Stress dưới mắt người Phật tử
Tâm Nhẫn
24/05/2012 03:37 (GMT+7)


Stress là trạng thái tâm lý phát sinh phổ biến từ khi nền kinh tế bước sang thời kỳ công nghiệp hoá, với những sôi động, bận rộn, trong đó, áp lực thời gian công việc trở nên căng thẳng, con người mệt mõi với công ăn việc làm đến nỗi không còn thì giờ sống cho nhau, như những năm tháng xa xưa của xã hội nông nghiệp. Đã có một thời, danh từ “alienation” – tha hoá, trở nên phổ biến trong xã hội học, văn học, và cả trên những phương tiện giải trí như phim ảnh trong thập niên 50-60 của thế kỷ 20 .

Sau này, stress chính thức được dùng để chỉ trạng thái tâm lý đặc biệt , sinh khởi trong bối cảnh văn minh công nghiệp hiện đại từ hậu bán thế kỷ 20 đến nay . Stress khá phổ biến tại Tây phương, nhất là sau cơn chấn thương tinh thần của làn sóng mất việc làm, thu nhập xuống thấp, thuế má tăng cao trong thời kỳ suy thoái kinh tế tài chính, làm rất nhiều người dân phải rơi vào trong lo âu, phiền muộn .

Ai trong cuộc đời, cũng đã từng trãi nghiệm qua những stress lớn nhỏ khác nhau, trong đó, thuở ấu thơ, là những giận dỗi, khóc lóc đến cãi nhau với cha mẹ anh em ; lớn lên với những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong gia đình, nơi làm việc.

Tại Việt nam, ở các thành phố lớn, tuy ít có biểu hiện tâm thần stress bởi suy thoái kinh tế, nhưng lại có những stress do những nguyên nhân khác như là hệ luỵ của suy thoái kinh tế . Với nhịp sống cao, 24/24 giờ, dân thị thành ít có thời gian gần gũi nhau, đến nỗi láng giềng sát vách mà vẫn không quen biết nhau ! Thông thường, những stress hay xảy ra trong những bối cảnh mà phần lớn thời gian, con người thường xuyên hoạt động và sống trong đó : gia đình và nơi làm việc .

Trong hai bối cảnh ấy, có rất nhiều điều bất như ý nho nhỏ luôn xảy ra, những mâu thuẫn vụn vặt gây trắc trở trong ý muốn hay trong việc chung , việc riêng ; hoặc những điều phiền toái gây sự rối trí cho bản thân hay những cách đối xử lẫn nhau không hợp lý, những bất công .… nhất là do những công việc sắp xếp không hợp lý, không khoa học, hoặc là sự sắp xếp rất chủ quan bởi sự dính mắc, ôm đồm, bao cấp trong những việc mà lẽ ra phải được phân công hợp lý …... mà những ôm đồm ấy lại can thiệp sâu vào cuộc sống riêng tư, ước muốn riêng tư của người khác .

Cũng có khi trong quá khứ, những thất bại cay đắng bị dồn nén, hoặc khi mới vừa về hưu, sự hụt hẫng trong khoảng không-thời-gian mới mẽ xa lạ, mà chẳng có việc làm nào để lấp đầy khoảng không-thời-gian trống vắng, hoặc tìm lại khoảng thu nhập như xưa …

Thông thường, nữ giới có nhiều uất ức vụn vặt hơn nam giới, vì họ cũng có những stress tự thân do sự thay đổi tâm sinh lý như trong chu kỳ hành kinh hay mang thai . Mặt khác, người phụ nữ nhạy cảm nên cảm thấy rằng mình bị tổn thương hay bị xúc phạm, trong gia đình cũng như tại nơi làm việc, bởi vì người nữ dính mắc rất sâu vào cái “tôi” và cái “của tôi”. Tại nơi làm việc, thì những áp lực thời gian trong công việc, những trắc trở trong thăng tiến…, ở gia đình là sự quan tâm quá mức cần thiết đối với người thân thiết như chồng, con, cha, mẹ, con, cháu, dâu rễ… .để dẫn đến bao cấp, lu bu, không còn thời gian nghĩ ngơi, không còn thời gian rãnh rỗi để hưởng thụ không khí đầm ấm của gia đình, lúc ấy, cái “tôi” cảm thấy không được ve vuốt, không được mang ơn, không được chú ý quan tâm…. rồi stress xảy ra . Người phụ nữ thành thị khi có vấn đề về stress, thì thiếu vắng đi sự an ủi của cộng đồng, xã hội, vì con người thành thị dù gần nhau, nhưng thật là xa nhau . Do đó, họ chỉ còn duy nhất một chỗ dựa, là gia đình . Những gia đình không êm ấm đã làm phụ nữ đau khổ biết bao nhiêu !

