Education is quite
important. Whether the policies of education are soundly prepared or not
keeps quite a key factor in deciding whether the organization or the
country in question is healthily developing or in stagnation. Vietnamese
Buddhism in its present attempt to keep and develop the national and
Buddhist inheritance should take up the career of education and training
as the basic for the development of Vietnamese Buddhism. As to clarify
this, we will discuss the following four issues.
1. Characteristics of
Buddhist education: The religious education in general is likely ethical
and uses the belief principle as means to promote religious morality.
Buddhism shares to some extent this common attitude of religious education
in addition to its own principle of understanding, that is, Buddhist
education prefers to the use of understanding principle as means to build
up morality instead. Thus, Buddhist education does not aim at elevating
the ethic standard only but also puts emphasis on the role of wisdom, the
understanding of humankind.
2. The relationship
between Buddhism and national culture: Buddhism originated in India has
been introduced by far in Vietnam; its introduction in Vietnam, however,
has never caused any detriment to the national culture. On the contrary,
the Buddhist features have been its decent contribution to and made the
ingenious culture beautifully enriched and wholesomely modified. Buddhism,
moreover, since its advent has ever been hand in hand with the nation in
the struggle for the preservation of the national independence. That is
the reason why the majority of Vietnamese believe in Buddhism and regard
Buddhism as national religion.
3. The present situation
of Vietnamese Buddhism: We are living in the age of science and technique;
the whole country of Vietnam is in the process of renovation in
ideological and economical measures. Face-to-face with such a reality the
Vietnamese Buddhism with its current way of thought and practice would be
hardly possible to deal with the new society’s demands. In order to be
going on appropriately and to have an affluent accomplishment, the
Vietnamese Buddhism must alter the way of thought and practice.
4. The establishment of
the Buddhist University is the most decent and effective project aiming at
the development of Buddhism: It is the intellectual who would play the key
role in the changing of the society’s living attitude from bad to good,
from stagnant to dynamic; the intellectual in turn are qualified by
educational institutions. The educational institutions mentioned here is
referring to the educational establishments and their legitimacies.
Buddhism is in need of a private university as to characteristically
develop the education scheme that aims at qualifying the next monastic
generation for Buddhism and society. This would be strongly helpful in
dealing with the critical problems in society.
Cho đến nay chưa có một con
số thống kê cụ thể và chính xác nào về vấn đề Việt Nam có bao nhiêu người
dân theo đạo Phật. Nhưng cho dù như thế nào đi nữa, người dân Việt Nam
theo đạo Phật vẫn chiếm đa số, chưa kể đến số lượng người được gọi là theo
đạo Ông Bà cũng chịu ảnh hưởng khá sâu đậm về văn hóa truyền thống giáo
dục của Phật giáo. Qua chứng tích của lịch sử cho thấy, Phật giáo đóng vai
trò khá quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nền văn hóa
dân tộc, từ các loại văn hóa vật thể như các công trình kiến trúc mỹ thuật
cho đến các loại văn hóa phi vật thể, như đạo đức phong tục tập quán, bao
gồm cả truyền thống yêu nước dân tộc của nhân dân ta. Có thể nói đây là
điểm đặc thù của truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, không ai có
thể phủ nhận sự đóng góp của Phật giáo cho nền văn hóa dân tộc.
Thời đại mà chúng ta đang
sống là thời đại khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhất là ngành công nghệ viễn
thông, đã làm cho thế giới đổi thay và thu hẹp lại. Dường như không còn
khoảng cách không gian, giữa quốc gia với quốc gia, giữa châu lục với châu
lục. Một thông tin từ bên đây địa cầu cũng trong giây phút bên kia địa cầu
nhận biết. Từ những yếu tố này, tôi cho rằng trong tương lai sự dị biệt về
văn hóa truyền thống của từng dân tộc cũng theo đó bị đồng hóa.
Định hướng phát triển kinh
tế cho đất nước Việt Nam không thể không tuân thủ những nguyên tắc chung
của thế giới. Đó là lý do tại sao, trong những năm gần đây Việt Nam tất
bật công việc điều chỉnh và biên soạn luật pháp, làm cán cân pháp lý cho
đôi bên bảo vệ quyền lợi của mình, trước khi Việt Nam gia nhập vào WTO.
Sự hội nhập này có hai ý
nghĩa tích cực và tiêu cực, như đã được các chuyên gia phân tích. Ở đây
tôi chỉ phân tích thêm về mặt tích cực của sự hội nhập này, nó không những
là yếu tố tích cực làm phát triển nền kinh tế Việt Nam, nó còn là đòn bẩy
kích thích cho mọi mặt khác của xã hội phát triển, trong đó có cả vấn đề
tôn giáo. Tất nhiên sự hội nhập này không sao tránh khỏi những mặt trái
của nó, đó là những loại văn hóa phi đạo đức, phi dân tộc, làm băng hoại
xã hội cũng theo đó du nhập. Đứng trước sự kiện này, chúng ta làm thế nào
để ngăn chận những loại văn hóa này? Theo tôi, đây không phải là vấn đề
riêng của nhà nước mà là vấn đề chung của dân tộc. Nếu như Phật giáo Việt
Nam là một tôn giáo lớn của dân tộc thì Phật giáo cũng phải có bổn phận và
trách nhiệm trong sự nghiệp bảo vệ và phát huy truyền thống văn hóa dân
tộc trong xã hội mới. Chủ đề hội thảo hôm nay mà Viện đã đề ra cũng nói
lên ý nghĩa đó. Trong bài viết này, tôi xin trình bày ý kiến:
Từ thực
trạng xã hội và Phật Giáo Việt Nam hiện nay, Phật giáo nên lấy giáo dục
đào tạo làm
nền tảng cho sự phát triển trong sự nghiệp bảo vệ và phát huy truyền thống
văn hóa của dân tộc.
Nếu như Phật giáo là một tôn
giáo lớn của Việt Nam, thì vấn đề chung của dân tộc, nhất là mặt văn hóa
đạo đức, Phật giáo không thể là kẻ bàng quan, đứng ngoài cuộc. Phật giáo
phải chung vai gánh vác với dân tộc, vì sự tồn tại của dân tộc là sự tồn
tại Phật giáo. Sự phát triển Phật giáo biểu thị sự lớn mạnh của văn hóa
dân tộc và ngược lại. Do đó, Phật giáo phải có bổn phận và trách nhiệm bảo
vệ truyền thống văn hóa của dân tộc, giữ gìn và phát huy mối quan hệ gắn
bó giữa Phật giáo và dân tộc. Muốn hoàn thành trách nhiệm đó, bản thân
Phật giáo phải ý thức rõ câu “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”
trong kinh Viên giác. Điều đó có nghĩa là bản chất truyền thống văn hóa và
tinh thần gắn bó giữa Phật giáo và dân tộc là cái không thay đổi, tức là
cái ‘bất biến’, nhưng khi xã hội chuyển sang một hình thức sinh hoạt mới,
Phật giáo cũng phải thay đổi cách suy tư và phương pháp làm việc của mình,
để thích nghi với xã hội mới, đó là cái ‘tùy duyên’. Nếu như ngày xưa ngôi
chùa là cơ sở giáo dục cho dân làng, hình thức giáo dục của tăng già mang
tính gia giáo, thầy truyền cho trò thì vào những năm 1950 - 60 hình thức
Phật Học Viện đã ra đời, đã thay thế cho nền giáo dục gia truyền của Phật
giáo. Có thể nói hình thức giáo dục này đã mang lại cho Phật giáo Việt Nam
một bộ mặt mới, tiến bộ hơn và hiệu quả hơn. Đến năm 1964 Đại học Vạn Hạnh
ra đời, là Đại học đầu tiên của Phật giáo, nó đã góp phần không nhỏ cho
cho sự nghiệp tô bồi làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc, nhưng đến
năm 1975 vì yếu tố đặc thù của lịch sử, Ðại học Vạn Hạnh đã ngưng hoạt
động, từ đó cho đến nay Phật giáo Việt Nam sinh hoạt dưới hình thức giáo
dục là Phật Học Viện.
Trước tình hình kinh tế đang
phát triển, nhất là Việt Nam đang trên đường hội nhập, hình thức giáo dục
Phật Học Viện không đủ sức đáp ứng cho nhu cầu của một xã hội mới, nó còn
khá nhiều mặt hạn chế, không đủ tư cách ngoại giao để giao lưu với ngành
giáo dục và đào tạo, vô tình nó là bước cản trở cho sự phát triển Phật
giáo trong nhiều lãnh vực. Do vậy Phật giáo Việt Nam cần phải mau chóng
hình thành trường đại học để kịp thời đào tạo nhân tài, giải quyết những
vấn đề của thời đại. Theo tôi đây là nhu cầu hết sức chính đáng và quan
trọng, không những nó giải quyết những vấn đề khó khăn của Phật giáo mà
tích cực góp phần xây dựng cho xã hội ngày càng phồn vinh và ổn định.
Theo tôi, nếu như nhà nước
quản lý xã hội bằng luật pháp thì tôn giáo quản lý con người bằng niềm tin
và đạo đức. Có nghĩa là luật pháp chỉ trừng phạt, khi con người vi phạm
luật pháp, bằng hành vi cụ thể, nhưng luật pháp không thể cấm đoán con
người suy tư phi pháp ở bên trong. Ngược lại, cách giáo dục của tôn giáo,
nhất là Phật giáo không những chỉ khuyên con người không được làm ác mà
còn khuyên con người không được suy nghĩ bất thiện từ trong ý thức. Từ
những yếu tố này, nó cho chúng ta nhận thức, giáo dục tôn giáo là một công
cụ khá tích cực trong việc giúp cho nhà nước ngăn chận hành vi bất chính,
phi đạo đức của con người, nó không phải hoàn toàn chỉ mang ý nghĩa xấu
như một số người đã lầm tưởng.
Việt Nam là một đất nước
thuộc vùng Đông Nam Á, Bắc giáp Trung Quốc, Tây giáp Lào và Campuchia, Nam
giáp Thái Lan đều là những đất nước lấy Phật giáo là quốc giáo hay có đa
số người dân theo đạo Phật. Cũng vậy, Việt Nam không lấy Phật giáo làm
quốc giáo, nhưng đa số người dân tin theo đạo Phật, trở thành lực lượng
nòng cốt của dân tộc. Lý do nào Phật giáo lại chiếm được lòng tin của dân
tộc? Theo tôi câu trả lời là Phật giáo đến Việt Nam không làm tổn thương
đến văn hóa dân tộc và sự thống nhất đất nước, ngược lại Phật giáo đã hòa
mình đồng cam cộng khổ với dân với nước, lấy sự ưu lo của dân tộc làm sự
ưu lo của Phật giáo. Trải qua bao thăng trầm, vinh nhục của non sông, suốt
mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc và Phật giáo vẫn giữ một tấm
lòng keo sơn, không thể chia cắt, và cho đến thời điểm hiện nay, Phật giáo
và dân tộc Việt Nam vẫn còn giữ nguyên tinh thần keo sơn đó. Do vậy chúng
ta cần phải duy trì và phát huy tinh thần đó.
“Lấy Giáo Dục và Đào Tạo làm
nền tảng cho sự phát triển Phật GiáoViệt Nam” là đề tài tác giả tham dự
hội thảo. Với nội dung bài viết này, tác giả thảo luận gồm những vấn đề:
Thứ nhất: Đặc tính giáo dục của Phật giáo. Thứ hai: Sự gắn kết giữa Phật
giáo và văn hóa dân tộc. Thứ ba: Hiện tình Phật giáo Việt Nam và những nhu
cầu của nó. Thứ tư: Sự ra đời trường đại học Phật giáo là phương án thích
đáng cho sự phát triển Phật giáo và dân tộc. Đây là toàn bộ nội dung của
bài viết. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các giáo sư, các nhà nghiên
cứu.
1. Đặc tính giáo dục của
Phật giáo
Phật giáo là một trong những
tôn giáo của Ấn độ, nhưng bản thân Phật giáo không đồng tình với hình thức
tu tập cải thiện đời sống con người bằng các lễ nghi cúng tế phiền toái vô
ích của Bà-la môn[1].
Phật giáo cũng không chấp nhận những quan điểm phi đạo đức, bất hợp lý của
các phái ngoại đạo[2].
Phật giáo không chấp nhận lối sống khổ hạnh[3],
cũng không đồng tình với đời sống hưởng thụ thấp hèn[4].
Phật giáo là một Tôn giáo nhưng không đề cao niềm tin[5],
ngược lại Phật giáo xem trọng vai trò hiểu biết, tức ‘trí tuệ’
(pa��a)[6],
vì Phật giáo lấy sự giác ngộ và giải thoát làm mục tiêu hướng đến của Phật
giáo. Có nghĩa là ai muốn được giải thoát, trước tiên người ấy phải có sự
giác ngộ, không có giác ngộ thì không thể có sự giải thoát. Đây là biện
chứng giải thoát trong giáo lý đạo Phật. Trong quá trình tu tập của Phật
giáo, niềm tin chỉ là bước đầu tiên trong tiến trình tu tập (5 căn: tín,
tấn, niệm, định và tuệ), tuệ là kết quả của việc tu tập. Như vậy, niềm tin
là phương tiện, trí tuệ là mục đích. Đây chính là lý do tại sao Phật giáo
đề cao vai trò trí tuệ, lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Để minh chứng cho quan
điểm này, chúng ta cần tìm hiểu đoạn kinh dưới đây:
“Này các Tỷ-kheo, Ta
giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải
cho người không biết, cho người không thấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: có như lý tác ý
và không như lý tác ý. Này các Tỷ kheo, do không như lý tác ý, các lậu
hoặc chưa sanh
được sanh khởi, và các lậu
hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các Tỷ kheo, do như lý tác ý, các lậu
hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.”[7]
Qua đoạn kinh vừa dẫn, đức
Phật xác định giáo lý mà Ngài nói ra là giáo lý dành cho người thấy
(passato) và người biết(j?n?to),
không phải là người không thấy (apassato) và người không biết
(aj?n?to).
Ở đây, danh từ
j?n?to
có nguồn gốc từ động
từ
j?n?ti
và danh từ passato có nguồn gốc từ động từ passati, có nghĩa là ‘thấy’
‘biết’, thuộc về nhận thức suy luận của ý thức, không là thị giác. Như
vậy, hai từ này mang ý nghĩa chỉ cho người có suy tư, có hiểu biết, không
phải là người không biết suy tư, nói bừa không tôn trọng đạo lý. Thật ra,
quan điểm này là quan điểm đức Phật phản bác lối giáo dục truyền thống của
Bà la môn, đề cao việc tế tự, với lễ nghi phiền toái, hoặc các học thuyết
phi đạo lý của 6 phái ngoại đạo[8],
vì cách giáo dục này không mang lại lợi ích cho con người, dù có lập đàng
tràng cúng tế cầu nguyện, nhưng lòng tham sân si không đoạn trừ thì sự
cúng tế ấy trở thành vô ích. Dù có chủ trương cho rằng, không có nhân quả
nghiệp báo, nhưng khi con người làm những việc bất thiện thì hậu quả xấu
sẽ đến với người ấy và ngược lại. Đó là lý do tại sao đức Phật không đồng
tình lối giáo dục của Bà la môn cũng như 6 phái triết học.
Thế thì cách giáo dục của
đức Phật như thế nào? Cũng qua đoạn kinh vừa dẫn trên, đức Phật chỉ ra
phương pháp giáo dục của Ngài chính là: Yoniso manasikara, khái niệm này
được H.T Minh Châu dịch là ‘như lý tác ý’. Thật ra, câu này Hòa thượng đã
vay mượn cách dịch của người Hoa vốn chữ Hán là
如理作意 (yoniso=如理,manasikara
=
作意). Cách vay mượn
này, mặc dù người Việt đọc hơi khó hiểu, nhưng nó diễn đạt trọn ý nghĩa
của câu Pali, nếu câu này dịch sang tiếng Việt có nghĩa là ‘đạo lý của nó
như thế nào thì (chúng ta) suy nghĩ như thế ấy’. Có thể nói, đây là phương
pháp nhận xét vấn đề rất khách quan của đức Phật, chứng tỏ đạo Phật không
chấp nhận lối suy tư mơ hồ không thực tiễn, duy ý chí thiếu khách quan là
bóng dáng của vô minh, là nguyên nhân gây ra khổ đau và phiền muộn cho đời
sống con người. Bản thân của sự việc như thế nào, thì chúng ta suy tư đánh
giá như thế ấy, không thêm cũng không bớt. Bản thân mình có khuyết tật gì,
nếu muốn sửa sai, chính mình cần phải thấy rõ khuyết tật ấy, không nên che
giấu, hoặc biện minh như thế này hay thế khác. Có thể nói đây là nguyên lý
giáo dục của đạo Phật, nó không những chỉ có giá trị trong quá khứ, mà còn
có giá trị ở hiện tại và ngay cả trong tương lai; cũng không phải chỉ có
giá trị cho dân Ấn, mà cho tất cả mọi người và ở mọi nơi. Những người lãnh
đạo xã hội cũng có thể vận dụng phương pháp này, để giải quyết những vấn
đề nan giải từ xã hội. Chúng ta có thể xem câu này như là một phương pháp
nghiên cứu khoa học, cũng là đường hướng giáo dục của Phật giáo.
Thật vậy, nếu chúng ta suy
tư về việc gì một cách qua loa, không căn cứ vào đạo lý của nó, thì việc
ấy chắc chắn sẽ không được rõ ràng. Cái gì không rõ ràng mà vẫn quyết định
làm thì tính nguy hiểm của nó rất cao, phiền não khổ đau cũng từ đó phát
sinh. Đó chính là ý nghĩa của câu: ‘… do không như lý tác ý, các lậu
hoặc chưa sanh
được sanh khởi, và các lậu
hoặc đã sanh được tăng trưởng’ .
Ngược lại, chúng ta suy tư
công việc một cách cẩn thận, căn cứ vào đạo lý của nó mà hành xử, việc ấy
chắc chắn sẽ được rõ ràng. Việc gì đã rõ ràng minh bạch, khó có thể vấp
phải sai lầm, có nghĩa là phiền não khổ đau không phát sinh từ việc ấy.
Đây là ý nghĩa của câu: ‘do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không
sanh khởi, và các lậu hoặc
đã sanh được trừ diệt.’
Từ ý nghĩa này, nó cho chúng
ta nhận thức, Phật giáo là một tôn giáo, nhưng Phật giáo vốn không đặt
nặng niềm tin; ngược lại Phật giáo đề cao vai trò ‘trí tuệ’ là sự hiểu
biết. Theo tôi, đây là một trong những lý do mà nhà vua A Dục (Asoka) lấy
Phật giáo làm quốc giáo, mặc dù Phật giáo là một tôn giáo rất nhỏ so với
Ấn giáo hay Kỳ na giáo là những tôn giáo lớn của Ấn Độ. Tại sao nhà vua
không chọn lấy những tôn giáo truyền thống làm quốc giáo mà lấy Phật giáo
làm quốc giáo? Có lẽ mọi người sẽ có câu trả lời khác nhau, riêng người
viết cho rằng, theo nhà vua, trong hệ thống giáo lý của những tôn giáo
truyền thống không giúp được nhà vua trong chính sách cai trị của mình là:
bảo vệ sự thống nhất và chính sách phát triển đất nước. Trong yếu tố thứ
nhất, nếu như một trong những tôn giáo truyền thống này trở thành quốc
giáo, tôn giáo đó sẽ có ý tưởng loại trừ những tôn giáo khác, nó là nhân
tố dẫn đến sự bất hòa giữa các tôn giáo, là nguyên nhân dẫn đến đất nước
sẽ rơi vào loạn ly hoặc chia cắt. Yếu tố thứ hai là chính sách phát triển
đất nước. Trên nguyên tắc chung, bất cứ quốc gia nào muốn nền kinh tế phát
triển, quốc gia đó phải có chính sách tốt về đường hướng giáo dục, tức là
đề cao vai trò trí thức, người dân biết suy tư và nhận thức chính là nhân
tố cơ bản để đưa xã hội phát triển. Thế thì, ở hai yếu tố này không thể có
trong những tôn giáo truyền thống, ngược lại Phật giáo đề cao vai trò ‘trí
tuệ’ và tinh thần ‘bao dung’ là hai yếu tố mà nhà vua A Dục cần. Đó là lý
do tại sao nhà vua lấy Phật giáo làm quốc giáo. Có lẽ cũng chính từ điểm
này mà Albert Einstein đã đánh giá chỉ có hệ thống giáo lý của Đạo Phật
mới phù hợp ở thời đại khoa học[9].
Đức Phật cho rằng, nguồn gốc
đau khổ của con người là do vô minh, tức là thiếu sự hiểu biết. Thế nào
gọi là thiếu hiểu biết? Nói một cách dễ hiểu là những gì xuất phát từ lòng
tham lam, giận hờn và mê muội là những nguyên nhân mang lại sự khổ đau cho
con người. Thật ra, lòng tham và sân là sự thể hiện tính hai mặt của ngu
si. Ví dụ, khi chúng ta tiếp xúc với đối tượng đẹp, dễ thương nào đó, thì
chúng ta thường có thái độ muốn chiếm đoạt đối tượng ấy, do vậy lòng tham
xuất hiện. Ngược lại, khi chúng ta tiếp xúc với đối tượng không tốt đẹp
nào, chúng ta thường có thái độ không muốn tiếp xúc với đối tượng ấy,
không muốn mà nó vẫn hiện hữu cho nên lòng sân hận xuất hiện. Cả hai trạng
thái tham và sân này đều có nguồn gốc từ lòng ngu si, vì không biết khả
năng của mình cho nên tham xuất hiện; vì không biết sự hình thành của các
pháp là do nhân duyên cho nên cố chấp, nhân duyên của nó vẫn còn mà ý thức
chúng ta không muốn nó hiện hữu mà nó vẫn hiện hữu, cho nên sân xuất hiện,
do vậy khổ sanh. Như vậy, ngu si là nguồn gốc của khổ đau. Phật giáo giáo
dục con người diệt trừ lòng ngu si, điều đó cũng có nghĩa là lối giáo dục
của Phật giáo mang tính chất tiến bộ, thúc đẩy xã hội phát triển, không
phải như một số người cho rằng lối giáo dục của Phật giáo làm ngăn cản sự
tiến bộ của xã hội
Giáo lý ‘Tứ đế’
(Sk: Catv?ri-?ryasaty?ni)
đức Phật cho rằng, cuộc đời là khổ
(Sk: duúkha-satya),
không mang ý nghĩa đức Phật khuyên chúng ta nên từ bỏ lẩn tránh thế giới
này, đi tìm một thế giới xa lạ nào khác mà đức Phật khuyên chúng ta nên
hành trì giáo lý ‘Bát chánh đạo’[10],
để chúng ta đạt được trạng thái Niết bàn
(nirv?na),
là cuộc sống đã chấm dứt trạng thái khổ đau, không còn tham lam thù hận và
si mê. Như vậy, cảnh giới Niết bàn không phải là cảnh giới nào xa lạ,
chính là cảnh giới của những người đã đoạn trừ lòng tham, sân, và si. Bất
cứ ai có trí tuệ thì người ấy có hạnh phúc an lạc, người nào có an lạc,
người ấy không còn tham sân si. Bất cứ nơi nào, người sống ở trong ấy
không còn tham sân si thì nơi ấy là thế giới của Niết bàn, Cực lạc.
Từ ý nghĩa giáo dục trong
đạo Phật vừa được trình bày, nó gợi ý cho chúng ta hiểu rõ một vấn đề quan
trọng: mục tiêu mà đạo Phật hướng đến là giác ngộ và giải thoát, đối tượng
giáo dục của đạo Phật là con người. Như vậy, giáo lý mà đã được đức Phật
thuyết giảng có mối quan hệ thiết thân với con người, không phải là những
lời nói vô nghĩa, hay chỉ để thờ phụng và lễ lạy, chúng ta cần phải hiểu
và thực hành giáo lý ấy. Cũng vậy, phương pháp giáo dục của nhà Phật không
phải là lối giáo dục thuần túy tín ngưỡng, đề cao vai trò thần linh, lễ
lạy van xin, mà là giáo lý đề cao vai trò sự hiểu biết, có bổn phận và
trách nhiệm[11],
xem ‘như lý tác ý’ là phương pháp để dứt trừ mọi khổ đau phiền lụy từ cuộc
sống.
Tôi cho rằng, mục đích và
phương pháp giáo dục của đạo Phật, không những phù hợp với khuynh hướng
giáo dục của các nước tiên tiến trên thế giới, mà còn đáp ứng những nhu
cầu cho con người, cho đất nước Việt Nam nói chung và Phật giáo nói riêng,
nhất là thế hệ trẻ ở thời đại khoa học kỹ thuật hôm nay.
Nếu như nạn tham nhũng (tham
lam) đang là bức tường cản trở cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước,
lòng sân hận không những chỉ phá vỡ niềm vui và hạnh phúc của chính mình,
đôi khi nó còn có tác hại đến xã hội; tâm trí ngu muội thiếu sáng suốt là
nhân tố cho mọi sự thất bại và là mầm mống cho mọi khổ đau, thì giáo dục
Phật giáo là loại giáo dục ngăn chận lòng tham lam, sân hận và ngu si của
con người. Do vậy, quan điểm và đường hướng giáo dục Phật giáo không những
là nhu cầu riêng cho Phật giáo, mà còn là nhu cầu chung cho đất nước và
dân tộc Việt Nam. Nếu như thế giới hiện nay đang âu lo về tình trạng khủng
bố, phát triển vũ khí giết người hàng loạt, thì Phật giáo là một tôn giáo
yêu chuộng sự hòa bình và mở rộng lòng bao dung. Nếu như mê tín dị đoan và
yếu tố tâm lý nương tựa vào kẻ khác, không làm chủ chính mình, có thể dẫn
đến làm chậm phát triển xã hội thì Phật giáo là tôn giáo đề cao vai trò
trí tuệ. Như vậy, giáo dục Phật giáo là đường hướng giáo dục giáo phù hợp
với quan điểm thời đại, ích nước lợi dân, là bức tường vững chắc trong sự
nghiệp bảo vệ nền văn hóa của dân tộc Việt Nam và sự hòa bình trên toàn
thế giới.
2. Sự gắn kết giữa Phật
giáo và văn hóa dân tộc
Phật giáo đã có mặt trên đất
nước Việt Nam gần 2000 năm lịch sử. Với chiều dài lịch sử ấy, cũng đủ
chứng minh cho chúng ta thấy rằng, Phật giáo và dân tộc thật sự đã có mối
quan hệ thân thiết như keo sơn, không thể phân chia cách biệt. Nếu chúng
ta quan sát các mặt sinh hoạt của xã hội Việt Nam, không ít thì nhiều mặt
nào cũng ẩn chứa đậm nét văn hóa Phật giáo. Chúng ta có thể ngang qua
những mặt khác nhau trong xã hội để hiểu về mối quan hệ này.
a.
Về giáo dục -
đạo đức
Giáo dục là một ngành rất
quan trọng cho việc phát triển đất nước, chính sách giáo dục tốt hay xấu
là nguyên nhân dẫn đến xã hội đó chậm tiến hay phát triển. Có thể nói giáo
dục là đòn bẩy kích thích cho mọi mặt hoạt động xã hội phát triển. Trong
ngành giáo dục lại được phân hai lãnh vực: khoa học tự nhiên và khoa học
nhân văn tư tưởng.
Ở lãnh vực khoa học tự
nhiên, nó không phải là đối tượng nghiên cứu của Phật giáo, nhưng quan
điểm chung vẫn đề cao vai trò hiểu biết, lấy tư duy và sự hiểu biết định
hướng cho sự phát triển xã hội.
Trong lãnh vực nhân văn tư
tưởng, đạo đức chính là mối quan tâm của Phật giáo, cụ thể là xã hội Việt
Nam. Ở đây chúng ta không cần viện dẫn những hệ thống triết lý sâu xa của
Phật giáo mà chỉ nêu ra quan niệm đạo đức Phật giáo được nhân dân Việt Nam
thực thi và được xem như là triết lý sống, đạo lý làm người của người dân
Việt Nam trong quá khứ cũng như ngày nay. Không phân biệt là Bắc hay Nam,
là già hay trẻ, giàu hay nghèo, nam hay nữ, người theo đạo Phật hay không
theo đạo Phật, bất cứ ai cũng phải biết, và tuân theo đạo lý như là ‘ở
hiền gặp lành’, ‘nhân nào quả nấy’, ‘tu nhân tích đức’… Quan điểm đạo đức
này rõ ràng chịu ảnh hưởng thuyết ‘nhân quả nghiệp báo’ trong đạo Phật rất
sâu đậm. Thật ra lý thuyết ‘nhân quả’ và ‘nghiệp’ (kamma) của Phật giáo
hàm chứa triết lý khá sâu sắc, nhưng ở đây nhân dân Việt Nam tiếp thu nó
như là một đạo lý làm người, một quan điểm sống phân biệt rạch ròi giữa
phải và quấy, giữa đúng và sai, giữa thiện và ác; biết tôn trọng lẽ phải,
khinh chê hành vi sai quấy, ca ngợi người làm lành, quở trách kẻ sống ác.
Đó là quan niệm đạo đức của người dân Việt Nam, bất cứ ai cũng phải tôn
trọng đạo lý đó.
Mỗi người dân đều nhận thức
đạo lý nhân quả nghiệp báo như vậy, cho nên nếu người nào có đời sống bất
hạnh, họ không oán trách ai, ngược lại cho rằng, nguyên nhân của bất hạnh
này do kiếp trước không ‘tu nhân tích đức’, không ăn hiền ở lành, cho nên
gặp phải quả báo như vậy. Tự mình kiểm điểm và cố gắng vươn lên, làm điều
lành lánh điều dữ, ra sức giúp đỡ người khác. Và ngược lại, ai đó được
giàu sang phú quí, cho rằng do ăn hiền ở lành, tu nhân tích phước mà được.
Do vậy, cần phải tiếp tục làm phước thiện để kiếp sau tiếp tục có được
cuộc sống tốt đẹp. Có thể nói đây là một quan niệm sống của dân tộc Việt
Nam, bất cứ sống ở đâu cũng mang trong lòng nguyên tắc sống đó. Nếu nguyên
tắc này bị phá vỡ, không tuân thủ, thì mọi người sẽ nguyền rủa, nào là
loài ‘súc sinh’, chết sẽ bị ‘đoạ vào địa ngục’. Súc sinh là gì, địa ngục ở
đâu, cũng không ai tra hỏi làm gì, chỉ cần hiểu đó là những hình phạt của
hành vi bất thiện, và cũng đơn giản chỉ có thế mà người dân Việt Nam ai
cũng tôn trọng đạo lý nhân quả nghiệp báo. Sợ nhân quả nghiệp báo mà người
dân không làm bậy. Nỗi sợ ấy là tốt hay xấu, là mê tín hay chánh tín? Dù
được hiểu như thế nào đi nữa, tôi cho rằng nỗi sợ đó là tốt, quan niệm
sống đó là lành mạnh, cách giáo dục đó mang tính tích cực, cần được phát
huy trong lòng xã hội Việt Nam, vì mục đích của nó mang ý nghĩa thiện, xây
dựng đạo đức.
Ngày xưa luật pháp Việt Nam
còn lỏng lẻo, không nhiều và chặt chẽ như ngày nay, thế mà cuộc sống đạo
đức xã hội vẫn được tôn trọng, không phức tạp như ngày hôm nay. Có thể nói
đây là sự thành công của nền giáo dục Phật giáo, chính quan điểm giáo dục
này đã gián tiếp giúp cho các triều đại giữ được kỷ cương, xã hội không bị
rối loạn. Đây không phải là sự đóng góp của Phật giáo trong sự nghiệp giáo
dục, giữ gìn những thuần phong mỹ tục của nền văn hóa Việt Nam sao?
b. Về kiến trúc - mỹ
thuật
Nói đến những công trình văn
hóa kiến trúc cổ của Việt Nam, chúng ta không thể không nói đến nền văn
hóa văn bia chùa tháp. Việt Nam không giống như Trung Quốc, Campuchia,
Thái Lan, hay Miến Điện, là những nước có những công trình kiến trúc chùa
tháp vĩ đại. Phật giáo ở Việt Nam có tính cách khiêm nhường hơn. Khi Phật
giáo được truyền vào Việt Nam thì những ngôi chùa tháp cũng dần theo thời
gian và không gian được xuất hiện, với mục đích làm nơi lễ bái tín ngưỡng,
cũng là cơ sở giáo dục cho nhân dân trong làng, không mang tính dành cho
giới quí tộc hay vua chúa. Do vậy, nó mang đậm nét bình dị mộc mạc của
người dân hơn là công trình kiến trúc quốc gia. Vượt qua thời gian, cùng
với tuế nguyệt tồn tại cho đến nay, không ít những ngôi chùa tháp này đã
trở thành những công trình kiến trúc mang tính đặc trưng tiêu biểu cho nền
văn hóa dân tộc, và được xếp vào di tích văn hóa tầm cỡ quốc gia. Như chùa
Dâu (thế kỷ III), chùa Bút Tháp, chùa Keo, chùa Một Cột, chùa Thầy, chùa
Hàng (thế kỷ XIII), chùa Trấn Quốc, chùa Tây Phương, chùa Thiên Mụ, chùa
Thập Tháp, chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên, Chùa Phụng Sơn.vv. Ngôi chùa
không những chỉ là nơi tín ngưỡng còn là những viện bảo tàng nho nhỏ của
Phật giáo, giữ lại những nét đặc thù văn hóa của dân tộc. Ngoài những danh
lam cổ tự này, Việt Nam còn có biết bao ngôi chùa khác nữa cũng mang đậm
nét văn hóa dân tộc.
Ngoài yếu tố di sản văn hóa
của dân tộc, ngôi chùa còn có một loại di sản văn hóa phi vật thể, không
thể dùng mắt để thấy, mà bằng trái tim thương yêu. Ngôi chùa đã để lại
trong lòng mỗi người dân Việt những ấn tượng thật đẹp. Nếu ai đó đã rời xa
quê hương, chắc chắn sẽ cảm nhận được điều đó. Nhắc đến quê hương là nhắc
đến bụi tre, khóm chuối, ngôi chùa làng… là những hình ảnh không thể quên
cho người dân Việt Nam. Những người Việt sống xa quê hương, hình ảnh ngôi
chùa xưa thân thương chỉ còn lưu lại trong ký ức. Mặc dù cuộc sống ở đất
khách quê người, nhưng không phải vì vậy mà tình cảm về ngôi chùa không
còn nữa, vì vậy mà mọi người cùng nhau góp phần tái tạo ngôi chùa thân
thương ấy ngay nơi mình đang sống, để nhớ về cố hương. Ở đây ngôi chùa trở
thành không những chỉ là nơi lễ bái tín ngưỡng, còn là trung tâm văn hóa
của cộng đồng người Việt, là ngôi trường Việt ngữ, có bổn phận trách nhiệm
bảo vệ truyền thống văn hóa của dân tộc. Mỗi ngày lễ hay ngày tết, người
Việt đến chùa dâng hương cúng Phật, để hoài niệm về quê hương, về cha ông
đất tổ, cầu nguyện cho người thân, cho họ hàng cho đất nước được bình yên.
Ngôi chùa với người dân Việt
Nam có mối thâm tình như vậy, thâm tình đó thật đẹp và thật có ý nghĩa,
nói lên tính keo sơn giữa Phật giáo và dân tộc. Có lẽ chính vì vậy mà
người dân Việt Nam có câu: Mái chùa che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn
đời của tổ
tiên. Thử hỏi,
cái gì có thể thay được thâm tình đó?
c. Về mặt văn
học - thi ca
Trong những tác phẩm văn học
và thi ca Việt Nam, có không ít tác phẩm liên hệ đến Phật giáo. Ví dụ, tập
“Văn thơ Lý Trần” là một điển hình cụ thể, nó là tác phẩm gồm nhiều tác
giả, là những nhân vật nổi tiếng trong văn học của thời Lý Trần, trong đó
không ít nhà thơ nhà văn là những thiền sư. Họ không những chỉ cống hiến
cho dân tộc những bài thơ hay mà còn để lại cho dân tộc một quan điểm sống
thật lạc quan, có ảnh hưởng rất sâu đậm đến hậu thế. Như bài thơ của Mãn
Giác thiền sư (1052-1096).
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai,
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai[12]
Nội dung và ý nghĩa bài thơ
này, có lẽ ở mỗi người sẽ có những cảm xúc khác nhau, nhìn nhận khác nhau.
Ở đây, theo người viết, bài thơ này nói lên nhân sinh quan của Thiền sư
hay nói đúng hơn là nhân sinh quan của Phật giáo. Vì Phật giáo không có bi
quan như một số người đã lầm tưởng, Phật giáo thừa nhận một thực tại thiên
biến vạn hóa của vũ trụ, nhưng không phải vì thế mà bi quan yếm thế. Cuộc
đời có đổi thay, từ giàu đến nghèo, từ làm quan đến làm dân, nhưng khi gặp
cảnh bất hạnh, không nên vì thế mà buồn khổ, nên nghĩ rằng chúng ta vẫn
còn có nhiều cơ hội để tiến thân, chỉ cần chúng ta biết kiểm điểm nhìn
nhận những nguyên nhân đưa đến thất bại, và nỗ lực tạo điều kiện, thì điều
tốt đẹp sẽ xuất hiện. Đó chính là ý nghĩa của hai câu thơ cuối:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Ngoài ra, tác phẩm “Tuyện
Kiều” của Nguyễn Du cũng là một tác phẩm có nội dung tư tưởng chứa đựng tư
tưởng của Phật giáo. Ví dụ câu:
Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì.
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm than trâu ngựa đền nghì trúc mai.[13]
Hay câu:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài[14]
Rõ ràng đây chính là quan
điểm nghiệp lực của Phật giáo. Nếu Nguyễn Du không chịu ảnh hưởng quan
điểm tư tưởng của Phật giáo, thì ông không thể đưa quan điểm ‘nghiệp báo’
của Phật giáo vào thi ca của mình.
Ngoài những tác phẩm văn học
và thi ca, trong cuộc sống hằng ngày của người dân Việt Nam còn có một
loại văn học thuộc về tục ngữ ca dao. Trong đó có biết bao nhiêu là câu
tục ngữ ca dao mang đậm nét Phật giáo như:
Con vua thì được làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế, lại ra quét chùa.[15]
Từ đó, gợi ý cho chúng ta
thấy, quan điểm tư tưởng của Phật giáo không chỉ được thấy qua những di
tích lịch sử mà còn đã ăn sâu vào lòng người vào lòng dân tộc, và trở
thành một loại văn hóa phi vật thể của dân tộc. Điều đó biểu thị văn hóa
Phật giáo và văn hóa dân tộc đã quyện chặt vào nhau, không thể chia cắt.
3. Hiện tình Phật giáo
Việt Nam và những nhu cầu của nó
Đất nước Việt Nam đang thay
đổi, kinh tế đang trên đà phát triển, tiến trình cam kết hội nhập WTO cũng
đến hồi kết, mở cửa cho Việt Nam gia nhập vào sân chơi chung của nền mậu
dịch của thế giới. Tất nhiên bất cứ một vấn đề gì bao giờ nó cũng mang
tính hai mặt được và mất, nhưng dù gì đi nữa sự hội nhập WTO cũng là cơ
hội tốt cho nền kinh tế Việt Nam phát triển, và nó cũng là đòn bẩy kích
thích cho mọi lãnh vực xã hội khác cũng theo đó phát triển. Một chứng minh
cụ thể là trong thời gian qua ở Việt Nam, các mặt hoạt động xã hội yêu cầu
sự thay đổi về cách suy tư quản lý và phương pháp làm việc, trong đó có
ngành giáo dục và đào tạo.
Xã hội đang từng ngày thay
đổi, nhận thức của con người cũng theo đó đổi thay, thế thì Phật giáo có
thể tồn tại trong xã hội mới với lối suy tư và phương pháp làm việc xưa cũ
sao? Theo tôi, Phật giáo chúng ta có chấp nhận hay không chấp nhận sự diễn
biến của xã hội thì xã hội cũng sẽ diễn biến theo qui luật riêng của nó.
Do vậy, Phật giáo chúng ta cần phải tùy theo thời thế và căn cơ của chúng
sinh mà lựa chọn nền giáo lý thích nghi và phương pháp làm việc hữu hiệu,
để đưa đạo Phật vào cuộc sống của xã hội. Thế thì chúng ta cần phải làm gì
trong xã hội mới? Theo tôi, trước nhất chúng ta cần phải tìm hiểu hiện
tình sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam như thế nào? mặt nào Giáo
hội còn yếu kém? Phương pháp khắc phục những yếu kém đó là gì? Đó là những
điểm cần được thảo luận.
Dưới đây là một số mặt hoạt
động của Giáo hội cần được mổ xẻ và thảo luận.
a. Phiên
dịch và biên tập
Đại tạng kinh Việt Nam
Hầu như tác phẩm nào viết về
lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng đều cho rằng, Phật giáo truyền vào nước ta
rất sớm, vào thế kỷ thứ II SCN, có những nhà nghiên cứu còn đưa ra giả
thuyết sớm hơn thời gian này. Đồng thời, nói đến Phật giáo Việt Nam ai
cũng cho rằng, thời đại Lý Trần là thời đại vàng son của Phật giáo… Nhưng
tôi tự hỏi, tại sao Phật giáo được truyền vào nước ta rất sớm, gần 2000
năm lịch sử, lại có những triều đại ủng hộ Phật giáo như thế, nhưng cho
đến nay Phật giáo Việt Nam vẫn chưa có bộ Đại Tạng Kinh bằng tiếng Việt?
Lý giải vấn đề này, có lẽ mỗi người có cách giải thích khác nhau, nhưng
cho dù như thế nào đi nữa, chúng ta vẫn không phủ nhận sự thật là cho đến
nay Phật giáo Việt Nam vẫn chưa có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ. Nếu như
trước đây vì lý do nào đó Phật giáo chưa làm được, thì hôm nay Phật giáo
chúng ta phải tiến hành thực thi công việc này. Nó là công việc trọng đại
nhất cho Phật giáo Việt Nam[16],
vì nó là cơ sở vững chắc nhất để định hướng cho sự phát triển của Phật
giáo Việt Nam, là nguồn tư liệu đáng tin cậy nhất để cho giới nghiên cứu
và Phật tử người Việt tìm hiểu về đạo Phật.
Theo được biết, Viện Nghiên
Cứu Phật Học Việt Nam đã thành lập một ban chuyên trách làm việc này, với
danh xưng là: “Ban phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam”, cho đến
nay đã phát hành 35 tập, nội dung và hình thức trình bày có nhiều vấn đề
cần phải được thảo luận và chỉnh sửa. Ngoài ra, các tổ chức cá nhân cũng
đang tiến hành phiên dịch và biên tập, thành quả của nó như thế nào chúng
ta vẫn còn chờ đợi.
Theo người viết, công trình
phiên dịch và biên tập Bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam là công trình lớn của
Phật giáo Việt Nam, có thể nói là công trình của quốc gia, không phải là
riêng một cá nhân nào, vì qua đó nó biểu thị tinh thần, phương pháp làm
việc và trình độ chuyên môn của Phật giáo Việt Nam. Do vậy, chúng ta cần
phải nghiêm túc trong công việc phiên dịch và biên tập bộ Đại Tạng Kinh
Việt Nam. Phật giáo Việt Nam cần phải tổ chức những cuộc hội thảo chuyên
đề, mời các chuyên gia học giả trong và ngoài nước phát biểu đóng góp ý
cho công việc phiên dịch và biên tập này. Từ những góp ý xây dựng đó chúng
ta mới tiến hành tổ chức công việc phiên dịch và biên tập Đại Tạng Kinh
Việt Nam. Theo kinh nghiệm bản thân tôi, công việc phiên dịch kinh điển
Hán tạng không đơn giản như chúng ta đã hiểu, không thể biết chữ Hán là có
thể dịch được, đòi hỏi cần phải có trình độ chuyên môn về Phật học, không
những người dịch chỉ am tường các hệ tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ mà còn
phải hiểu về văn hóa Trung Quốc, để tránh trường hợp chuyển dịch sai ý so
với nguyên bản, đồng thời phát hiện những điểm sai của bản Hán văn. Do
vậy, đòi hỏi người làm công tác phiên dịch phải có kiến thức chuyên môn về
mặt tư tưởng sử. Từ đó nó gợi ý cho chúng ta một nhận thức trước tiên là
giáo hội cần phải gấp rút đào tạo những người có trình độ chuyên môn này,
trước khi chúng ta tiến hành phiên dịch và biên tập bộ Đại Tạng Kinh Việt
Nam
Tóm lại, công việc phiên
dịch và biên tập Đại Tạng Kinh Việt Nam là trọng trách của giáo hội, cần
phải tiến hành, để làm cơ sở cho công việc nghiên cứu, nâng cao kiến thức
Phật học cho Phật tử Việt Nam.
b. Vấn
đề giáo dục và
đào tạo
Phật giáo Việt Nam hiện nay
có 3 Học Viện, được phân phối ở 3 miền: Bắc, Trung và Nam; đặc biệt ở TP
Hồ Chí Minh có thêm một trường với danh xưng Cao Đẳng Phật Học, và hầu như
mỗi tỉnh, thành đều có tối thiểu là 1 trường cơ bản Phật học, chuyên đào
tạo sơ cấp và trung cấp Phật học. Ngoài cơ sở giáo dục, Phật giáo Việt Nam
còn có Viện Nghiên Cứu Phật học cũng được phân chia làm 3 miền Bắc Trung
và Nam, nhưng trên thực tế Viện vẫn chưa phát huy chức năng của mình.
Thực tế, các cơ sở giáo dục
này chỉ có giá trị nội bộ trong Phật giáo, giống như hình thức Phật học
viện trước đây, chỉ đào tạo cho giới xuất gia, không đào tạo cho giới cư
sĩ. Nói cách khác, những cơ sở giáo dục này vẫn chưa được Bộ Giáo Dục Việt
Nam chấp nhận, cho nên các tăng, ni sinh sau khi tốt nghiệp, không được
tiếp tục học các chương trình kế tiếp, mặc dù một số học viên có đủ trình
độ học tập ở trong nước cũng như nước ngoài.
Về mặt giáo dục, chương
trình, nội dung và phương pháp giảng dạy đều mang tính tùy tiện, không
thống nhất. Giáo hội vẫn chưa định hướng cho việc giáo dục và nghiêm túc
biên soạn chương trình giáo dục cho các cấp, đào tạo giáo sư chuyên ngành
cho các cấp học. Do vậy, vấn đề giáo dục của Phật giáo Việt Nam cần phải
cải cách, để đáp ứng cho nhu cầu của thời đại.
c. Vấn
đề hành chánh
tổ chức và nhân sự của giáo hội
Chúng ta cần xác định rằng,
giáo hội là một cơ quan cao nhất của Phật giáo, chuyên quản lý và điều
hành các mặt hoạt động của Phật giáo Việt Nam bằng nội quy và nghị quyết,
không phải quản lý theo hình thức của tự viện, đồng thời có bổn phận,
trách nhiệm quan hệ với nhà nước và các cơ quan liên quan, cũng như quan
hệ quốc tế. Do vậy, người giữ vai trò lãnh đạo và tổ chức hành chánh của
giáo hội cần phải có trình độ tương xứng với danh xưng và đáp ứng những
nhu cầu của giáo hội. Đối với việc này, người viết có vài nhận định mang
tính cá nhân như sau:
Thứ nhất, về việc đề cử nhân
sự của giáo hội, chúng ta thường chú trọng đến mặt đạo đức, còn yếu tố
năng lực và tuổi tác thường ít chú ý đến. Từ thực tế đó cho thấy, người
lãnh đạo giáo hội dĩ nhiên là người phải có phