Thật vậy, với cái
lẽ“vô thường vô ngã” của cuộc đời con người đã giáo dục ta nắm bắt được
qui luật vận động tất yếu của cuộc sống, thấu hiểu vị thế của mình để có
phương thức hành xử đứng đắn. Con người là một thực thể sống, là chủ
thể của xã hội song lại bị chi phối bởi luật vô thường. Cuộc đời nay
thịnh mai suy. Địa vị, quyền chức chẳng qua cũng chỉ mong manh như “hạt
sương đầu ngọn cỏ”. Nếu không hiểu điều đó con ngưởi sẽ tham lam ích kỷ
chỉ biết vun vén cho lợi ích cá nhân bé nhỏ tầm thường, quên đi lợi ích
chung của cộng đồng dân tộc. Con người trở thành nô lệ cho chính dục
vọng của mình, thành kẻ nô dịch và bóc lột nhân dân. Trong cơ chế thị
trường hiện nay, biểu hiện của tư tưởng chấp ngã là sự tham nhũng.
Tuy nhiên, “vô thường” là cách giáo dục để
con người nhận chân ra qui luật cuộc sống, qui luật vận động và biến
đổi, chứ không phải để con người nhìn cuộc sống là ảo ảnh. Như vậy, “vô
thường” là một cặp mắt nhìn vào hiện thực để phát hiện ra những qui luật
đang rì rào chảy dưới nơi địa tầng sâu thẳm của cuộc đời. Qui luật nằm ở
nơi đáy sâu tiềm tàng, tiềm ẩn chi phối con người. Còn vô ngã là một
kết quả của ý niệm “vô thường”. Có nhận biết cuộc sống vô thường thì mới
nhận ra phép “vô ngã”. Tiến đến vô ngã, con người sẽ thoát khỏi phạm
trù vốn trói buộc con người từ muôn thuở, muôn nơi … con người sẽ thực
thi được một thăng hoa từ mặt đất cuộc sống. Niết bàn là vô ngã, cái nơi
mà con người vẫn sinh hoạt với mọi người, vẫn ăn cơm, vẫn ở với người
khác. Nhưng sống bằng cái “thân” của chính mình một cái thân cạn cợt.
Con người để giải thoát tinh thần cũng được tập trung ở nơi đây, chứ
không phải là một tinh thần thoát ly cuộc sống trần tục, mà ngược lại là
một thái độ nhập thế tích cực, một thái độ nhập cuộc. Đó mới là một
cuộc sống lý tưởng.
Nếu sống trong xã hội này nhiều khi con
người mất hạnh phúc vì cảm thấy bực tức khi cuộc sống vật chất của gia
đình mình thua kém những người bất tài, lười biếng hơn, hoặc buồn phiền
khi xung quanh không ai hiểu mình. Tất cả những tâm trạng đó hình thành
trên cơ sở ý thức cá nhân cảm thấy bị xúc phạm. Nhưng Đạo Phật dạy chúng
ta nếu hiểu, bỏ cái ngã thì ngoại vật chỉ tác động chỗ trống không.
Trong nghèo hèn cũng như trong giàu sang, trong yên bình cũng như trong
uy vũ… vẫn bình thản tự tại mỉm cười. Chúng ta sống tự do, con người
làm chủ được chính mình. Ranh giới ngăn cách giữa ta và người bị phá vỡ.
Một khi ý thức cá nhân quá mạnh dễ dẫn đến
thái độ “ ngã mạn”. Cái này sẽ tạo nên bao nhiêu phiền phức không hay
cho cuộc sống. Con người có thể trở nên chủ quan, thiếu khiêm tốn, gây
những điều khó chịu cho những người xung quanh, không tốt cho quan hệ
giao tiếp giữa người và người. Trước hết bản thân người mang cá tính này
phải chịu thiệt thòi. Họ có thể luôn mang tâm trạng bất mãn vì cảm thấy
bị đối xử bất xứng. Những cuộc cãi vả, xét cho cùng, không thể loại trừ
nguyên nhân chấp ngã. Ta sẽ lập tức thấy những hành động của mình là vô
nghĩa đến dường nào khi đã để phí hoài bao thời khắc đáng giá của cuộc
đời. Cũng do tính hẹp hòi ích kỷ mà chúng ta thường bó hẹp tư tưởng vị
tha trong một giới hạn nào đó.