Đối với nam giới, sự kiện vụn vặt nếu có xảy ra, lại thuộc về nơi làm việc nhiều hơn, nơi mà nam giới đang mong cầu thăng tiến …. Những trắc trở ấy, những áp lực nhức đầu ấy, nam giới thường tìm nguồn xoa dịu, an ủi nơi gia đình . Một gia đình thiếu êm ấm, là nơi nam giới dễ bùng phát những cơn stress .

Ngoài ra, nam giới cũng dễ bùng phát stress sau khi đã dùng qua rượu, mà những cơn bùng phát ấy, là một phần của vấn nạn “bạo lực gia đình” và cả bạo lực xã hội. Thế nhưng, rượu lại đổ ra xã hội Việt Nam ngày càng nhiều hơn nữa !

Tại nông thôn, đời sống có vẻ bề ngoài an nhàn, con người gần gũi nhau, nên stress ít xảy ra hơn . Tuy nhiên vẫn có stress do áp lực cuộc sống kinh tế nghèo túng, lại ít học, nhận thức kém, kèm theo tệ nạn rượu bia, cờ bạc, nên vẫn xãy ra những vụ “bạo hành gia đình” .

Như vậy, stress ở thành thị, nhất là những thành thị tập trung đông dân, phát triển nhanh, với nhịp sống 24/24 giờ, rất dễ có cơ hội xảy ra hơn là nông thôn, và khi xảy ra thì trầm trọng hơn ở nông thôn rất nhiều .

Những điều trắc trở ấy phát sinh do kết sử xa xưa tiềm miên trong người, những kết sử ấy, khi hội đủ điều kiện như những mâu thuẫn nho nhỏ xảy ra , hoặc do áp lực về thời gian công việc, chúng biến thái trở thành những uất ức vụn vặt để trong lòng, thành những kết sử mới . Tình trạng tiếp tục tích lũy thêm những bức rứt nho nhỏ ấy trong lòng lâu ngày, giống như dây đàn được căng cứng dần dần, đã dẫn đến những sự căng thẳng trong nội tâm một cách âm thầm mà bản thân không biết, chỉ cảm nhận được sự mệt mõi, ăn không ngon, ngủ không yên giấc hay ngủ mê mệt …, về tinh thần thì kém sáng suốt, thường hay nỗi cáu hoặc buồn tủi, bất mãn . Đến khi dây đàn căng cứng đến cực độ, thì đứt phăng đi, đưa đến những cơn stress tuôn trào như bộc lưu, như ngọn lửa tàn phá, cuốn trôi hành vi con người trong sự vô minh của stress .

Những bất như ý ấy luôn luôn xuất phát từ các trạng thái tinh thần tâm lý rất căn bản của con người, các căn Tham, Sân và Si thầm lặng trong mỗi người, đã chi phối các hành vi đáp ứng và ứng xử âm tầm trong ý thức như thế, chúng là hệ thống Cảm Thọ (Thọ uẩn), hệ thống tưởng tượng (Tưởng Uẩn) và hệ thống đáp ứng và hứng xử (Hành Uẩn) . Và bối cảnh tâm lý như thế, trở thành những “nút thắt” tâm lý, Phật giáo gọi là những “kết sử” là những nội kết, nó sai sử con người mà con người không ý thức được (Thức Uẩn).

Từ khi còn trẻ con cho đến suốt cuộc sống hiện tiền, do bởi sự hành hoạt của căn bản tham, sân, si, luôn luôn xuất hiện nhiều trạng thái bị dồn nén ấy, tuỳ theo cường độ của cảm thọ, mà làm thành những “nút thắt” khác nhau trong tâm lý, đó là áp suất của những cảm thọ bất như ý, những điều đó, những cảm xúc sợ hãi hay giận dữ chìm trong vô thức, biến thành những chủng tử chìm trong Alaya thức, chúng sinh sôi và biến thái một cách âm thầm, để khi có đủ những nguyên nhân phát sinh và điều kiện phát triển, chúng bùng phát các cơn chấn động tinh thần tâm lý, đó là nguyên nhân dẫn đến những đợt hưng cảm, trầm cảm, stress… Do vậy, stress sinh khởi và kết tủa từ trong bối cảnh mà con người tuỳ thuộc . Trong cuộc đời, có quá nhiều bối cảnh, nhất là trong thế giới hiện đại, và những stress đã thành một hội chứng tâm lý xã hội học mà các nhà khoa học đang tìm cách trị liệu, nhưng đâu đã xong .

Kết sử được gieo trồng và nuôi lớn bằng nếp sống không chánh niệm hàng ngày (do thói quen tập nhiễm) . Những Kết sử này đã được hình thành trong quá khứ , có khi dưới dạng “tập tính”  do tập khí của Ông Bà Cha Mẹ trao truyền lại trong gia sản di truyền, và nhiều khi lại là những “in vết” những stress trào dâng của cha mẹ trong đời sống trẻ thơ quá khứ .

Nội kết còn gọi là Triền sử hay kiết sử, triền là trói buộc, sử là sai khiến . Những nội kết này nó trói chặt ta, sai sử ta phải làm hay không làm một việc gì . Những nội kết êm ái là những hạt giống của ái nhiễm , nó buộc ta phải đi theo con đường mà nó chọn lựa và gây ra những chấn thương tâm lý hay những lúc khủng hoảng tinh thần.

Điều gì cũng có nguyên nhân và động lực hay điều kiện hội đủ cho nó sinh ra, stress cũng thế, những dồn nén lâu dài có thể bùng nổ bất cứ lúc nào, bằng những cảm thọ xưa cũ hiện về - lửa quá khứ không đốt cháy được hiện tại, nhưng hơi nóng tàn dư của quá khứ sẽ làm bùng cháy hiện tại . Chỉ cần một bửa ăn không vừa ý, chỉ cần một lời nói không cẩn thận, chỉ cần một ánh mắt, một hành động không hợp ý, là cơn bùng phát stress sẽ “cháy” ngay lập tức và lỗi được đổ cho những “nguyên cớ” trên .

Ngoài ra, stress còn xảy ra khi gặp phải những sự kiện xảy ra không kiểm soát được, không thể đoán trước được, như thiên tai ; hoặc bắt gặp tận mắt người hôn phối của mình ngoại tình ; hay mất con, mất người thân thiết một cách đột ngột, thì stress xảy ra nặng nề hơn và dài lâu hơn qua rất nhiểu năm tháng , nhiều khi không thể khắc phục . Có một kinh về người đàn bà điên cuồng ôm đứa con đã chết, tìm Đức Phật để cầu Ngài làm sống lại là một ví dụ .

Stress là những hậu quả do ảnh hưởng của những thay đổi hoặc những sự kiện quan trong xảy ra trong đời sống . Khi một điều gì mà sự ham muốn trong người trở nên cuồng nhiệt, nhưng không thực hiện được, hay bị dập tắt ; những kiêu hãnh bị bỏ qua, những nỗi uất ức phải chịu đựng trong cuộc sống, những tình huống khẩn cấp phải hành động mau lẹ hay thay đổi gây choáng váng …. đều có khả năng đưa đến stress .

Những stress mang nhiều hậu quả, mà hậu quả trước mắt và tức thời, là sự tối tăm của tâm trí, con người không còn đủ sáng suốt để nhận thức thực tại nữa . Trong tình huống bình thường, nhận thức thực tại của mỗi người đã mang theo cảm tính chủ quan, làm cản trở sự truyền thông lẫn nhau rồi, trong trạng thái stress, sự sai lầm của tâm trí chủ quan ấy còn sai lầm đến đâu nữa ? Và hành vi đáp ứng và ứng xử sai lầm ấy, sẽ mang lại hậu quả càng nghiêm trọng hơn. Những việc ly hôn, ly thân phần nhiều là hậu quả của stress . Thực sự, stress mang lại nhiều nỗi khổ niềm đau hơn bất kỳ điều gì trong nhân thế .

Mặc dù các kinh điển Phật giáo không có từ ngữ tương tự stress, nhưng stress là một trạng thái của tâm, nên nó sẵn có trong alaya thức, nó không ở đâu sinh ra và cũng không mất đi đâu cả, chờ lúc được tưới tẩm bởi những bứt rứt nho nhỏ hội đủ cho đến khi nó nẩy mầm và phát triển.  

Để tránh sự tưới tẩm những hạt giống ấy, Phật giáo dạy rằng, cuộc sống là một chuỗi đổi thay liên tục (vô thường), phần lớn những đổi thay ấy có thể tạo ra những cảm thọ hụt hẫng hay va chạm và đưa đến stress với nhiều mức độ và chiều kích khác nhau (khổ). Mà nguyên nhân là sự tập khởi của Khổ Uẩn . Thấu hiểu được những điều này để xả bỏ những cảm thọ bất như ý, thì stress không có đủ nguyên nhân và điều kiện để hình thành . Muốn vượt qua khổ đau, con người phải thực sự thấu hiểu bốn phạm trù cơ bản :

  • Khổ, vì bên dưới sự hấp dẫn của hạnh phúc thế gian, là nỗi khổ . Bớt đi sự dính mắc vào gia đình để phân công cho hợp lý, bớt đi sự dính mắc vào quyền lợi hay địa vị cá nhân để nâng cao tay nghề, mở rộng kiến thức và đạo đức tâm linh thì những gì phải thuộc về mình, sẽ phải về mình .
  • Vô thường, vì thế gian biến đổi không ngừng nghỉ, không có điều gì sinh ra mà

không thay đổi để biến thành cái khác . Vì thế, hãy bình tâm trước những đổi thay, thay vào đó, khai mở trí tuệ và đạo đức, thì ta sẽ có những gì phải có . 

  • Vô ngã vì cuộc đời là sự tập hợp vĩ đại của những gì không-phải-là-nó . Và cái tôi chỉ là sự tự cảm nhận mà thôi . Vì thế, hãy yêu thương bản thân, hãy trau dồi đạo đức và trí tuệ bản thân và yêu thương tất cả mọi người. Để làm gì ? Để gió cuốn trôi đi . (TCS)
  • Duyên sinh, nghĩa là mọi hiện tượng chỉ hiện hữu vì hội đủ nguyên nhân phát sinh và động lực hay điều kiện phát triển mà thôi . Vì thế hãy tạo nguyên nhân và điều kiện tốt bằng chính trí tuệ và đạo đức bản thân, ta sẽ nhận lại những gì đáng nhận.

Hãy chỉ thực hành 5 giới điều thôi, thì stress đã khó có điều kiện để hình thành rồi, nếu thêm 10 điều thiện nữa, thì stress còn ít cơ hội hơn nữa để tồn tại . Những phương pháp thực hành như Tứ Nhiếp, Lục Độ, nhất là hạnh lắng nghe và thông cảm là những gì cần thiết để hoá giải stress ngay từ trong trứng nước . Hạnh từ tâm và bi mẫn, tuỳ hỷ và buông xả, làm những bứt rứt nho nhỏ ấy trôi đi như những hạt bùn trên lá sen . Sự trầm tĩnh qua thiền chỉ-quán khai mở tâm trí để soi sáng mọi sự kiện của đời sống một cách có trí tuệ cao nhất . Càng học và thực hành sâu giáo lý chừng nào, thì stress ngày càng đi đến chỗ diệt tận chừng ấy . Vì thế, những ai chưa trở về nương tựa Tam bảo, xin hãy quay về, để xây dựng gia đình ngày càng an lạc hạnh phúc hơn, là một Tịnh độ tại cõi nhân gian đầy bứt rứt lớn nhỏ này.

Tâm Nhẫn

---o0o---

Phụ lục : Trích sách Cơ sở Tâm Lý Học ứng dụng – GS. Đặng Phương Kiệt Chủ biên, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội .

Theo Tâm lý học, có khoảng 30 sự thay đổi có thể gây ra stress với các chiều kích khác nhau  (Holmes & Rahe – 1967) :

  1. Cái chết của người thân trong gia đình
  2. Cái chết của người bạn thân
  3. Cha mẹ ly hôn
  4. Bị ngồi tù
  5. Bản thân bị bệnh hay chấn thương
  6. Kết hôn
  7. Mất việc làm
  8. Thất bại trong một tiến trình quan trọng đối với cá nhân
  9. Thay đổi sức khoẽ của người thân trong gia đình
  10. Mang thai
  11. Những trục trặc trong quan hệ tình dục
  12. Tranh cãi gay gắt với bạn thân
  13. Sa sút về tài chính
  14. Thay đổi lớp trưởng (hay ban giám hiệu hay thủ trưởng)
  15. Xung đột với Cha Mẹ
  16. Có bạn trai gái mới  (có bồ hay người yêu mới)
  17. Gia tăng nhiệm vụ học tập (chương trình nặng hơn)
  18. Thành tích cá nhân trong nhà trường (cộng đồng)
  19. Thành tích học tập
  20. Thay đổi điều kiện sinh hoạt
  21. Tranh cãi gay gắt với Thầy hay thủ trưởng
  22. Thay đổi nếp ăn, ngủ
  23. Thay đổi các hoạt động xã hội
  24. Phương tiện đi lại, di chuyển
  25. Thay đổi thành viên chung sống trong gia đình
  26. Bỏ học nhều lần
  27. Thay đổi trường
  28. Lưu ban
  29. Các vi phạm hành chính ngoài nhà trường
  30. …..
 

 

Các mức độ nghiêm trọng của stress : Có 6 kiểu phiền não mang tính nghiêm trọng khác nhau, đối với các nhóm tuổi , đối với các nhóm nghề nghiệp, đối với các nhóm cộng đồng, đối với giới tính và đối với từng cá nhân, cũng khác nhau  :

  1. Sức ép thời gian
  2. An toàn trong tương lai
  3. Các vấn đề về tài chính
  4. Công việc nội trợ
  5. Sự quan hệ hàng xóm
  6. Sức khoẽ cá nhân (tinh thần lẫn thể xác)
   

 

Trong cơn stress nặng nề như thế, thường có 5 giai đoạn tinh thần trãi nghiệm :

  1. 1.      Tê liệt tâm thần : đây là giai đoạn chock tâm thần, trong lúc ấy, con người lú lẫn, không thể hiểu được điều gì đã xảy ra . Sự bùng nổ của chock làm tâm thần tê liệt hoàn toàn, không còn sáng suốt nữa .
  2. Hành động tự động , giai đoạn này con người hành động và phản ứng do bản năng sinh tồn chi phối, một cách tự phát, tự động , không có kiểm soát bởi lý trí hay ý thức (bùng nổ) , với một nhận thức nghèo nàn và ít nhớ lại những điều đã trãi nghiệm . Thường là hành động mù quáng , một kiểu của phản ứng tự vệ của sinh vật .
  3. Giai đoạn nỗ lực : giai đoạn này, con người cảm thấy có thể giải quyết được nên có một ý thức tích cực nỗ lực mang tính cộng đồng (dựa vào một tập thể) . Trong giai đoạn này, con người cảm thấy rã rời và có ý thức đang tận dụng tất cả những gì của sinh mệnh mình (nếu không thành công, chỉ còn là cái chết )
  4. Giai đoạn chán ngán (letdown) , một tâm trạng kiệt sức, suy kiệt, và cuối cùng thấy được sự tác động của tấn bi kịch và cảm thấy cực kỳ xúc động , không muốn làm gì nữa , muốn thả trôi hay thậm chí không còn muốn tồn tại . Có thể dẫn đến chứng trầm nhược hay tự tử .
  5. Giai đoạn hồi phục , một giai đoạn kéo dài qua rất nhiều thời gian , bởi vì con người phải thích nghi dần với hoàn cảnh đề tồn sinh (Cohen & Ahearn – 1980) .

Theo Tâm lý học, muốn vượt qua mọi thử thách cuộc đời, cũng như vượt qua được stress, thì con người phải có Nhận thức cá nhân và bản lãnh cá nhân, việc diễn giải sự kiện cuộc sống (ý nghĩa của các sự kiện xảy ra).

Các tin đã đăng: