Theo định hướng phát triển giáo dục trong thời đại mới, Ủy
ban khoa học, giáo dục và văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã đề xướng mục
đích học tập là: "Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự
khẳng định mình". Hiểu một cách ngắn gọn là: Học để phát triển toàn
diện, hài hòa về trí tuệ, kỹ năng, lẫn đạo đức, lối sống.
Ngày nay, trong khi con người đang tiến những bước dài trên con đường
phát triển, hướng đến xã hội tri thức, xã hội mở thì nhiều “nguy cơ”
lớn đặt ra cho toàn xã hội, trong đó sự xuống cấp về đạo đức, lối sống
đang trở thành một vấn nạn toàn cầu, đáng buồn thay tình trạng đó lại
diễn ra nhiều nhất trong thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên – những chủ
nhân tương lai của xã hội. Và Việt Nam là một trong những quốc gia đang
cần gióng lên hồi chuông báo động về đạo đức, lối sống. Đứng trước yêu
cầu phát triển bền vững của đất nước, Việt Nam cần
thiết phải xây dựng một nền tảng đạo đức mới, phù hợp với thời đại trên
cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trải qua khoảng 20 thế kỷ tồn tại và phát triển cùng với dân tộc,
Phật giáo đã để lại những ảnh hưởng sâu sắc trong lịch sử, văn hóa – xã
hội. Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, Phật
giáo đã dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo
đức, hướng con người đến lối sống vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế đã
chứng minh, Phật giáo phù hợp với đạo đức, lẽ sống của con người Việt
Nam, và nó đã có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Ngày nay, trong bối cảnh văn hóa, kinh tế, chính trị phức
tạp, chúng ta cần phát huy mạnh mẽ những giá trị tích cực của tôn giáo
này để góp phần xây dựng nền tảng đạo đức của con người Việt Nam nói
chung và thế hệ học sinh – sinh viên nói riêng.
1. Tư tưởng Phật giáo về đạo đức, lối sống và sự cần thiết
phải vận dụng nó vào việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh – sinh
viên Việt Nam hiện nay
1.1. Tư tưởng Phật giáo về đạo đức, lối sống
Tư tưởng từ bi, hỷ xả của Phật giáo hướng con người đến
việc xây dựng nếp sống trong sáng, lành mạnh, một tinh thần hướng thiện
thực sự.
Là một trong những thành tố tạo nên nền văn hoá dân tộc trong suốt
hàng nghìn năm, Phật giáo ngày nay vẫn lưu giữ những giá trị tích cực có
thể góp phần xây dựng đạo đức lối sống cho con người Việt Nam. Tính
hướng thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa
nhân đạo; lòng từ bi, bác ái góp phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững
tinh thần lá lành đùm lá rách của dân tộc, triết lý vô thường, vô ngã
giúp con người giảm bớt cái tôi vị kỷ…
Giáo lý nhà Phật khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ
hiếu làm đầu: “hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”, “muôn việc
ở thế gian không gì hơn công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ”[1]....
Đó là những giá trị tích cực, thiết thực góp phần giáo huấn con người,
giúp cho thế hệ trẻ vững bước trước những cám dỗ của cuộc đời, khích lệ
họ quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương thiện, coi trọng tính
nhân bản...
Phật giáo khuyên con người giữ ngũ giới: không sát sinh, không trộm
cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu/bia. Kinh Sigalovāda
(Kinh Giáo thọ Thi -ca-la-việt) thuộc Trường Bộ đề cập đến chuẩn mực đạo
đức của giới tại gia. Đức Phật nêu 14 điều tội lỗi mà giới tại gia nên
tránh:
- Bốn phiền não: Giết hại các quần sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối.
- Bốn trường hợp gây tổn hại: Tham dục, sân hận, sợ hãi, vô minh.
- Sáu việc làm cho tiền tài mỗi ngày một hao giảm: Thích uống chất
gây say, tham đắm nữ sắc, ưa cờ bạc, thích ngủ nhiều, thích chơi bời
ngoài đường, lười nhác.
Phật giáo khuyên con người nên đạt được các pháp hoàn thiện
(pàramitas), gồm: (1) Bố thí, (2) Trì giới, (3) Xuất gia, (4) Trí tuệ,
(5) Tinh tấn, (6) Nhẫn nại, (7) Chân thật, (8) Quyết định, (9) Tâm từ,
(10) Tâm xả[2]. Phật nói: “Hãy để cho con người vượt qua sự giận dữ bằng tình thương, hãy để cho con người khắc phục tội lỗi bằng điều thiện”[3].
Theo cách này, đức Phật nói, nếu bất cứ ai thực hành các chỉ dẫn này sẽ gặt hái được ích lợi.
Sau khi thực hành, các đức tính phát triển là đại từ, chánh nhân, vị
tha, chánh kiến và xa lìa kiêu ngạo, tự phụ.... Trước lúc nhập diệt,
Người còn căn dặn rằng: “Hủy diệt là thuộc tí nh của vạn vật trên thế
gian này. Các con hãy tự cứu lấy mình với sự chuyên cần”[4].
Có thể nói, quan niệm về từ bi hỉ xả và làm việc thiện là một trong
những quan niệm giá trị nhất của Phật giáo. Nó không chỉ giúp con người
sống cuộc đời đạo đức, lành mạnh mà còn giúp ngăn ngừa và vượt qua các
tệ nạn xã hội (nhất là trong xã hội ngày nay); đồng thời nó kích thích
con người yêu thương lẫn nhau và làm nhiều việc thiện (nhất là trong mặt
trái của nền kinh tế thị trường ngày càng nhiều người sống ích kỷ, mưu
lợi cho cá nhân, suy đồi nhân cách). Nếu có nhiều quốc gia và người dân
thực hành các pháp hoàn thiện như đức Phật đã thực hành thì chúng ta sẽ
xây dựng được một cộng đồng chia sẻ, đùm bọc nhau trong tình thân ái. Vì
thế, Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây
dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm”[5] .
Trong mối quan hệ giữa con người với con người, tư tưởng
Phật giáo luôn hướng đến việc xây dựng các mối quan hệ bình đẳng, ôn
hòa, tôn trọng lẫn nhau:
- Về vấn đề bình đẳng giới:
Bình đẳng giới tính và nữ quyền thuộc về những vấn đề quan trọng nhất
của thời đại mới. Trong đa số các nền văn hóa, giới nữ thường chịu
nhiều bất công. Do đó tranh đấu về bình đẳng giới tính thường là đồng
nghĩa với tranh đấu cho nữ quyền. Ở Việt Nam hiện nay, công tác đấu
tranh cho bình đẳng giới vẫn đang là một trong những nội dung quan trọng
trong việc xây dựng một xã hội bình đẳng. Trong cuộc đấu tranh này, sự
đấu tranh về tư tưởng là điều quan trọng nhất, bởi khi nhận thức thay
đổi thì hành động cũng thay đổi theo. Về mặt tư tưởng bình đẳng giới,
(theo chúng tôi) Phật giáo chứa đựng những tư tưởng rất thiết thực.
Xã hội thời của Đức Phật Thích Ca sinh ra dường như người ta sống
dưới sự thống trị của giai cấp giàu có và đầy quyền lực. Cuộc sống của
con người luôn phải chịu đựng sự áp bức bất công, đau khổ, nghèo đói, ly
tán. Nữ giới không bao giờ được xếp ngang hàng với nam giới trong xã
hội. Quan niệm hẹp hòi này không phải chỉ có ở người dân thường mà nó
còn tồn tại trong hàng vua quan.
Đức Phật Thích Ca đã tìm hiểu rõ vấn đề này và Ngài đã làm một cuộc
cách mạng quan trọng để giải thoát nữ giới ra khỏi những tư tưởng áp bức
cố hữu và đã nâng cao địa vị của họ trong xã hội, để họ có thể hưởng
được quyền lợi của mình như mọi người. Chính đức Phật đã truyền giảng
cho kế mẫu của mình là Kiều Đàm nhi (Mahabaxabadê) giác ngộ. Điều này
cho phép mở ra việc tu hành cho ni giới sau này, kể cả trong Phật giáo
Theravada. Học giả Daisaku Ikeda trong một nghiên cứu của mình đã nêu
lên một nhận xét về tinh thần bình đẳng của Phật giáo như sau: “vượt qua
những quan điểm hẹp hòi về huyết chủng, đẳng cấp và dân tộc, Phật giáo
thể hiện tính kiên quyết về sự bình đẳng của bốn đẳng cấp truyền thống
trong xã hội Ấn Độ”[6].
Trên phương diện xã hội, Đức Phật Thích Ca có dạy cách vợ chồng phải
đối xử với nhau như thế nào, qua đoạn kinh Thiện Sanh : "Người chồng nên
lấy năm điều mà yêu thương cấp dưỡng vợ như : Một là yêu thương vợ. Hai
là không khinh rẻ. Ba là sắm các thứ chuỗi ngọc, đồ trang điểm. Bốn là ở
trong nhà để vợ được tự do. Năm là xem vợ như chính mình.”[7].
Từ câu "Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành
Phật" của Đức Phật Thích Ca, là chứng nhân cho một giá trị tôn trọng
quyền bình đẳng (trong đó có bình đẳng giới) của Ngài trong việc cùng
nhau tự tu tập, giác ngộ và giải thoát.
- Tư tưởng Phật giáo luôn hướng con người có thái độ hành xử
công bằng và tôn trọng các quyền cơ bản của con người Từ khi có mặt
trên thế giới này, sự công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do là những
ước vọng muôn đời của con người. Những ý niệm ấy được đặt trên nền tảng
của đạo đức. Nếu thiếu đạo đức thì công bằng xã hội chỉ mang tính lý
thuyết nhiều hơn là hiện thực. Liên quan đến vấn đề này, hơn 2500 năm
qua, Phật giáo đã thể hiện được rất nhiều sự quan tâm thiết thực. Sở dĩ
như vậy là vì mục tiêu của đạo Phật là kiến tạo cho đời sống nhân sinh
những giá trị mang chất liệu của hạnh phúc, yêu thương, an lạc.
Trong rất nhiều bộ Kinh, đức Phật đã dạy về công bằng xã hội và nhân
quyền. Theo Phật giáo, mỗi người đều giống nhau và đáng được giữ gìn
nhân phẩm và sống cuộc sống có phẩm chất. Đức Phật dạy trong Kinh Vasala
(Kinh Kẻ Bần Tiện), “Bần tiện không vì sinh, Phạm chí không vì sinh”[8].
Tư tưởng bình đẳng trong những lời dạy của Đức Phật Thích Ca là một
tro ng những điều tốt đẹp và tiến bộ cho nền Phật học ngày nay. Một
trong những lời bình dị đơn giản của Đức Phật Thích Ca đã nói, nhưng ít
ai để ý đến đó là: "Một người trở nên cao quý hay thấp kém là do ba
nghiệp của họ, chứ không phải do nơi chốn mà họ sinh ra"[9].
Là một tôn giáo, Phật giáo cũng quan tâm đến vấn đề giải thoát cho
con người. Bên cạnh tôn trọng và khẳng định những quyền cơ bản của con
người, Phật giáo không loại bỏ những quyền của các sinh vật khác như thú
vật và cây cỏ. Phật giáo cũng có mười điều răn: không được giết người,
không được trộm cắp, không được nói dối, vv… Trong tất cả những điều răn
của Phật giáo đều hàm chứa một điều: không nên hủy diệt cuộc sống, lời
khuyên này không những áp dụng cho con người mà còn cho cả muôn loài có
tri giác.
Phật giáo không tách rời lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội mà nhấn
mạnh đồng thời, lợi ích cá nhân và xã hội phải đi cùng để tạo ra một sự
hạnh phúc cho nhân loại. Triết lý này của Phật giáo có thể bắt gặp trong
5 giới điều, chuẩn mực nền tảng đạo đức của Phật giáo. Con người nên
tuân giữ 5 giới để làm cho cuộc sống không bị tổn hại, không vi phạm
pháp luật quốc gia, vì lợi ích cá nhân và lợi ích cho cả xã hội. Chúng
cần thiết để hình thành xã hội dân chủ, cuộc sống an lành. Do vậy, Phật
giáo không phải là một tôn giáo cách ly xã hội, mà là tôn giáo có tính
xã hội, với tinh thần “nhập thế” hết sức sâu, đó là lý do hàng trăm
triệu người trên khắp thế giới theo Phật giáo.
Hơn nữa, E.F. Schumacher trong tác phẩm “Nhỏ mà đẹp” đã viết, trong
Phật giáo sự phát triển không nằm ở của cải, nó bắt đầu từ con người,
học vấn, sự tổ chức và đạo đức của con người. Phật giáo không khuyến
khích cạnh tranh mà khuyên nên hợp tác, đó là một biện pháp thích hợp
nhất giải quyết khủng hoảng kinh tế, bất ổn chính trị, xã hội và thực
hiện công bằng xã hội[10]. Không phải ngẫu nhiên mà nhà triết học thông thái người Đức P. Neitzch – đã đề cao ý nghĩa thực tiễn của giáo lý nhà Phật: “Phật
giáo đã nhận lãnh trách nhiệm đặc các vấn đề một cách khách quan và
bình tĩnh … Phật giáo không kích thích người ta làm chiến tranh chống
các tôn giáo khác. Điều cảm động nhất chính là ở chỗ giáo lý nhà Phật
chống lại tư tưởng phục thù, hằn học, oán ghét” [11]
Trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, tư tưởng Phật
giáo hướng con người đến việc tôn trọng và xây dựng môi trường bền vững.
Phật giáo đưa chúng ta tới một thái độ đúng hơn đối với vấn đề môi
trường, một trong những vấn đề lớn trong thời đại của chúng ta. Trong
lời răn không được hủy diệt cuộc sống thì quyền sống của thú vật và cây
cỏ cũng được tôn trọng như con người. Thiên nhiên không những lệ thuộc
vào con người, mà ngược lại con người cũng lệ thuộc vào thiên nhiên.
Khi chúng ta bàn về những ảnh hưởng tích cực đến môi trường sống của
nhân loại từ giáo pháp của đức Phật, chúng tôi nhận thấy, yếu tố cần
thiết phải xét đến là cách giải quyết đời sống kinh tế của loài người mà
đức Phật quan tâm đến. Bởi đây là một trong những nguyên nhân gây nên
sự tàn phá môi trường. Về điều này đức Phật đã dạy đệ tử cần phải thực
hiện “chánh mạng”, nghĩa là phải kiếm sống một cách lương thiện, đúng
đắn, không làm tổn hại cho mình, cho người và muôn loài.
Cách ứng xử về vấn đề kinh tế như vậy, nếu được thực hành một cách
trọn vẹn, thì chúng ta sẽ thực hiện việc bảo vệ môi trường sống của con
người một cách hoàn hảo . Thực hiện phương cách sống “chánh mạng”,
chúng ta sẽ không tàn phá rừng và săn giết muôn thú vô tội vạ (nếu như
nó không thực sự tối cần thiết cho cuộc sinh tồn). Cùng với thực hành
“chánh mạng” trong Bát Chánh Đạo, đức Phật dạy bảo Phật tử phải giữ giới
“không được sát sanh” để tăng trưởng lòng từ bi[12].
Có thể nói đây là những việc làm thiết thực, âm thầm và lâu dài trong
việc bảo vệ môi trường sống của con người một cách hoàn hảo nhất.
Lời dạy của Đức Phật Thích Ca trong Kinh Từ Bi là minh chứng rõ ràng
và toàn diện cho tư tưởng tôn trọng và sống hòa hợp với tự nhiên, vạn
vật: "Nguyện cho mọi người và mọi loài được sống trong an toàn và hạnh
phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi; nguyện c ho tất cả các loài sinh
vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài
mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ,
những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không thể nhìn thấy, những
loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh;
nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng
của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và
khốn đốn"[13].
