
dhārmika), một vị vua theo Chánh pháp, có đủ bảy báu: chiến xa, voi, ngựa, châu
báu, cung phi, bách quan và tướng soái. Vua có một trăm con trai, đều là những
thanh niên anh hùng và đẹp đẽ, có thể chiến thắng được quân đội của bất cứ kẻ
thù nào.
Vua chinh phục đất đai rộng rãi cho tới bờ đại dương, rồi tháo bỏ tất
cả những nguyên nhân gốc rễ đưa tới nghèo đói và bạo hành. Vua trị nước mà
không cần trừng phạt, không sử dụng gươm đao mà chỉ sử dụng đạo đức, Chánh pháp
và phủ dụ. Tu tập Chánh pháp cho tự thân, vua dạy cho hoàng hậu, cung phi và
các vương tử cùng thực tập theo. Vua lại khuyên các đại thần bách quan tu tập
theo Chánh pháp, và khuyên dân chúng nên thực tập theo Chánh pháp.
Vua thường
tới lui thăm hỏi các vị Sa-môn và Bà-la-môn để tham vấn và học hỏi. Nếu trong
vương quốc có những vị Sa-môn đắc đạo, tu hành thanh tịnh, có tinh tiến, có
nhẫn nhục, không kiêu mạn thì vua phải tới tham vấn về các vấn đề thiện và ác,
tôn trọng và vi phạm, nên gần gũi ai, nên không gần gũi ai, nên làm gì, nên không
làm gì, thực tập theo những pháp môn nào mà có được hạnh phúc lâu dài. Vua biết
chu cấp cho cô nhi, quả phụ, tôn trọng luật pháp cổ truyền .v.v…".(3)
Các vị cao tăng trong nước có bổn
phận nhắc nhở các vị quốc vương hành xử
theo Chánh pháp, và các vị quốc vương biết rằng nếu được quần chúng Phật giáo
yểm trợ thì việc cai trị sẽ dễ dàng hơn, cho nên các vị quốc vương ấy cố gắng
đi theo con đường đức trị hơn là pháp trị. Vua Jayavarman VII của Campuchia
cũng tin mình là một vị vua Phật, đã tạc tượng mẹ của mình dưới hình thức
Bát-nhã Ba-la-mật, bởi vì theo Phật giáo, Bát-nhã Ba-la-mật là mẹ của chư Phật.
Vào thế kỷ thứ XX mà ở Thái Lan vẫn có vị vua tự gọi mình là Thánh Sư Phật (Phra Phutticchao). Ở Việt Nam, vào đời
Lý-Trần, các vua đều tu học, đều muốn
noi theo con đường đức trị, và vai trò của các thiền sư hết sức quan trọng
trong công cuộc hộ quốc an dân như Sư
Vạn Hạnh hay đến vị vua thường được gọi là Phật hoàng Trần Nhân Tông đã dạy dân theo Chánh pháp, lấy bản thân mình
làm tấm gương cho mọi người: thoái vị, xuất gia, tinh tấn giới đức.
Trước khi Ðức Thế Tôn rời thành
Magadha (Vương-xá) đến Kusinārā (Câu-thi-la) nhập diệt, vua Ajātasattu (A Xà
Thế ) sai vị đại thần Vassakāra (Võ Xá) đến thăm dò ý kiến của Ðức Phật về mưu
định của nhà vua muốn thôn tính nước Vajji(4). Ðức Phật đã phân tích
tính chất và thực trạng xã hội của quốc gia nhỏ bé sắp bị xâm lăng này:
- "Này Ananda, người có nghe
rằng những người Vajji thường hội họp với số lượng đông đảo không?(5)
- Dân Vajji có đoàn kết khi hội
họp, đoàn kết khi giải tán và đoàn kết khi làm việc không?
- Dân Vajji có sống đúng với truyền thống của
dân tộc, và tôn trọng những luật pháp đã được ban hành từ thời xưa không?
- Dân Vajji có tôn kính những bậc trưởng lão
trong nước và nghe theo lời dạy của những vị này không?
- Dân Vajji có cưỡng ép những thiếu nữ và phụ
nữ bắt họ phải sống chung với mình không?
- Dân Vajji có thường xuyên dâng lễ ở các nơi
thờ tự không?
- Dân Vajji có bảo vệ và tôn kính các bậc
A-la-hán khiến các vị ấy tìm đến ở trong xứ để xứ sở được an lạc không?”
“Bạch Thế Tôn! Họ đi họp rất đều. Trong khi tụ tập, họ
tụ tập rất đoàn kết và khi giải tán, họ giải tán rất hoan hỷ”, ngài Ananda đáp.
“Tốt, Ananda, chừng nào người
Vajjian thường hội họp với số lượng đông đảo, lúc ấy sự thịnh vượng của họ tăng
thêm mà không suy giảm. Này Ananda, chừng nào người Vajji hội họp với nhau
trong sự hòa hợp, chừng nào họ quyết định và làm việc với nhau trong sự hòa
hợp, chừng nào họ giữ trọn luật lệ mà không có sự xáo trộn trật tự, chừng nào
họ kính trọng và lễ bái những bậc trưởng thượng và vâng lời những bậc ấy; chừng
nào phụ nữ và thiếu nữ của họ đi ra ngoài mà không bị sự hiếp bức, chừng nào họ
tôn kính và lễ bái đền chùa của họ, chừng nào họ còn gìn giữ mà không khinh bỏ
phong tục, chừng nào họ còn bảo vệ tôn kính và ủng hộ các bậc tu hành đạo đức,
thì lúc ấy sự thịnh vượng của người Vajji tăng thêm mà không suy giảm”.
Chính những lời dạy này đã làm cho
vua Ajatasattu bỏ ý định chinh phục nước này vì sợ không thể thắng được một
nước mà toàn dân sống tự do, đoàn kết dưới chế độ dân chủ. Chúng tôi nghĩ rằng
dân tộc Việt Nam
chúng ta nếu muốn thịnh vượng cũng không thể làm gì khác hơn là áp dụng những
nguyên tắc dân chủ trên.“Bảy pháp bất thối” này có thể tóm tắt bằng những danh
từ thời đại:
1. Sinh hoạt dân chủ,
2. Tình đoàn kết dân tộc,
3. Nguyên tắc pháp trị,
4. Sự hòa hợp các thế hệ,
5. Tôn trọng phụ nữ,
6. Tôn kính các tín ngưỡng, và
7. Ưu đãi các bậc minh triết.
Ðây là những yếu tố hình thành
trọng lực quốc gia, nguyên tắc quy tụ lòng người, hợp quần sức mạnh mà dân
Vajji đã có được. Cho dù quân xâm lược hùng mạnh có thôn tính được đất nước họ
đi chăng nữa, cũng không sao thủ tiêu được bản sắc dân tộc và ý chí yêu nước
của họ. Sau khi nghe bảy điều kiện của một quốc gia cường thịnh mà dân chúng
nước Vajji đã hội đủ, đại thần Vassakāra xin cáo từ Ðức Phật; biết vua xứ
Magadha không thể nào chiến thắng được quốc gia Vajji, nên cuộc chiến không xảy
ra.
Hiện thực hóa ước mơ ấy
Chúng ta hơn lúc nào hết cần phải hiện thực hóa ước
vọng dân chủ ấy vì đó là tiền đề nền tảng xây dựng khối đoàn kết toàn dân, tăng
cường cộng lực (synergy) của đất nước trước những hiểm họa của thời đại. Chúng
ta phải cảnh giác trong thế giới đầy
vọng tưởng và bạo động như hiện nay, chiến tranh khu vực diễn ra dù trên bình
diện hẹp ở Ukraine và một vài quốc gia
châu Phi đem đến đói khát, tật bệnh, những cuộc di tản của dân chúng sang châu
Âu đầy hiểm nguy, liều lĩnh. Cuộc chiến tranh giữa dòng Sunni và Shiite trong
đạo Hồi; giữa đạo Hồi và Cơ Ðốc; “chiến
tranh lạnh” giữa Nga và NATO đang diễn biến xấu, tham vọng chiếm trọn biển Ðông
của Trung Quốc gây nên nỗi bất an vì lòng tham của những kẻ bá quyền mơ “giấc
mơ Ðại Hán”, đang đẩy nhân loại đến bờ vực diệt vong.
Còn trong nước, tình
trạng hành xử bạo lực giữa người với người, trong gia đình hay ngoài xã hội đã
trở nên đáng báo động, không ngày nào không có án mạng (!) vì những lý do từ
nghiêm trọng đến vô lý, như “đi nhầm phòng karaoke, xỏ nhầm dép , va quẹt
xe…".
Xưa Phật đã dạy: “Này các Tỷ-kheo, do dục vọng làm duyên, nên vua
tranh chấp với vua, Sát-đế-lỵ tranh chấp với Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn tranh chấp
với Bà-la-môn, gia chủ tranh chấp với gia chủ, cha mẹ, anh em, bè bạn tranh
chấp lẫn nhau. Khi chúng đã dấn thân vào sự tranh chấp, chúng đánh nhau bằng
tay, ném nhau bằng đá,đập nhau bằng gậy và chém nhau bằng gươm. Do đó, chúng bị
tử thương, hoặc ngắc ngư quằn quại.”(5)
Sự tranh chấp sở dĩ xảy ra, nếu
không do lòng dục thúc đẩy, thì cũng do sự cuồng tín cố chấp gây nên,
“Ác nghiệp
chưa chín muồi,
Kẻ ngu tưởng đường mật.
Ác nghiệp khi chín thật,
Kẻ ngu chuốc khổ đau”.
(Pháp Cú, 69)
Trước tình hình ấy, ôn chuyện cũ mà
lo chuyện nay, đọc lại lời dạy của Ðức
Phật hơn hai ngàn năm qua, chúng ta thấy Người đã có cái nhìn thấu thị từ ngàn
xưa, về quy luật vận hành của thế gian và con người, về tư tưởng dân chủ và
hướng thiện mà xã hội cần xây dựng trên nền tảng nhân bản và quanh trọng tâm
ấy. Chúng ta hiểu nguyên lý tương sinh, tương tức và cộng nghiệp. Chỉ có dân
chủ mới đem lại giá trị cho con người và sức mạnh cho cộng đồng, mở rộng ra là
đất nước.
Sử gia Ấn Ðộ Ramesh Chandra Majumdar gọi Ðức Phật là vị Tổ của nền
dân chủ bởi vì chính Người đã dựa trên cái gọi là truyền thống dân chủ
trong nền chính trị Ấn Ðộ cổ xưa. Trong
đó người ta được tranh luận cho điều phóng khoáng hơn là tuân theo sự phân loại
chính trị theo những thể chế hẹp hòi. Tinh thần dân chủ thấm đẫm trong giáo lý
nhà Phật thể hiện trong tư duy, trong sinh hoạt, trong phương pháp hành trì tu
học, trong quan điểm nhân duyên và nghiệp lực khi mà xã hội thế giới này đẹp
hay xấu, vui hay buồn, hòa bình hay chiến tranh là do con người với tư cách là
chủ thể từ ba nghiệp - thân, khẩu, ý mà ra…
Những nhà lãnh đạo, nhất là giới
chức cầm quyền, đều phải ý thức về điều
này trong quá trình xây dựng tổ chức xã hội…Nơi nào sự bất công áp bức, mầm bất
thiện còn tồn tại thì sự bất ổn vẫn tiềm tàng như mạch nước ngầm đang tuôn chảy
nhưng nếu không hòa nhập vào nhánh sông ra biển mà thành lũ dữ sóng thần đe dọa
phá vỡ con đê quyền lực. Phải khơi mạch dân chủ để mọi nguồn nước tuôn chảy vào
dòng sông hạnh phúc và biển tự do. Ðược như thế, sức mạnh dân tộc nhân lên gấp
bội!
Nguyên Cẩn
______________
(1) Vũ Duy Phú (chủ biên), Xã hội dân sự, NXB.Tri Thức 2013.
(2) Amartya Sen-Development as
Fredom - Oxford University Press -2001.
(3) Kinh (Divyāvadāna)
(4) Vajji (tức Vrijji): một bộ
tộc theo thể chế Cộng hoà (Solas Mahajanapadas; republics), nơi giao thương
giữa 16 Ðại Vương quốc (Mahājanapadas: Great kingdoms), rất tiến bộ và thịnh
vượng, thuộc miền Bắc lưu vực sông Hằng, một phần của miền Nam và Tây Nam Ấn Ðộ châu lục. Theo Anguttara
Nikāya I, P.213; IV, PP.252, 256, 261: Phật giáo phát triển rất thịnh hành tại
đây vào thời Phật tại thế.
(5) Anguttara Nikāya IV.