Mười
điều tâm niệm trong "Luận Bảo Vương Tam
Muội":
Điều 1 : Nghĩ đến thân thể thì đừng
cầu
không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh
khổ làm
thuốc thần.
Điều 2 : Ở đời đừng cầu không hoạn
nạn, vì
không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát.
Điều 3 : Cứu xét tâm tánh thì đừng
cầu
không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy lấy
khúc
mắc làm thú vị.
Điều 4 : Xây dựng đạo hạnh thì đừng
cầu
không ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
Hãy lấy
ma quân làm bạn đạo.
Điều 5 : Việc làm đừng mong dễ thành,
vì
việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm
thích
thú.
Điều 6 : Giao tiếp thì đừng cầu lợi
mình,
vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ.
Điều 7 : Với người thì đừng mong tất
cả
thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
Hãy lấy
người chống đối làm nơi giao du.
Điều 8 : Thi ân đừng cầu đền đáp, vì
cầu
đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ.
Điều 9 : Thấy lợi đừng nhúng vào, vì
nhúng
vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa.
Điều 10 : Oan ức không cần biện bạch,
vì
biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.
Trên thế gian này, cuộc sống đầy dẫy
những sự
bất trắc, bất như ý, con người phải bon chen quanh năm suốt tháng để
sống
còn, phải tranh đấu một cách vất vả để vươn lên, để vượt qua những cơn
sóng
gió của cuộc đời, những bước thăng trầm của thế sự. Con người thường
mang
tâm trạng hoang mang, âu lo, sợ hãi khi hướng về tương lai, không biết
rồi
đây ngày mai mình sẽ ra sao, cuộc đời của mình sẽ như thế nào, chuyện
gì sẽ
xảy ra cho mình và người thân của mình? Cho nên con người thường mong
muốn
mọi chuyện được bình yên, suông sẻ, may mắn, chuyện gì cũng đều tốt đẹp
như
ý. Lòng mong muốn cao độ đó thường dẫn tới sự cầu nguyện, van xin Trời
Phật
ban cho những điều mơ ước vượt tầm tay, tưởng chừng như ngoài khả năng
của
con người.
Chúng ta cần nên biết rằng: Đức Phật
không
phải là thần linh, không ban phước giáng hoạ cho bất kỳ một ai. Cũng
không
có lý do nào Đức Phật ban phước lành cho riêng mình, mà không ban cho
người
khác. Thực ra, đạo Phật giảng dạy nhiều phương pháp hành trì, gọi là
"vô
lượng pháp môn", để giúp con người tự lực, mạnh mẽ vượt lên trên mọi
sóng
gió phiền não, khổ đau của cuộc đời, bước ra khỏi vòng trầm luân sanh
tử, tự
tạo cuộc sống an lạc và hạnh phúc cho chính mình. Trong Kinh Pháp Cú,
Đức
Phật có dạy:"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp".
Nghĩa là chúng ta hãy tự thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của chúng ta, bằng
cách
học hiểu những lời dạy của Đức Phật, và đem áp dụng trong cuộc sống
hằng
ngày, để thấy được sự mầu nhiệm của Chánh Pháp, để tự cứu mình và giúp
đỡ
người khác.
* * *
Trong kinh sách của Phật giáo, những lời
dạy
quý báu có thể giúp đỡ chúng ta vượt qua những cơn sóng gió của cuộc
đời,
vượt qua những bước thăng trầm của thế sự, được ghi chép khắp nơi,
chẳng hạn
như trong "Luận Bảo Vương Tam Muội", chúng ta có "Mười Điều Tâm Niệm"
cần
nên thường xuyên chiêm nghiệm, suy tư, nghĩ tưởng luôn luôn, để mỗi khi
"bát
phong" ập đến, nghĩa là sóng gió của cuộc đời dồn dập xảy ra, chúng ta
có
thể đối phó, ứng xử một cách dễ dàng hơn, không bị nhận chìm trong biển
nước
mắt của phiền não và khổ đau.
*
Điều 1:
Điều thứ nhứt trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Nghĩ đến thân thể
thì
đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy
lấy
bệnh khổ làm thuốc thần". Tại sao vậy? Bởi vì khi nào con người còn
mang
tấm thân tứ đại, thì còn đau khổ vì bệnh tật. Tấm thân tứ đại bao gồm
các
yếu tố đất, nước, gió, lửa, thường xuyên chống trái nhau, gây đau đớn,
khổ
sở cho con người. Người nào có phước nhiều thì ít bệnh. Người nào ít
phước,
kém phước, bạc phước thì bệnh tật triền miên. Cho đến khi hết duyên ở
đời,
con người phải ra đi, nhưng tấm thân tứ đại này thì để lại, tan rã và
trở về
với tứ đại trong trời đất. Cát bụi lại trở về với cát bụi, thế thôi!
Người
nào tạo phước nhiều thì ra đi dễ dàng, nhẹ nhàng, êm thắm. Người nào
tạo
nghiệp nhiều thì ra đi khó khăn, hành hạ thân xác, khổ lụy người thân…
Con người không ai mong cầu bệnh khổ,
cho dù
cầu mong không bệnh khổ, nhưng bệnh khổ vẫn cứ đến. Nếu không có bệnh
khổ,
con người khỏe mạnh thường sinh dục vọng khó kềm chế. Thỏa mãn những
dục
vọng này, con người gây thêm biết bao nhiêu là ác nghiệp, để rồi phải
đền
trả, cho nên phải lăn lộn trong biết bao nhiêu kiếp luân hồi sanh tử,
bao
giờ mới có thể dứt, có thể thoát ra được? Bởi vậy cho nên, Đức Phật
dạy
chúng ta đừng cầu không bệnh khổ, nên coi bệnh khổ như là món thuốc
thần, là
tiên dược để điều trị những dục vọng trong tâm thức của chúng ta. Dục
vọng
càng nhiều chừng nào, con người càng phiền não và khổ đau chừng ấy.
Đạo
Phật là đạo cứu khổ nhân loại. Phật Pháp có công năng điều trị tâm
bệnh của
chúng sanh. Chúng sanh có muôn ngàn tâm bệnh thì Phật Pháp có tám muôn
bốn
ngàn pháp môn đối trị.
Chẳng hạn như người hay tham lam, bỏn
xẻn thì
pháp đối trị là hạnh bố thí. Người nào hiểu được hạnh bố thí đem lại
vô
lượng vô biên phước báu và thực hành được hạnh bố thí hằng ngày thì tâm
tham
lam, bỏn sẻn sẽ giảm đi nhiều. Chẳng hạn như người hay nóng giận thì
pháp
đối trị là quán từ bi. Con người tăng trưởng tâm từ bi được thì những
cơn
nóng giận sẽ giảm đi rất nhiều. Cặp mắt của người có tâm từ bi, luôn
luôn
thương nhìn cuộc đời, cư xử nhẹ nhàng, dễ dãi với mọi người chung
quanh, khó
nổi cơn sân với những lỗi lầm, sai trái của người khác, không lợi dụng
lòng
từ bi của mọi người. Các bậc phụ huynh cần có tâm từ bi quảng đại mới
có thể
giữ gìn được hạnh phúc trong gia đình. Các nhà giáo cần có tâm từ bi
quảng
đại mới có thể thương yêu, dạy dỗ học sinh như con ruột của chính mình.
Các
nhà tu cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể thương xót chúng sanh đang
trầm
luân đau khổ, phát nguyện tu hành tinh tấn để tự độ và độ tha, sẵn sàng
hy
sinh, phục vụ nhân loại. Chẳng hạn như người hay cố chấp, sống để dạ
chết
mang theo những lời người khác nói mích lòng thì pháp đối trị là tâm hỷ
xả.
Người nào hiểu được rằng chứa chấp càng nhiều trong tâm thức của mình
thì
càng bị trầm luân trong sanh tử luân hồi, trong phiền não và khổ đau,
chẳng
ích lợi gì, bèn cố gắng phát triển tâm hỷ xả, tự khắc sẽ cảm thấy khinh
an,
nhẹ nhàng, mắt sẽ nhìn cuộc đời một cách lạc quan hơn, cuộc sống sẽ an
lạc
hơn.
*
Điều 2:
Điều thứ hai trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Ở đời đừng cầu không
hoạn
nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải
thoát". Tại sao vậy? Bởi vì van xin cầu khẩn thực sự có được gì đâu.
Con
người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên cuộc
sống
kiếp này mới gặp nhiều hoạn nạn, bất trắc, bất như ý. Muốn cuộc sống
bớt
hoạn nạn, vui nhiều hơn khổ, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh,
làm
phước tạo phước kiếm phước nhiều hơn, đừng làm người khác đau khổ, dù
bằng
hành động, lời nói hay ngay cả trong ý nghĩ cũng vậy. Chúng ta nên nhớ
rằng:
chỉ có phước báo mới có thể che chở chúng ta qua những cơn hoạn nạn mà
thôi. Không có Trời Phật nào cứu chúng ta khi gặp hoạn nạn đâu. Cũng
như
chỉ có chiếc ghe mới có thể chở chúng ta qua sông mà không bị thấm nước
vậy.
Con người không ai cầu mong hoạn nạn,
cho dù
mong cầu không hoạn nạn, nhưng hoạn nạn vẫn cứ tới, nguyên do là chúng
ta
phải đền trả những nghiệp báo đã tạo từ trước, không ai có thể tránh
khỏi.
Những người nào sống ở trên đời không gặp hoạn nạn, làm việc gì cũng
thành
công dễ dàng, người đó thường sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, phách lối,
tiêu
xài xa xỉ, khinh thường thế nhân, nghi kỵ mọi người, khiến mọi người xa
lánh, không ai muốn gần gũi, thân cận, vì chẳng ích lợi gì. Khi gặp
hoạn
nạn, con người thường không còn tâm kiêu căng, vì kiêu căng thì gặp
nạn,
không còn xa hoa phung phí, tâm không còn duyên theo cảnh trần, không
còn dễ
nổi lòng tham lam, không còn dễ sân hận, không còn si mê lầm lẫn, bởi
vì
tham thì gặp nạn, sân thì gặp nạn, ngu thì gặp nạn. Nghĩa là hoạn nạn
giúp
cho con người sớm giải thoát khỏi những trói buộc của tham lam, sân
hận, si
mê, ngã mạn, nghi kỵ, chính là nghĩa đó vậy.
Hơn nữa, trong cuộc sống phức tạp, nhiều
khi
gặp hoạn nạn này, có thể chúng ta tránh được hoạn nạn khác lớn hơn. Thí
dụ
như có người vì thua bạc nên mất vé tàu đi du lịch, cho nên thoát chết,
vì
chuyến tàu đó bị chìm đắm ngoài biển khơi. Nghĩa là có khi trong hoạn
nạn,
chúng ta có thể tìm được sự may mắn, hay bài học, hoặc kinh nghiệm nào
đó
vậy. Không có chuyện gì hoàn toàn xui xẻo, không có chuyện gì hoàn
toàn may
mắn cả. Chẳng hạn như trúng số độc đắc có thể giúp chúng ta mua nhà,
tậu xe,
làm ăn buôn bán, cũng có thể gây bất hòa trong gia đạo, làm cho gia
đình tan
nát, hay trộm cướp viếng thăm, hoặc mừng quá… tắt thở luôn! Chẳng hạn
như tù
tội gian khổ, đối với bậc thánh nhân phi phàm, là cơ hội tốt nhứt để
rèn
luyện tâm tánh, để suy tư sáng tác những tác phẩm để đời. Biết bao
nhiêu bậc
vĩ nhân, hiền triết trên thế giới, xuất thân từ ngục tù. Đối với kẻ hèn
yếu,
hoạn nạn chính là địa ngục trần gian, nhận chìm họ trong biển khổ đau,
phiền
não!
*
Điều 3:
Điều thứ ba trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Cứu xét tâm tánh thì
đừng
cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy
lấy
khúc mắc làm thú vị". Tại sao vậy? Bởi vì tâm tánh của chúng ta, vì
duyên
theo cảnh trần, cho nên không cố định, thường xuyên thay đổi. Gặp cảnh
thuận
lòng vừa ý, tâm trạng của chúng ta vui tươi, hớn hở, hỷ hạ, hân hoan,
hài
lòng. Gặp cảnh trái tai gai mắt, tâm trạng của chúng ta nổi sóng gió
ngay,
nhẹ thì còn giữ được trong lòng, nặng thì phun ra miệng những cơn bực
dọc,
tức tối. Gặp đối phương biết nhẫn nhịn, thì mọi việc còn có thể êm
xuôi, qua
chuyện. Gặp phải người cứng cổ, cang cường, ngoan cố, thì câu chuyện
không
biết sẽ kết thúc như thế nào? Có thể người đi nhà thương hay vào nhà
xác,
còn người khác đi nhà tù.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có
dạy:
"Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn
là
chơn tâm". Nghĩa là tâm tánh của chúng ta luôn luôn xao xuyến, loạn
động,
bất an, được gọi là "vọng tâm", tức là tâm vọng động vì duyên theo cảnh
trần. Lúc tâm trạng buồn thảm, thê lương, thì chúng ta cảm thấy cảnh
vật
chung quanh cũng chẳng có gì vui vẻ cả. Trái lại, khi trong lòng thấy
vui,
có niềm hoan hỷ, chúng ta cảm thấy cảnh vật chung quanh dường như đang
chia
xẻ niềm vui hân hoan đó với chúng ta. Chính vọng tâm là căn bản của
sanh tử
luân hồi. Tại sao vậy? Bởi vì vọng tâm lúc vui lúc buồn, lúc thương
lúc
ghét, lúc tốt lúc xấu, lúc nghĩ chuyện đông lúc nghĩ chuyện tây, lúc
nghĩ
chuyện hiện tại, lúc nghĩ chuyện quá khứ, vị lai, lúc vầy lúc khác, lúc
có
lúc không, lúc còn lúc mất, sanh diệt liên miên trong từng sát na,
trong
từng giây phút, ví như con ngựa chạy lung tung linh tinh lang tang khắp
chốn, ví như con vượn chuyền từ cành cây này sang cành cây khác khắp
nơi
vậy.
"Vọng tâm" là động lực chính dẫn dắt
chúng
sanh tạo nghiệp trong vòng sanh tử luân hồi. Muốn tâm được an, mỗi khi
vọng
tâm khởi lên, chúng ta nhận biết ngay, dừng lại lập tức, đừng theo đuổi
nó,
thì được giải thoát khỏi những hệ lụy ưu phiền sau đó, phiền não và khổ
đau
sẽ không đến. Khi sống ở đời, tiếp xúc với mọi cảnh, mọi sự, mọi việc,
vẫn
sinh hoạt như bao nhiêu người khác, nhưng tâm vẫn như như, an định,
không
xao xuyến, không loạn động, tức là chúng ta đang sống trong cảnh giới
niết
bàn, an lạc, tịch diệt, nói cách khác, lúc đó chúng ta sống với "chơn
tâm"
đó vậy. Chơn tâm ví như mặt biển yên lặng, phẳng lờ, rộng rãi, bao la
bát
ngát. Vọng tâm ví như những ngọn sóng do gió thổi gây nên, gió nhẹ
sóng
nhỏ, gió mạnh sóng to. Sách có câu:
“Tâm buồn cảnh được vui sao,
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng
an”.
Tục ngữ cũng có câu: "Dò sông dò biển dễ
dò.
Đố ai lấy thước mà đo lòng người". Nghĩa là tâm tánh của con người
biến
thiên không cùng, lòng dạ con người còn khó dò hơn sông hơn biển, cho
nên
khi cứu xét tâm tánh, chúng ta không thể nào tránh được những khúc mắc.
Chúng ta đừng nản lòng vì những khúc mắc đó. Bởi vì chính những khúc
mắc đó
giúp chúng ta thêm nhiều thú vị, hăng hái hơn trên bước đường tu tâm
dưỡng
tánh, xả bỏ những tạp niệm, vọng tâm, loạn tưởng. Chúng ta luôn luôn
thúc
liễm thân tâm trong từng giây phút, đừng để vọng tâm dối gạt, nghĩ rằng
mình
tu đã khá lắm rồi, đã hiền thiện lắm rồi, đã đạt được điều này điều nọ.
Có
những lúc chúng ta làm những điều bất thiện, lợi mình hại người, kiện
thưa
người khác, đòi bồi thường bạc triệu, đó là lòng tham lam. Chúng ta
đem bố
thí hay cúng chùa vài chục bạc, vọng tâm dối gạt mình: thế là xong, hết
tội
rồi! Trong thiền tông, chư Tổ dạy chúng ta phải "sống trong tỉnh
thức", hay
"sống trong chánh niệm", chính là nghĩa đó vậy.
*
Điều 4:
Điều thứ tư trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Xây dựng đạo hạnh thì
đừng
cầu không ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên
cường. Hãy
lấy ma quân làm bạn đạo". Tại sao vậy? Bởi vì ma chướng ở đây có
nghĩa là
những lời khen tiếng chê, là danh thơm hay tiếng xấu. Nếu chúng ta có
thể
coi những người khen chê như những người giúp đỡ chúng ta trên bước
đường tu
tập, rèn luyện tâm tánh, thì chính họ là bạn đạo, là thiện hữu tri
thức, là
Bồ-tát nghịch hạnh, là giám khảo trên đường đạo của chúng ta vậy. Bởi
vì ma
chướng ở đây cũng có nghĩa là những sóng gió của cuộc đời, những chuyện
phiền não khổ đau, những chuyện thị phi phải quấy, những chuyện bất
trắc bất
như ý, những chuyện lăng xăng lộn xộn hằng ngày. Thông suốt được như
vậy,
chí nguyện của chúng ta mới kiên cường, không thoái chuyển, khi gặp lời
khen
hay tiếng chê, danh thơm hay tiếng xấu, khi gặp bát phong của cuộc đời,
và
tâm trí của chúng ta mới không bị dao động.
Chúng ta không ai mong cầu ma chướng,
cho dù
cầu mong không ma chướng, nhưng ma chướng vẫn cứ tới đều đều. Trên đời
này
có thiếu gì những kẻ luôn luôn dòm ngó người khác, để vạch lá tìm sâu,
để
bới lông tìm vết, trong khi bản thân họ thì đủ thứ thói hư tật xấu.
Trong
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Khi lên tiếng phê bình lỗi
của
người khác, thì lỗi của mình đã ở ngay bên chân rồi đó vậy". Tuy nhiên,
dù
ma chướng có tới thường xuyên cỡ nào, nếu biết tu tâm dưỡng tánh, chúng
ta
cũng có thể chấp nhận được, chịu đựng được, coi đó như là những thử
thách
cần thiết để nhắc nhở chúng ta rèn luyện tâm tánh, chuyển hóa cuộc sống
từ
phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc. Sách có câu: "Ví phỏng đường
đời
bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai", chính là nghĩa đó vậy.
*
Điều 5:
Điều thứ năm trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Việc làm đừng mong
dễ
thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó
khăn
làm thích thú". Tại sao vậy? Bởi vì việc làm nào càng khó khăn, càng
gian
khổ bao nhiêu, mà chúng ta có thể vượt qua, đạt được thành công, thắng
lợi,
thì việc làm đó càng vinh quang, hiển hách bấy nhiêu. Chẳng hạn như
bài
toán càng khó khăn bao nhiêu, khi giải được, tìm được kết quả, càng
thích
thú bấy nhiêu. Việc làm nào dễ thành chỉ là những việc làm tầm thường,
không có giá trị cao, hoặc người thực hiện có thừa khả năng, cho nên dễ
sanh
ra khinh thường mọi việc, kiêu ngạo, coi trời bằng nắp vung.
Ở trên thế gian có nhiều việc rất khó
khăn,
ít người thành đạt, chẳng hạn như thi đậu bằng cấp này, bằng cấp kia,
tìm ra
món thuốc điều trị mới, phát minh ra máy móc hiện đại, tối tân, sáng
chế ra
cách thức làm việc khoa học hơn, đem lại năng suất cao hơn. Các bậc anh
hùng
cứu quốc, có thể đem lại độc lập, tự do, no ấm cho một dân tộc, không
phải
ai ai cũng có thể làm được một cách dễ dàng. Trên phương diện xuất thế
gian, việc tu tâm dưỡng tánh cũng vậy, nếu ai ai tu tập sơ sài, cũng có
thể
thành Phật được, thì quả vị Phật đâu còn giá trị bao nhiêu. Một vị
Phật ra
đời đem lại phước báu, ích lợi cho biết bao nhiêu chúng sanh, trong
biết bao
nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, không thể nghĩ bàn.
*
Điều 6:
Điều thứ sáu trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Giao tiếp thì đừng
cầu
lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người
giúp
đỡ". Tại sao vậy? Bởi vì những mối lợi, dù nhỏ dù lớn, trên thế gian,
cũng
đều là những mục tiêu tranh giành, chiếm đoạt của bao nhiêu người.
Người đời
thường không ngại dùng đủ mọi thủ đoạn, để tranh danh đoạt lợi, cho nên
bất
chấp đạo nghĩa, luân lý, tình thương, quan hệ. Con người sẵn sàng
thượng
đội hạ đạp, chà đạp mọi người chung quanh, chỉ vì chút danh lợi nhỏ
nhoi.
Danh lợi ở đời ví như những miếng mồi câu cá. Cá nhỏ tới ăn miếng mồi
liền
bị cá lớn đớp gọn. Cá lớn đớp cá nhỏ xong, thì bị lưới lên ghe ngay tức
thì…
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Khi
tới ngã ba đường, nếu thấy cái cây đầy trái chín mọng, không ai hái ăn,
thì
nên hiểu rằng đó là trái độc". Nghĩa là ở đời không có mối lợi
lớn
nhỏ nào dành sẵn cho mình hưởng, hay người khác đem dâng tặng mình, mà
không
có cái bẫy rập độc hại bên trong, bên dưới, hay phía sau, chờ đợi người
tham
lam, mê muội, thiếu suy nghĩ. Người đời thường thả con tép để bắt con
tôm.
Người nào tham lợi lớn, ham lời nhiều, thường hay bị lợi dụng, bị sập
bẫy
một cách dễ dàng, ví như cá thường hay cắn câu vậy. Cũng như những
người
không cố gắng tu tâm dưỡng tánh, không chịu học hiểu Chánh Pháp, không
làm
lợi ích gì cho chúng sanh, cho đạo pháp, chỉ tham danh lợi, thích sự
sung
sướng, thì quả báo, nghiệp báo tới liền sau đó.
Trong phạm vi gia đình, nếu vợ chồng con
cái
giao tiếp với nhau hằng ngày mà không biết thương yêu nhau, không biết
nghĩ
đến nhau, không biết hy sinh cho nhau, người nào cũng chỉ nghĩ đến
quyền lợi
riêng mình, chỉ nghĩ đến sự sung sướng bản thân, thì còn gì là đạo
nghĩa vợ
chồng, còn gì là tình cha con, còn gì là mẫu tử tình thâm, còn gì gọi
là
hạnh phúc gia đình?
Trong phạm vi xã hội, trong lúc giao
thiệp
tiếp xúc hằng ngày, người nào chỉ nghĩ đến, chỉ mong cầu lợi mình, bất
chấp
hại người, người đó làm sao sống hòa thuận, yên ổn, vui vẻ với những
người
chung quanh? Người quá ích kỷ như vậy làm sao kết bạn được với ai, làm
sao
sống cuộc đời hạnh phúc? Hạnh phúc thực sự chỉ có với những người biết
hai
chữ "hy sinh" mà thôi. Trong cuộc đời, những kẻ ích kỷ, tệ bạc, chỉ
biết lợi
mình, bất chấp hại người, chẳng kể nhân tình, chẳng màng đạo nghĩa,
nhiều
không biết bao nhiêu mà kể cho xiết. Nhưng chính những người như vậy
lại là
kẻ giúp đỡ người biết tu tâm dưỡng tánh, để rèn luyện tâm tánh của
mình. Có
gặp những kẻ tệ bạc như vậy mà tâm trí của chúng ta vẫn như như, bất
động,
bình tĩnh, thản nhiên, mới biết được công phu tu tập của mình đến đâu.
Nếu
tất cả mọi người đều tốt, đều hiền thiện, đều biết đạo nghĩa, thì chúng
ta
đâu biết tâm mình ra sao? Bởi vậy cho nên, người nào thực sự muốn phát
tâm
tu học, thì ngay cuộc đời này, ngay cõi ta-bà ngũ trược ác thế này,
chính là
trường tu tốt nhứt vậy, không cần phải đợi vãng sanh Tây phương cực lạc
mới
chịu bắt đầu tu. Tại sao vậy? Bởi vì cõi Tây phương cực lạc, như Đức
Phật
Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh A Di Đà, là nơi chỉ toàn bậc Thánh nhơn,
chư
thượng thiện nhơn câu hội, đâu cần phải tu làm gì nữa, đâu có chỗ chứa
hạng
phàm phu không chịu tu.
*
Điều 7:
Điều thứ bảy trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Với người thì đừng
mong
tất cả thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu
căng.
Hãy lấy người chống đối làm nơi giao du". Tại sao vậy? Bởi vì sách có
câu
"năm người mười ý", đâu ai có ý kiến giống ai, mỗi người thường có ít
nhứt
hai ý kiến trong cùng một vấn đề, nay vầy mai khác, thì làm sao bắt
buộc
người khác phải thuận theo ý mình? Tại sao mình lại không thuận theo ý
người khác? Con người vì sự cố chấp, chấp chặt như vậy cho nên phiền
não và
khổ đau dài dài!
Trong gia đình, nếu người chồng hay
người vợ
cố chấp, bảo thủ ý kiến của riêng mình, thì làm sao gia đình đó có hạnh
phúc
được? Cái gì của mình cũng đúng, cũng hay, cũng nhứt cả, thì làm sao
chịu
nghe ý kiến của người khác? Cha mẹ và con cái thuộc hai thế hệ khác
nhau,
thì tức nhiên ý kiến, suy nghĩ, hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt, tất cả
đều
khác nhau, không thể khai trừ nhau, cho nên phải tùy thuận nhau mà
sống, mới
có được hạnh phúc trong gia đình. Trong thập đại nguyện của Bồ Tát Phổ
Hiền, điều thứ chín dạy: "Hằng thuận chúng sanh", chính là nghĩa đó
vậy.
Tuy nhiên, tùy thuận chúng sanh không có nghĩa là một người trong gia
đình
có lòng tham lam, xúi giục cả gia đình tham lam theo, bất chấp thủ
đoạn, lợi
mình hại người.
Trong phạm vi xuất thế gian, người tu
theo
pháp môn này chê bai pháp môn khác cũng đều không đúng. Tại sao vậy?
Bởi vì
đạo Phật có nhiều pháp môn tương ứng, thích hợp, tùy theo căn cơ, trình
độ,
hoàn cảnh, sở thích của mỗi người, để mọi người đều có thể tu tập
được.
Chúng ta không nên nghĩ mọi người phải tu như mình, hành như mình, mới
là
đúng. Ý nghĩ như vậy, tư tưởng như vậy chỉ làm cho chúng ta càng ngày
càng
trở nên kiêu căng, phách lối, ngạo mạn, chê người, khinh đời. Trái
lại,
chúng ta nên giao du với những người chống đối, trái ý, để luôn luôn
suy
xét, hoàn chỉnh ý kiến của mình, chuyển hóa tâm tánh của mình, để học
hỏi
thêm cái hay cái tốt của họ. Nhờ có những người nghịch ý, chống đối
như vậy
chúng ta bớt lòng kiêu căng. Ví như chiếc xe có máy móc để chạy, cũng
cần
có cái thắng mới hữu dụng vậy. Nếu không có cái thắng, chắc chắn có
ngày
cũng lọt xuống hố mà thôi.
*
Điều 8:
Điều thứ tám trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Thi ân đừng cầu đền
đáp,
vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ".
Tại
sao vậy? Bởi vì chúng ta thi ân, làm ơn vì lòng tốt, chứ không phải vì
muốn
được cám ơn, nhớ ơn hay đền ơn. Làm ơn mà muốn được cám ơn, muốn được
nhớ
ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì danh tiếng mới chịu làm.
Làm ơn
mà muốn được đền ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì lợi lộc mới
chịu
làm. Làm ơn như vậy chẳng có phước báu gì, chẳng được người khác mang
ơn,
mà còn chuốc lấy oán hờn, thù ghét, chuốc lấy ưu phiền, bực tức, khi
gặp mặt
kẻ vô ơn, bạc nghĩa. Làm ơn như vậy rõ ràng là có mưu đồ, làm ơn thì
ít, mà
muốn được đền ơn gấp bội phần. Chẳng hạn như khi đến phúng điếu, giúp
đỡ
tang quyến người khác chẳng bao nhiêu, lại muốn được "trả công bội hậu"
ở
nước thiên đàng, thì quả là tham lam quá xá.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
"Thi
ân, bố thí bất trụ tướng, phước đức bất khả tư lượng". Nghĩa là chúng
ta
làm ơn bố thí, nhưng không chấp mình là người ban ơn làm phước, không
thấy
có người thọ nhận việc phước mình làm, không nhớ mình làm phước giúp đỡ
điều
gì, không tính mình giúp đỡ bao nhiêu người. Được như vậy, chúng ta sẽ
ăn
ngon ngủ yên, tâm trí không bất an vì những chuyện phước đã làm, vì gặp
những người vô ơn, không tiếc nuối những vật đã đem cho, không ân hận
đã
giúp đỡ lầm người. Làm ơn có nghĩa là làm phước, tạo phước bòn phước,
cứu
đời giúp người, khi cần thiết, lúc hoạn nạn, chỉ vì lòng tốt, vì tâm
lượng
từ bi, vì muốn chuyển hóa tâm tánh của chính mình, thì như vậy mới có
thể
làm ơn được lâu dài, giúp được nhiều người, nhiều lần và phước báu vô
lượng
vô biên, không thể nghĩ bàn. Sách có câu: "Thi ân bất cầu báo đáp",
chính
là nghĩa đó vậy. Hàng phục được tâm ý, chuyển hóa được tánh tình như
vậy,
chúng ta mới có thể phát nguyện độ tất cả chúng sanh, mà không thấy có
chúng
sanh nào được độ. Cho nên Đức Phật dạy hãy coi thi ân như đôi dép bỏ,
làm
ơn làm phước xong rồi thì quên ngay đi, bỏ qua liền, đừng ghi nhớ trong
tâm
thức cho thêm phần nặng nề. Được như vậy, chúng ta mau tiến đến chỗ
giác
ngộ và giải thoát.
*
Điều 9:
Điều thứ chín trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Thấy lợi đừng nhúng
vào,
vì nhúng vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa". Tại
sao
vậy? Bởi vì lợi lộc trên đời thường do tranh đấu, giành giựt, bon
chen, bất
chấp mọi thủ đoạn, bất chấp nhơn nghĩa, bất chấp đạo lý, mới có được.
Lợi
lộc không từ trên trời rơi xuống, không ở dưới đất trồi lên. Khi thấy
có
lợi lộc, cả khối người nhào vô, sẵn sàng chà đạp, gạt gẫm, loại trừ,
giết
hại lẫn nhau để chiếm đoạt cho bằng được.
Nhiều khi lợi lộc quá lớn lao, có thể
khiến
cho con người đánh mất lương tri, sẵn sàng thanh toán người thân lẫn kẻ
thù,
chỉ nhằm đoạt được mục tiêu mà thôi. Chẳng hạn như một thái tử âm mưu
sát
hại phụ hoàng để chiếm ngai vàng, con cái giết hại cha mẹ để đoạt gia
tài,
bạn bè cáo gian để hại nhau, chiếm đoạt tài sản, vợ con người khác.
Con
người vì ham lợi lộc cho nên chuyện gì cũng dám làm, coi lợi lộc như
vinh
hoa phú quí cần phải có trên thế gian, để ngẩng mặt nhìn đời cho có oai
phong ngon lành. Chính vì thế tâm si mê phải động, sai khiến con người
làm
tất cả mọi chuyện để thỏa mãn lòng tham lam của mình. Con người khi
thấy
lợi lộc liền nhúng tay vào, mà chẳng cần biết hậu quả ra sao? Đó chính
là
tâm si mê vậy.
Các sòng bạc được mở ra khắp nơi, chính
là
những cái bẩy khổng lồ nuốt tiền của những người nhẹ dạ ham vui tham
tiền,
hình như ai ai cũng biết vậy, nhưng có rất nhiều người nuôi tham vọng
là mối
lợi to lớn ở các sòng bạc đó, biết đâu may mắn đến với mình, cho nên
mạnh mẽ
nhào vô … lãnh đủ. Có nhiều người tán gia bại sản, nợ nần tứ tung,
nhưng
vẫn không chừa, vẫn không không biết sợ. Tục ngữ có câu: "Cờ bạc là
bác
thằng bần. Cửa nhà bán hết nợ nần tứ tung". Có cửa nhà để bán trả nợ
là còn
có phước đó. Người nào muốn tu tâm dưỡng tánh thì phải xả bỏ tâm tham
lợi,
tâm si mê, phải biết sống cuộc đời thiểu dục tri túc, ít muốn và biết
thế
nào là đủ, tâm mới được khinh an, thơi thới, nhẹ nhàng, cuộc sống mới
được
an lạc, cuộc đời mới được hạnh phúc.
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có
dạy:
Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du
vi an
lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc
bất
xứng ý.
Nghĩa là người biết thế nào là đủ, không
tham
lợi lộc, thấy lợi lộc không nhúng tay vào, tuy nằm trên đất nhưng vẫn
thấy
an lạc hạnh phúc, bình yên vui vẻ. Chỉ cần "biết" đủ, thì đã quá đủ
rồi.
Trái lại, người nào không "biết", thì không bao giờ thấy đủ, tấm thân
tuy
được ở trên thiên đường, tiền rừng bạc biển, giàu sang sung sướng,
nhưng tâm
ý vẫn chưa thỏa mãn, cố gắng kiếm cho thiệt là nhiều tiền vẫn chưa chịu
thôi, chưa chịu ngưng, chưa chịu an hưởng tuổi già gần đất xa trời.
Sách
cũng có câu:
Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời
nhàn.
Nghĩa là "biết" thế nào là đủ, tức thời
được
đầy đủ ngay lập tức, không cần phải đợi đến lúc có thiệt nhiều tiền mới
thấy
đủ. Bao nhiêu mới gọi là nhiều đối với người không biết đủ? "Biết" thế
nào
là nhàn, tức thời được nhàn nhã ngay lập tức, không cần phải đợi đến
già,
hay lúc nào hết. Nói tóm gọn là "biết" đủ thì đủ, "biết" nhàn thì
nhàn.
Không "biết" thì cực khổ tấm thân vậy thôi.
*
Điều 10:
Điều thứ mười trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Oan ức không cần
biện
bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo
hạnh". Tại sao vậy? Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây
nhiều nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Cho nên
khi
gặp chuyện oan ức, không cần phải than trời trách đất gì cả. Muốn cuộc
sống
bớt những điều oan ức trái ngang, con người cần tích cực tu tâm dưỡng
tánh,
cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng
loan
truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác,
dù cho
đó là kẻ thù của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy.
Người nào nói xấu mình, mình bèn tìm đủ
cách
nói xấu lại, cho bỏ ghét. Người nào hại mình, mình bèn tìm đủ cách hại
lại
nặng hơn, cho đáng đời. Người nào không chịu giúp mình, không tốt với
mình,
mình bèn tìm đủ mọi cách trả thù, cho hả giận, rỉ tai biêu riếu, vu
khống
cáo gian, vu oan giá họa, kiện cáo tụng đình, cho chúng chết luôn, cho
chúng
mạt luôn, khỏi ngóc lên nổi. Mình cho rằng người ta xấu xa, người ta
ác
độc, người ta bất chính, người ta bất lương, người ta bất thiện, người
ta
bất nhơn, người ta ác đức, người ta dã man, mà mình cũng làm y như vậy,
chỉ
khoác danh nghĩa "trả thù", thì mình có khác gì người ta đâu? Phản ứng
y
chang những điều người đời làm cho mình thực là dễ dàng. Còn như nhịn
được
mới thực là khó khăn vô cùng. Nhịn được như vậy chứng tỏ chúng ta không
còn
chấp mình nhận chịu khổ đau, không còn chấp người tạo đau khổ cho mình,
tức
là chúng ta đã thấu rõ và hành được "giáo lý vô ngã" của đạo Phật.
Trong
giáo lý vô ngã của đạo Phật, không có cái gì là "Ta", nên không có gì
là
"của Ta". Đó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần phải
nghiên cứu, tìm hiểu cho thấu đáo, để khi gặp chuyện oan ức trên thế
gian
này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình tĩnh, thản nhiên. Được như
vậy, oan
ức chính là cửa ngõ tiến vào con đường đạo hạnh.
Người nào có nhiều "tự ái", thường cho
rằng
ta đây là nhứt, cái gì của mình cũng đứng nhứt, cái gì liên quan đến
mình
cũng nhứt, chấp nhứt từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ nhặt, chẳng bao giờ
chịu
nghe lời khuyên, thường thấy lỗi lầm của người khác, không bao giờ cho
là
mình có lỗi gì cả, bất cứ chuyện gì xảy ra cũng tìm đủ mọi cách, viện
đủ lý
lẽ, đổ lỗi người này, đổ thừa người kia, tại thế này, bị thế khác, chứ
không
bao giờ tại mình, bởi mình, do mình mà chuyện sai trái xảy ra cả!
Người như
vậy chính là người có "tâm chấp ngã" quá cao. Cho nên người đó vẫn còn
luẩn
quẩn trong vòng sanh tử luân hồi. Tại sao vậy? Bởi vì những người như
vậy
rất nhạy cảm, phản ứng nhanh lẹ, khi tiếp xúc với cảnh trần đời. Một
lời
nói vô tình, một ý kiến trái nghịch, một việc làm không vừa ý, một cử
chỉ
vụng về của người khác, tất cả đều có thể khiến cho những người như vậy
nổi
sân, bực tức, khó chịu, gây gổ, phê phán, bình phẩm, chỉ trích, miệt
thị,
hơn thua, sống để dạ, chết mang theo. Nghĩa là vọng tâm của họ khởi
lên đều
đều mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây. Những người như vậy thường
xuyên
sống trong tâm trạng bất an, vọng động, thậm chí đau khổ nhiều thứ,
nhiều
mặt bởi vì kho tàng tâm thức chứa nhóm quá nhiều phiền não.
* * *
Tóm lại, chúng ta nên biết rằng ngoài
biển
khơi lúc nào cũng có gió thổi, tùy theo gió nhẹ thì sóng nhỏ, gió to
thì
sóng cả. Tâm của chúng ta ví như mặt biển cả, tùy theo "bát phong" của
thế
gian thổi đến, chẳng hạn như lúc thịnh lúc suy, lúc khen lúc chê, lúc
danh
dự, lúc tủi nhục, lúc sung sướng lúc đau khổ, đối với người không biết
tu
tâm dưỡng tánh thường để cho lòng nổi sóng, chìm đắm trong vui mừng tột
độ,
hay đau khổ triền miên. Còn đối với người quyết tâm tu tập thì cố gắng
giữ
gìn tâm ý bất động, bất loạn, như như, bình tĩnh, thản nhiên trước mọi
phong
ba của cuộc đời. Được như vậy, chắc chắn đời sống an lạc, hạnh phúc,
tâm
linh giác ngộ, giải thoát. Đó là cảnh giới niết bàn, tịch diệt, chính
là
mục đích cứu kính của đạo Phật.
Chư Tổ có dạy:
"Nếu chấp nhận trở ngại thì lại thông
suốt,
mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở
ngại".
Chúng ta đừng cầu không bệnh khổ, đừng
cầu
không hoạn nạn, đừng cầu không khúc mắc, đừng cầu không bị ma chướng,
đừng
cầu lợi cho mình, đừng cầu tất cả đều thuận theo ý mình, đừng cầu được
báo
đáp, đừng cầu không bị oan ức. Tại sao vậy? Bởi vì cầu nguyện thực sự
có
được gì đâu, chỉ làm cho tâm trí chúng ta thêm rối loạn khi gặp nghịch
cảnh,
bất trắc mà thôi. Chúng ta hãy cùng suy gẫm câu chuyện sau đây: Có một
bà
lão đến gặp Thiền sư Triệu Châu thưa hỏi, cầu nguyện cách nào có thể
giúp bà,
kiếp này chuyển được phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc, kiếp sau
được
lên thiên đàng, không đọa địa ngục? Thiền sư Triệu Châu dạy bà khấn
nguyện
như thế này: Tôi nguyện đời đời kiếp kiếp chấp nhận sống trong đau
khổ,
chấp nhận địa ngục, còn an lạc hạnh phúc và cõi thiên đàng xin dành cho
người khác…
Ngày nay, người tu học theo đạo Phật nên
dấn
thân trong mọi sự trở ngại, không quản khó khăn, không sợ trắc trở. Cho
nên
trở ngại, khó khăn, trắc trở không thể cản được bước đường tiến tu,
không
làm cho chúng ta chán nản, sờn lòng, muốn xa lánh cõi đời, mong cầu về
cõi
cực lạc sung sướng cho dễ tu hơn. Chánh Pháp chí thượng nhờ vậy mới
được
sáng tỏ. Chúng ta cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, mở mang trí tuệ bát
nhã, "chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách". Nghĩa là khi thấy
được,
hiểu được, "biết" được một cách rõ ràng tấm thân tứ đại, ngũ uẩn này là
không thực, là giả tạm, nay còn mai mất, muốn duy trì, giữ gìn mãi mãi
cũng
không được, muốn trẻ mãi không già cũng chẳng được, muốn khỏe mãi không
đau
cũng chẳng được, "biết" được như vậy, hiểu được như vậy, thấy được như
vậy,
thì khổ ách nào mà chẳng qua. Nếu chúng ta thực sự thấy được tất cả
các
pháp trên thế gian này đều không thực, không tự tánh, không cố định,
không
tồn tại vĩnh viễn, thì khi đó chúng ta đủ khả năng vượt qua mọi sóng
gió của
cuộc đời, vượt qua tất cả mọi khổ ách, đáo bỉ ngạn, đến được bờ giác
ngộ và
giải thoát vậy.
Thích Chân Tuệ