Vì vậy xuất phát từ quan điểm vô ngã, Phật
Giáo khuyên chúng ta nên mở rộng phạm vi của cái ta bằng phương pháp
sống vị tha, vị tha là một nội dung của hạnh từ bi. Nó vừa thể hiện tình
đồng chí, tình đồng hương, tình đồng đạo, vừa cao quí, mãnh liệt, trong
sáng như tình thương của người mẹ sẵng sàng hy sinh tất cả cho con
mình.
Tư tưởng “vô ngã- vị tha” đồng nghĩa với tư
tưởng “mình vì mọi người” của xã hội mới, bao hàm hai ý nghĩa: không
thản nhiên thờ ơ trước nỗi khổ đau của người khác, không chỉ lo riêng
cho lợi ích của bản thân, đồng thời là nguồn sức mạnh gạt bỏ mọi sự bất
công, áp bức bóc lột, san bằng mọi chướng ngại trên con đường mưu cầu
cuộc sống hạnh phúc chung.
Tư tưởng “vô ngã vị tha” không phải là chỗ
ẩn mình cho những người ích kỷ lợi dụng chiêu bài tu hành hay từ bi để
đứng ngoài cuộc chiến chống lại những lực lượng phản động lạc hậu, mà
chính là vì hạnh phúc của loài người mà người tu Phật phải sống vị tha,
dứt khoát đứng hẳn về phía lực lượng tiến bộ đấu tranh cho hòa bình, cho
công bằng tiến bộ xã hội và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Vì vậy
trong nội dung giáo dục căn bản của học thuyết này mọi ý niệm về cá nhân
chủ nghĩa, tôn thờ một thực thể tuyệt đối đều bị loại bỏ.”Ai đề cao tự
ngã, khi miệt giá trị người, hạ mình với tự cao, được biết là bần
tiện”(9 )
Tư tưởng giáo dục của triết lý Phật Giáo về
vô ngã vị tha là sự quên mình vì người khác, mở rộng tấm lòng bao dung
độ lượng với muôn loài. Vị tha của Đạo Phật không chỉ là một sự ban
phát bố thí. Nó là sự vong thân, một xả thân mà không đòi hỏi sự đền bù
đáp trả. Con người vị tha cảm nhận chính mình nơi thái độ hy sinh này.
Hiện thực cuộc sống của cá nhân được nâng lên tầm lý tưởng. Nhưng đó là
lý tưởng từ hiện thực, của hiện thực. Một tư tưởng vô ngã vị tha, một tư
tưởng giáo dục nhập thế của Phật học. Đây cũng gợi cho ta liên tưởng
đến ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn :”Sống trên đời sống cần có một tấm
lòng. Để làm gì em có biết không ? Để gió cuốn đi …”
Làm ra thành tích mà không ở lại để hưởng thụ. Đó chính là đích thực của
vô ngã vị tha, Phật Giáo đã kêu gọi con người hãy thử đôi lần buông bỏ
để thấy thế giới này xanh hơn, bầu trời trong trẻo hơn, vạn vật đáng yêu
hơn, và lòng mình hòa điệu với tha nhân, vũ trụ trong một niềm hạnh
phúc tuyệt vời.
II. GIÁ TRỊ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA
TRIẾT LÝ PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Nội dung giáo dục của triết lý
Phật giáo – một giá trị nhân bản sâu sắc
Đạo Phật đã ra đời trong một thực tại đa diện, phồn tạp của nền
văn minh Ấn Độ, xuất hiện để dung hòa các trào lưu tư tưởng đối nghịch,
để san bằng những ngăn cách xã hội giữa các đẳng cấp. Rồi từ những căn
bản đó, Phật giáo đã duỗi dài nguyên lý vào cuộc sống con người khắp mọi
nơi. Trong cội rễ sâu xa, ngay từ khởi thủy tư tưởng giáo dục của triết
lý Phật giáo đã mang trong mình những giá trị nhân bản chung toàn nhân
loại. Đặc trưng cơ bản nhất đó là tính toàn vũ trụ, toàn diện, tổng hợp.
Trong đó lòng Từ bi – Bình đẳng – Vô ngã cùng sự hướng thiện mà đạo
Phật muốn giáo dục con người với mục đích “cứu khổ” là quan trọng nhất.
Theo Đạo Phật, chính “chấp ngã” đã
gây ra cho lịch sử loài người những cuộc chiến tranh núi xương sông
máu, chiến tranh tội ác và bạo lực đã và đang là điều nhức nhối của toàn
nhân loại. Trong tình hình này Phật Giáo kêu gọi mọi người hãy dứt các
việc làm ác mà hãy hành thiện, khuyên con người dang rộng vòng tay ôm vũ
trụ vào lòng và đừng bao giờ khép kín tâm tư lại. Hãy phát triển nhân
đạo và từ bi quên đi những cái ta ích kỷ, nhỏ hẹp để được yêu vũ trụ
rộng lớn. Vì thế giáo dục Phật giáo đã đến với nhân loại với tinh thần
khoan dung kêu gọi mọi người nhường cơm xẻ áo, nhìn nhau bằng ánh mắt từ
hòa, góp phần hình thành nên nền đạo đức xã hội, để hòa điệu với cái
“ta rộng lớn” của toàn thể vũ trụ vô biên, Đức Phật đã từng dạy: Một
hạnh phúc vĩnh cửu chỉ sống mạnh trong một tâm hồn giải thoát và tâm hồn
giải thoát chỉ có thể thực hiện một khi cá nhân chịu nhường bước. Một
bản ngã đứng tách riêng ra ngoài là không thể tồn tại khỏe mạnh được. Đó
là mục đích giáo dục con người hoàn thiện cả về tài lẫn đức trong một
xã hội văn minh. Vì vậy nội dung giáo dục của triết lý Phật giáo chẳng
khác gì lời kêu gọi hòa bình – một nhu cầu luôn cần cho mọi người, mọi
nhà, và là tài sản quý báu nhất của nhân loại. Đây là giá trị nhân đạo
nhất và khác với mọi tôn giáo khác, trong suốt lịch sử tồn tại và phát
triển Phật giáo luôn xuất hiện và thâm nhập vào các dân tộc như sứ giả
của hòa bình và an lạc.
Giáo dục con người sống có
đạo đức và đạt được hạnh phúc
Phật giáo cho con người là hơn cả
vì có thể thực hiện được tất cả sự tốt đẹp để có thể sống hài hòa. Để
giáo dục đạo Phật đã đưa ra bốn chân lý kỳ diệu, với yếu tố biện chứng,
kết cấu chặt chẽ khi đưa ra lý thuyết “ngũ uẩn”, chỉ rõ căn nguyên của
khổ đau là do thâm, sân , si cùng với lý luận về thập nhị nhân duyên,
đồng thời khẳng định con đường diệt khổ đó là “trung đạo”, “bát chánh
đạo”... chứa đựng sự lý đầy thuyết phục và hướng con người đến nếp sống
thiện lánh xa cái ác. Dạy con người sống cảm thông, hỷ xả với nhau một
cách hòa mục. Vị tha dạy con người sống vì người khác, bao dung độ lượng
đó là phương pháp giúp con người đạt được đức hạnh. Đây là động lực nảy
sinh mọi điều tốt lành. Phật giáo khẳng định tất cả mọi người đều có
“Phật tính” sẽ đạt được nếu thực hành đúng theo giáo lý trao dồi đạo đức
trong cuộc sống của chính mình sẽ được hạnh phúc.
Từ đó ta thấy giá trị tinh thần
đạo đức toàn diện của giáo dục Phật giáo là trình bày sự thật về những
mối tương quan giữa sự vật hiện hữu trong cuộc đời để giúp con người có
được chính kiến hòng tạo lập cuộc sống của mình và chuyển đổi hoàn cảnh,
để có thể chinh phục và cảm hóa được mọi người xung quanh.
Xây dựng một xã hội văn
minh và tự do
Thế giới này đang sôi sục chiến
tranh, mọi bảng giá trị hầu như được con người quy chiếu bằng thước đo
đồng tiền. Thái độ “chấp thủ” của từng cá nhân ngày càng nhân lên, thay
vì “xả ly” họ lại tự trói mình bằng gông cùm trong hiện hữu. Con người
hiện đại ít nhiều đã tự đánh mất phẩm chất cao quý của mình để chạy theo
lợi nhuận. Dù vậy, Đạo Phật đã dạy một đời sống tốt đẹp không chỉ tạo
bằng thức ăn ngon, áo mặc đẹp, mái nhà xinh xắn, mà còn được sinh động
bởi ý định trong sạch, một lòng từ bi không giáo điều cũng không triết
lí bác học. Mà đó là lòng kính trọng phẩm giá quyền lợi của mọi người.
Để hết chiến tranh, xây dựng xã hội văn minh, con người phải hết tham
lam, thù hận cố chấp. Muốn sống hòa bình an lạc, con người phải có tình
thương và hiểu biết. Hòa bình không thể có được chỉ bằng cầu nguyện, ký
tên, hay hội thảo kêu gọi suông mà phải làm sao cho mọi người tỉnh thức
và chuyển hóa. Những lời kêu gọi đó hết sức có giá trị và nhắc nhở cảnh
tỉnh nhân loại hãy đoàn kết góp phần tích cực vào công cuộc giữ gìn hòa
bình.
Mặt khác trong điều kiện sản xuất
chưa phát triển mạnh của xã hội, nhu cầu vật chất ngày càng cao, nên
cuộc sống con người gặp khó khăn, nên cái khổ vẫn là điều tất yếu, đôi
khi con người cảm thấy bi quan thất vọng. Do vậy, sự giải thích cuộc đời
con người chỉ quẩn quanh trong nổi khổ “nhân sinh là khổ” hết sức có ý
nghĩa. Việc đưa ra con đường diệt khổ, tự giải thoát mà không chờ bất kỳ
cứu nhân độ thế nào đã trở thành tự tưởng giáo dục đầy khích lệ hấp
dẫn, mang tính nhân văn sâu sắc.
Tư
tưởng giáo dục này cũng có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới
của Việt Nam, nhằm xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, mà trong đó quần chúng nhân dân là hạt nhân cơ bản để xây dựng nên
tòa lâu đài văn minh của xã hội, đem lại hòa bình cho toàn thể nhân dân
ta.
III.
KẾT LUẬN
Nói
chung, nội dung tư tưởng giáo dục của triết lý Phật giáo là triết lý
sống, là lý luận đấu tranh của quần chúng, là hơi thở và cứu cánh của
mỗi con người. Nên một nhà nghiên cứu đã viết: “Sự xuất hiện của Đạo
Phật trên lịch sử thế giới thực là một quan trọng bậc nhất. Đạo Phật là
đạo của hạnh phúc và tình mến bao la”. Do tư tưởng giáo dục của triết lí
Phật giáo chưa hoàn chỉnh trong việc xác định nguồn gốc của nổi khổ nên
việc giải quyết để đạt hạnh phúc chủ yếu dừng lại ở mặt tâm lý, tinh
thần, đạo đức cá nhân hơn là bằng cải biến xã hội hiện thực bằng hành
động cách mạng.
Dù vậy,
triết lí Phật giáo đã dạy con người thức tỉnh trong hành động tạo tác
của mình để xa lánh việc ác. Giáo lý nhân quả đã chú trọng đặt ra trách
nhiệm cá nhân của mỗi người đối với các điều kiện sống của mình. Chẳng
hạn một người phạm tội, luật pháp sẽ trừng phạt khi hành vi phạm tội
được xác định. Trong khi đó, với nội dung giáo dục Phật Giáo, anh ta sẽ
có tội ngay khi ý niệm xấu ác phát sinh, mặc dù đó chỉ là ý niệm chưa
phải là hành vi. Ở đây trách nhiệm cá nhân là trách nhiệm cao nhất đối
với thái độ tâm lý đạo đức của mỗi người, mà không phải là trách nhiệm
theo quy ước luật pháp trong xã hội.
Trong
một số trường hợp, những người khôn ngoan có thể chạy trốn pháp luật,
nhưng với luân lý đạo đức họ không thể chạy trốn lương tâm của mình.
Đứng trên phương diện này thì giáo dục Phật giáo là vô cùng lành mạnh,
tích cực. Nó đã thu hút sự chú ý, niềm say mê và lòng ngưỡng mộ của
nhiều nhà tư tưởng trên thế giới. Nó đã đem lại cho nhân loại một quan
niệm mới, một cách nhìn mới về thế giới nhân sinh. Vì thế, trong quá
trình phát triển giáo dục để đưa đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa,
chúng ta có thể chọn lọc kế thừa những yếu tố tích cực của nội dung tư
tưởng giáo dục của triết lý Phật giáo. Ta có thể vạch ra con đường để cá
nhân tự cải tạo bản thân mình, chuyển cuộc đời vốn khổ đau bị cuốn trôi
theo ham muốn thành cuộc đời hạnh phúc, bình an. Làm được như thế, tự
chúng ta yêu quý cuộc đời này, góp phần khắc phục được những khủng hoảng
xã hội, giữ vững ổn định chính trị trên con đường hội nhập và phát
triển hiện nay.
(ĐHKHXH&NV)
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Doãn Chính, Lịch sử
triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb Thanh Niên, 1999.
2. Đoàn Trung Còn, Từ điển Phật
học (3 tập), Trí Đức- Sài Gòn, 1966.
3. Will Durant, Lịch sử văn minh
Ấn Độ, Nxb Văn hóa Thông tin, 2003.
4. Cao Hữu Đính, Phật và thánh
chúng, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1996.
5. Narada, Đức Phật và Phật pháp,
Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, 1989.
6. Thôi Liên Trọng, Lịch sử thế
giới thời cổ đại (tập 1), Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2002.
7. Tăng Chi Bộ Kinh, Viện nghiên
cứu Phật học Việt Nam, 1996.
8. Trung Bộ Kinh, Viện nghiên cứu
Phật học Việt Nam, 1992.
9. Tương Ưng Bộ Kinh, Viện nghiên
cứu Phật học Việt Nam, 1993.
10. Tiểu bộ kinh, Viện nghiên cứu
Phật học Việt Nam, 1987.
11. Thích Minh Quang, Kinh pháp cú
thí dụ, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1998.
THE FIRST STEP TO STUDY THE
EDUCATION IDEOLOGY OF THE BUDDHIST PHILOSOPHY
At the beginning of XXI
century, our country continues developping the education to progress to
socialism. The Buddhist philosophy in the name of a member also set
forth the education ideology with the basic content:
- To educate human live with
benevolence and intelligence;
- To educate human live properly
in the society;
- To educate persons to live
without shely altruistic.
Buddhist education has a deep
humanity value. It has a part in educating human beings living
virtuously and happily.