1.2. Sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Phật giáo vào việc
giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh – sinh viên Việt Nam hiện nay:
Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Tôn
trọng và phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn
giáo”[14]. Việc vận dụng tư tưởng vào việc giáo
dục đạo đức, lối sống cho học sinh – sinh viên Việt Nam hiện nay là rất
cần thiết, xuất phát từ cơ sở thực tiễn lẫn cơ sở khoa học.
Vài nét về thực trạng đạo đức, lối sống của học sinh – sinh viên Việt Nam hiện nay:
Việt Nam đã và đang đạt được những tiến bộ vượt bậc kinh tế, khoa học
kỹ thuật... nhưng mặt trái của nền công nghiệp, của kinh tế thị trường
làm cho “môi trường nhân văn” bị ô nhiễm trầm trọng. Đạo đức, lối sống
của nhiều người bị suy thoái, nhiều biểu hiện của lối sống xa lạ, trái
với thuần phong mỹ tục trong một bộ phận cộng đồng dân cư diễn ra ngày
càng phổ biến, đặc biệt là ở giới trẻ, học sinh – sinh viên. Họ có thiên
hướng đề cao cá nhân, sống ích kỷ, lạnh lùng, ít chú ý đến nghĩa vụ và
trách nhiệm ….
Hiện nay, số lượng trẻ vị thành niên nói chung và học sinh, sinh viên
nói riêng phạm pháp đang gia tăng theo xu hướng trẻ hóa và mức độ tội
lỗi ngày càng nghiêm trọng. Hàng loạt những hiện tượng đau lòng diễn ra ở
chốn học đường gần đây khiến cho chúng ta không thể làm ngơ. Theo thống
kê cho thấy 55 – 65% số người phạm tội ở nước ta những năm gần đây là
thanh, thiếu niên, trong đó có không ít học sinh, sinh viên. Kết quả
điều tra gần đây của Viện nghiên cứu và phát triển Giáo dục Việt Nam cho
thấy: Càng học lên cao thì số học sinh, sinh viên vi phạm đạo đức càng
tăng lên.
Biểu hiện vi phạm
|
Tiểu học
|
THCS
|
THPT
|
CĐ, ĐH
|
Tỉ lệ đi học không đúng giờ
|
20%
|
21%
|
58%
|
85%
|
Tỉ lệ quay cóp
|
8%
|
55%
|
60%
|
69%
|
Tỉ lệ nói dối cha mẹ
|
22%
|
50%
|
64%
|
83%
|
Tỉ lệ vi phạm Luật giao thông
|
4%
|
35%
|
70%
|
84%
|
Năm 2007, khảo sát từ 30 trường ĐH, CĐ cho thấy: 51,4% SV cho rằng
“Sống thử trước hôn nhân” là hiện tượng phổ biến. Số liệu khác của ủy
ban Dân số – Kế hoạch hóa gia đình năm 2007 đã báo động: mỗi năm cả nước
có hơn 1,5 triệu vụ nạo phá thai, trong đó tuổi vị thành niên chiếm
trên 35% (trong đó khoảng 20% là học sinh, sinh viên)[15].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, đại ý rằng: Thanh niên là người chủ
tương lai của đất nước, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần
là do thanh niên. Nghị quyết Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã chỉ rõ phương hướng nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong
thời kỳ mới: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính
trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức
cộng đồng, lòng nhân ái, kho an dung, tôn trọng tình nghĩa, lối sống có
văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và toàn xã hội”[16].
Vì vậy, trước yêu cầu phát triển của đất nước, việc xây dựng một nền
tảng đạo đức, lối sống mới theo hướng nhân văn, tiến bộ và bền vững cho
thế hệ trẻ, học sinh – sinh viên hiện nay là rất cần thiết.
- Một vài nét về ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo đến đời sống của người Việt Nam:
Trong lịch sử Việt Nam, Phật giáo có một ảnh hưởng lâu dài từ đầu
Công nguyên cho đến ngày nay. Phật giáo đã trở thành một phần không thể
tách rời của dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam quen niệm “Nam mô A Di Đà
Phật”. Trong văn học cũng như trong đời sống thường nhật, người ta hay
nhắc nhở hình ảnh Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn… Đó là kết quả của một
quá trình chọn lọc của nhiều thế hệ tu hành và có lẽ quan trọng hơn còn
là sự lựa chọn của quần chúng. Từ đó Phật giáo đi vào cuộc sống, vào
tâm thức Việt Nam.
Trong suy nghĩ của một số dân tộc châu Á nói chung và nhân dân Việt
Nam nói riêng, đạo Phật là một trong những tôn giáo có nhiều đóng góp
nhất cho xã hội loài người. Thậm chí, có y‟ kiến còn cho rằng, chính đạo
Phật đã mở ra con đường văn minh đầu tiên cho dân tộc.
Nếu như Nho giáo đã đóng vai trò tư tưởng quan trọng như thế nào ở
các nước Đông Bắc Á như Trung quốc, Nhật Bản hay Triều Tiên, thì ở các
nước Đông Nam Á lục địa như Thái Lan, Myanma, Việt Nam, Campuchia hay
Lào, Phật Giáo đóng vai trò quan trọng như thế. Phật giáo đã trở thành
một bộ phận trong tư tưởng và quan niệm của cư dân bản địa, là sợi dây
vô hình gắn kết các bản mường, các cộng đồng người khác nhau trong cùng
một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau. Phật giáo được coi là một
phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt
Nam v.v...
Vai trò của Phật giáo đặc biệt được thể hiện một cách tập trung, sinh
động ở ngôi chùa. Ngày xưa, chùa là trung tâm tôn giáo – giáo dục – văn
hóa trong từng bản làng, thôn xóm. Chùa được hình thành không chỉ để
làm tròn chức năng tôn giáo mà còn làm tròn chức năng giáo dục đào tạo.
Nhiều bài học đạo đức luân lý của nhà Phật được các Sư Tăng mà cũng
là các giáo viên thuyết giảng đã giúp ích cho các thế hệ thanh thiếu
niên theo đó tu bồi nhân phẩm, sống theo lý tưởng và nền nếp nhà Phật
với một tâm hồn dịu dàng, một lòng vị tha, trung thành không vụ lợi.
Chùa là trường, trường là chùa, vừa dạy chữ vừa là tiền đề khơi dậy
nguồn cảm hứng sáng tác thơ ca, văn chương cho con em. Trong lịch sử
Việt Nam (nhất là thời Lý -Trần), một số nhà thơ lớn, nhà tư tưởng hay
lãnh đạo quốc gia (như Vạn Hạnh, Khuông Việt, Trần Thái Tông, Trần Nhân
Tông, Tuệ Tĩnh…) đã trưởng thành từ giáo dục nhà chùa và bản thân họ là
những tấm gương mẫu mực về đạo đức, lối sống. Ngày nay, chùa như là nhịp
cầu nối liền các tín đồ với đạo Phật, là điểm gặp gỡ, hòa nhập giữa các
thành viên trong cộng đồng. Tại đây, tất cả mọi người, Phật tử hay
không phải Phật tử đều có thể đến để thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh
và vui chơi trong dịp lễ hội hay sinh hoạt văn hóa.
Văn học nghệ thuật ở các quốc gia Đông Nam Á lục địa nói chung và
Việt Nam nói riêng mang đậm dấu ấn Phật giáo. Văn học Phật giáo đã trở
thành một đặc điểm nổi bật trong nền văn học của dân tộc. Giáo lý đạo
Phật đã trở thành tư tưởng chủ đạo trong nhiều áng văn chương như Thơ
Văn Lý Trần của Việt Nam v.v… Đặc biệt, nghệ thuật kiến trúc và điêu
khắc chùa chiền Phật giáo thể hiện rõ nét về vị trí của đạo Phật trong
đời sống tinh thần của cư dân. Những công trình nổi tiếng như chùa Một
Cột, tháp Báo Thiên, chùa Thiên Mụ và có rất nhiều chùa nổi tiếng khác
trên khắp đất nước đã trở thành niềm tự hào và là biểu tượng thịnh vượng
của đạo Phật nước nhà.
Từ thế kỷ XIV-XV về sau ta không nghe nói đến những thiền sư như
Khuông Việt, Vạn Hạnh với vai trò chính trị ảnh hưởng đến cả tiến trình
đất nước. Ta cũng không gặp một thời kỳ mà Phật giáo ảnh hưởng mạnh mẽ
đến tư tưởng và học thuật, văn học và nghệ thuật như thời Lý Trần.
Nhưng ảnh hưởng có thể lại sâu rộng hơn trong quần chúng. Tư tưởng bác
ái, cứu nhân độ thế, vị tha của A Di Đà, Quan Thế âm đã bồi dưỡng thêm
lòng nhân ái của người Việt Nam.
Ngày nay, cuộc sống hiện đại làm cho các hoạt động của con người trở
nên tất bật, căng thẳng. Vì thế, hơn bao giờ hết con người cần có những
giờ phút để thư giãn. Tư tưởng từ bi hỷ xả của Phật là liều thuốc an
thần làm cho tâm tĩnh, làm tươi mới đời sống tâm hồn là một phương cách
dưỡng sinh cho con người hiện đại…
Tóm lại, trên cơ sở của một nền văn hóa bản địa vững chắc, trong
thiên niên kỷ đầu công nguyên, Việt Nam đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa
mới từ Trung Quốc, Ấn Độ, đặc biệt là Phật giáo. Bức tranh văn hóa Việt
Nam nhờ đó ngày càng phong phú, đa dạng và giàu có. Người dân đã tiếp
biến giữa các yếu tố văn hoá và tôn giáo để rồi tạo nên những nét riêng
của Phật giáo Việt Nam. Nhờ đó Phật giáo có vai trò hết sức to lớn trong
đời sống chí nh tri, văn hoá, xã hội của đất nước.
- Phật giáo là một hệ thống giáo dục:
Theo học giả Master Chin Kung, Phật giáo du
nhập vào Trung Quốc năm 67 sau công nguyên. Thời bấy giờ, Hoàng đế đang
trị vì đã cử đặc sứ đến Ấn Độ cung thỉnh các tăng sĩ Phật giáo tới
Trung Quốc để truyền bá những lời dạy của Đức Phật mà vào lúc đó được
xem như là một hệ thống giáo dục hơn là một tôn giáo. Thực vậy, bản thân
Đức Phật muốn thông qua lời giảng dạy của mình để giáo dục con người,
giúp con người có được cuộc sống tốt đẹp, tiến tới xóa bỏ khổ đau, chứng
đạt niết bàn, chứ không phải là thực hiện học thuyết của Người như một
hiện tượng tâm linh, tôn giáo thuần túy.
Mục tiêu cao nhất của giáo dục Phật giáo là có đạt tới trí tuệ. Trí
tuệ của Phật giáo gọi theo Phạn ngữ (Sanskrit), một loại cổ ngữ của Ấn
Độ, là “Anuttara-samyak-sambhodi” có nghĩa là trí tuệ vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Giáo dục Phật giáo giúp chúng ta nhận chân rõ
trí tuệ tối thượng, hoàn hảo thiên bẩm đó. Có trí tuệ, chúng ta có thể
giải quyết tất cả mọi vấn đề và chuyển khổ đau thành hạnh phúc. Bởi do
không có trí tuệ, mà chúng ta đã nhận thức, kiến giải và cư xử một cách
sai lầm, và khổ đau xuất hiện như là kết quả của những việc làm sai trái
mà ra. Nếu chúng ta có trí tuệ, thì những suy nghĩ, quan điểm và c ách
cư xử của chúng ta sẽ trở nên chín chắn, đứng đắn; chúng ta sẽ vượt qua
được tham – sân – si, sống một cuộc đời hạnh phúc, chí thiện và hòa
bình.
Cũng theo Master Chin Kung, có thể chia giáo dục
Phật giáo hiện nay thành bốn loại. Loại giáo dục thứ nhất là Giáo dục
tín ngưỡng, là loại giáo dục có thể được chứng kiến trong ở các ngôi
chùa hiện nay. Nhưng đây không phải là mô hình của một nền giáo dục Phật
giáo chân chính. Loại giáo dục thứ hai là giáo dục kinh viện được dạy ở
trong các ngôi trường đại học ngày nay, nơi mà chúng ta thấy Phật giáo
đơn thuần được xem như là một triết lý, một môn học, đặc biệt ở Nhật
Bản. Loại giáo dục này cũng không phải là nền giáo dục thực sự của Đức
Phật. Loại giáo dục thứ ba và là loại giáo dục bất hạnh nhất trong tất
cả, là Phật giáo suy thoái hoàn toàn, trở thành một hệ thống thờ cúng
tôn giáo. Loại giáo dục thứ ba này làm tổn hại quần chúng nhiều hơn cả
hai loại đầu. Cuối cùng là loại nền giáo dục truyền thống, mà cơ bản bao
gồm những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì rất hiếm thấy ở
trong thời buổi của chúng ta hiện nay[17].
Bản thân Đức Phật là một tấm gương sáng ngời về đạo đức, lối sống và
một nhà giáo dục thiên tài. Chúng ta gọi Ngài là “Bổn Sư”, cũng giống
như người Trung Quốc gọi Khổng Tử là “Người Thầy và là vị Hiền giả vĩ
đại nhất”. Mối quan hệ giữa Đức Phật và chúng ta là mối quan hệ thầy
trò, chứ không phải là mối quan hệ mang tính cách tôn giáo.
Vào thời Đức Phật tại thế, Ngài đã thiết lập một hệ thống giáo dục
mang tính liên tục cho các vị xuất gia đầu tiên. Dưới sự giáo dục của
Ngài, có nhiều đệ tử - học trò là đã đạt được thành tựu. Mỗi năm, những
người đệ tử này đều được chỉ định đi khắp nơi giảng dạy giáo lý trong
khoảng 9 tháng. Ở Ấn Độ, mùa mưa kéo dài từ giữa tháng 4 đến giữa tháng 7
nên rất bất tiện cho việc đi lại giảng dạy, thế nên trong ba tháng này
tất cả những đệ tử - học trò đều phải trở về yết kiến Đức Phật để tiếp
thu thêm giáo lý và học hỏi lẫn nhau qua các buổi thảo luận trên lớp.
Khóa học này được gọi là An Cư Kiết Hạ, nó tương tự với hệ Giáo dục thường xuyên cho các giáo viên ngày nay[18].
Thông qua những đồ đệ của mình, Đức Phật muốn tư tưởng của mình sẽ lan
tỏa đến đông đảo người dân, làm cho ai cũng được giáo dục, ai cũng được
khai trí, khai tâm.
Giáo dục của Phật giáo rất giàu nhân bản, bởi vì nó giúp cho mọi
người có niềm tin chân chính, quyết tâm thực hành chánh pháp để trở
thành những con người hoàn thiện, những con người có đời sống thanh cao,
với hai phẩm chất nổi bật là từ bi và trí tuệ. Đó là hướng phấn đấu cụ
thể, thiết thực, không viễn vông, mà hình ảnh của đức Phật là một tấm
gương sáng ngời cho chúng ta noi theo.
2. Gợi ý một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của Phật giáo trong việc giáo dục học sinh - sinh viên về đạo đức, lối sống
Có thể nói, khoa học kỹ thuật đã, đang và sẽ ngày càng tiến bộ, nền
kinh tế của nhân loại sẽ ngày càng phát triển theo xu thế văn minh, hiện
đại, theo đó đạo đức và lối sống của con người cũng cần phải biến đổi
để phù hợp với hoàn cảnh sống mới, nhưng dẫu biến đổi, đạo đức và lối
sống của con người luôn phải dựa trên các chuẩn mực của những giá trị
nhân bản truyền thống và “không thể tách rời đạo đức khỏi những quy tắc
tôn giáo” như cựu tổng thống Nga V.Putin đã nói. Rõ ràng bất cứ tôn giáo
nào ngoài hệ thống những giá trị đặc thù để bảo vệ niềm tin tôn giáo,
còn có những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân bản sâu sắc, như sống hiếu
thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng thiện… Vì vậy, việc giáo
dục lối sống và đạo đức trước đây và hôm nay không thể tách rời khỏi đạo
đức và lối sống của tôn giáo , nhất là Phật giáo. Điều đó có nghĩa là
chúng ta cần phải có những giải pháp để phát huy hơn nữa những giá trị
đạo đức tốt đẹp của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng trong việc
xây dựng nhân cách đạo đức cho con người Việt Nam nhất là tầng lớp học
sinh – sinh viên. Những giải pháp đó có thể là:
- Về mặt nhận thức, nên xem tư tưởng Phật giáo về giáo dục là một trong những tư tưởng giáo dục tiến bộ trong lịch sử nhân loại
Hiện nay tư tưởng chính thống ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác – Lê Nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những tư tưởng này không chỉ có ý nghĩa trong
đời sống chính trị - xã hội mà còn được vận dụng và mang lại nhiều hiệu
quả tích cực trong lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên, cuộc sống luôn có những
biến đổi và “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” cho nên giáo
dục cần phải vận dụng nhiều phương thức giáo dục khác nhau nhằm đạt đến
những giá trị cao nhất của con người, nhất là giáo dục về đạo đức, lối
sống. Nghĩa là, chúng ta cần phải tìm kiếm và vận dụng những tư tưởng
giáo dục tiến bộ vốn có trong lịch sử giáo dục của nhân loại từ phương
Đông sang phương Tây. Nếu như ở phương Tây, người ta đề cao tư tưởng
giáo dục của Socrates vì nó nhằm hướng đến sự hoàn thiện bản thân và
mối giữa cá nhân với cộng đồng thì ở phương Đông, tư tưởng của Đức Phật
và Đức Khổng Tử được xem là có ý nghĩa giáo dục to lớn nhằm góp phần đem
lại cho con người một cuộc sống chân – thiện – mỹ thực sự…Phật giáo hàm
chứa nhiều giá trị quí báu về giáo dục nhân cách sống cho con người, đó
là điều đã được khẳng định. Hơn nữa, tôn giáo này có ảnh hưởng sâu đậm
đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt và là cái dễ đi vào nơi
sâu thẳm nhất của lòng người và lưu lại đó một cách bền vững. Có thể
nói, Phật giáo thế giới cũng như Phật giáo Việt Nam đều nhằm giáo dục và
xây dựng con người thành những người có ích, vì thế nó cũng có thể phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp giáo dục Việt Nam hiện nay, nhất là đối với
việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh – sinh viên.
- Bản thân những người làm công tác giáo dục, dù trong lĩnh vực khoa
học xã hội hay khoa học vực tự nhiên cũng đều nhắm đến việc giáo dục cho
con người phát triển toàn diện, nên để việc giáo dục hiệu quả và sâu
sắc hơn, các nhà giáo dục nên vận dụng kết hợp tư tưởng Phật giáo với
các tư tưởng khác để tuyên truyền và giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh – sinh viên trong giảng dạy cũng như các hoạt động giáo dục khác.
Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo là những tư tưởng về con người
và cuộc sống của con người, đó là vấn đề “khổ” và “cứu khổ” bằng “Bát
chánh đạo và Tam học”, được thể hiện rõ nét trong học thuyết Tứ diệu đế.
Rõ ràng đây là một tư tưởng mà bất kì đối tượng nào trong xã hội cũng
có thể tham khảo và vận dụng để tự giáo dục mình chứ không nhất thiết là
đối với những tín đồ Phật giáo. Tuy vậy, để học sinh – sinh viên quan
tâm và thực hành những lời dạy tốt đẹp của Đức Phật về cách làm người
thì việc cố vấn, chỉ dẫn và định hướng của các thầy giáo, cô giáo và
những người làm công tác giáo dục là rất cần thiết. Để làm được điều
này, người dạy cần phải có những hiểu biết và nhận thức nhất định về
Phật giáo nói chung và giá trị về đạo đức, lối sống của Phật giáo nói
riêng; quan trọng hơn, họ phải biết cách lòng ghép, đưa vào một cách tự
nhiên, nhẹ nhàng, hợp lý, hợp tình những tư tưởng đó vào các tiết dạy,
những bài nói chuyện, những buổi hoạt động ngoại khóa, những lời căn
dặn, khuyên bảo về kỹ năng, cách sống… cho học sinh – sinh viên.
- Khuyến khích học sinh – sinh viên tìm về những giá trị đạo đức tốt
đẹp của nhân loại được chứa đựng trong các tôn giáo, đặc biệt là “Bát
chánh đạo” và “Tam học” của Phật giáo Ngày nay, từ phương Tây cho đến
phương Đông, giáo dục thường nhắm đến hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội,
do vậy thường nghiêng về giáo dục những tri thức về khoa học kỹ thuật,
kỹ năng nghề nghiệp cho người học mà thường coi nhẹ việc phổ biến những
giá trị đạo đức cho họ. Trong khi đó, giáo dục ở nhiều nơi đều nhấn mạnh
phải phát triển toàn diện cho người học. Trong thực tế, giáo dục nhân
cách sống cho người học là một việc vô cùng quan trọng nhưng không hề
đơn giản, thậm chí còn khó khăn hơn rất nhiều lần so với việc trang bị
về tri thức, kỹ năng. Do đó, chúng ta không chỉ rao giảng, khuyên bảo
một cách máy móc các bài học về đạo đức, lối sống theo những mô-típ quen
thuộc. Điều quan trọng là phải làm cho học sinh – sinh viên tự ý thức
tầm quan trọng của việc rèn luyện nhân cách sống và khuyến khích họ chủ
động tìm về những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, giá trị đạo
đức, lối sống của Phật giáo… Chúng ta hãy làm điều này một cách tự
nhiên, không áp đặt, không ra lệnh mà hãy làm người gợi ý, động viên,
khuyến khích cho họ. Hãy để họ tự lựa chọn, tự “chiêm nghiệm”, tự “tu
tập” tư tưởng đạo đức Phật giáo hay bất kỳ một giá trị đạo đức tốt đẹp
nào khác mà họ thấy phù hợp và yêu thích.
Cuối cùng, nên chăng giáo dục nhà trường cần phải kết hợp với các tổ
chức xã hội, với các cơ sở tôn giáo (trong đó có Phật giáo) trong việc
giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh – sinh viên. Thiết nghĩ, những
sự kết hợp này sẽ không những làm đa dạng, phong phú hoạt động giáo dục
mà còn tận dụng và phát huy được các ưu thế của của những tổ chức xã
hội, cơ sở tôn giáo vào việc giáo dục đạo đức, lối sống cho người học.
Giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ là một nội dung cơ bản,
thường xuyên của mọi nền giáo dục trên thế giới từ xưa cho đến nay nhưng
trong từng giai đoạn cụ thể thì giáo dục cần phải vận dụng những tư
tưởng, phương thức giáo dục phù hợp thì mới có thể mang lại hiệu quả.
Vận dụng tư tưởng Phật giáo có thể mang lại những hiệu quả tích cực
trước mắt và lâu dài cho việc giáo dục đạo đức lối sống cho sinh viên ở
Việt Nam trong thời đại hiện nay, bởi Phật giáo “sẽ là một tôn giáo toàn
cầu, vượt lên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy bao
quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức
đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể, gồm mọi phương diện trên,
trong cái nhất thể đầy ý nghĩa"[19].
PGS.TS ĐẶNG VĂN CHƯƠNG, Th.s TRẦN ĐÌNH HÙNG
Khoa Lịch Sử - Trường ĐHSP Huế , 34 Lê Lợi, Tp Huế
[1] Nguyễn Văn Mạnh, Phật giáo với việc giáo dục đạo đức, lối sống đăng trên http://buddha.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=1774.
[2] Tham luận “Phật giáo đóng góp về công bằng xã hội và dân chủ ” của Đại đức Sugata Priya tại Đại hội Ves ak 2008, Thích Giác Hiệp chuyển ngữ.
[3] Floyd H.Ros s , Tynette Hills (Dịch giả Thích Tâm Quang), Những tôn giáo lớn trong đời sống nhân loại , NXB Tôn giáo, TP.HCM, 2007, tr.73.
[4] Dais aku Ikeda, Phật giáo một ngàn năm đầu, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.18.
[5] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 8, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 290.
[6] Dais aku Ikeda, Phật giáo một ngàn năm đầu , NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.108.
[7] Huệ Dân, Phẩm hạnh của nữ giới trong tinh thần Phật học cũng như học Phật , đăng trên http://www.chua-phuoc-binh.com/tinhhoaphathoc
[8] Tham luận “Phật giáo đóng góp về công bằng xã hội và dân chủ ” của Đại đức Sugata Priya tại Đại hội Ves ak 2008, Thích Giác Hiệp chuyển ngữ.
[9] Huệ Dân, đã dẫn
[10] Tham luận “Phật giáo đóng góp về công bằng xã hội và dân chủ ” của Đại đức Sugata Priya tại Đại hội Ves ak 2008, Thích Giác Hiệp chuyển ngữ.
[11] Trần Văn Giàu, Sự phát triển tư tưởng Việt Nam từ thế k ỷ
XIX đến cách mạng tháng Tám, Tập I, Ý thức hệ phong kiến và sự thất bại
của nó trước nhiệm vụ lịch sử, Nxb KHXH, 1973, tr. 475.
[12] TT. Thích Huệ Thông với Tham luận “Đức Phật – tấm gương yêu quý, bảo vệ môi trường”, đăng trên http://www.phatgiaobinhduong.com/index.php?mod=news&cpid=56&nid=124&view=detail
[13] Ayya Khema, Hãy Đến Để Thấy Phật Giáo, Con Đường Đưa Đến Hạnh Phúc , đăng trên http://www.quangduc.com/kinhdien-2/295haydendethay10.html.
[14] Đảng Cộng s ản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2011, tr. 81.
[15] http://ired.edu.vn/vn/Home
[16] Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (CB) (2003), Vế Phát Triển và Xây Dựng Con Người Trong Thời Kỳ Công Nghiệp Hoá và Hiện Đại Hoá, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 5.
[17] Mas ter Chin Kung, Buddhism as an Education on http://www.buddhanet.net/budasedu.htm
[18] Mas ter Chin Kung, đã dẫn
[19] Đức Phật và Phật Pháp đăng trên http://chuahoangphap.com.vn/news.php?id=445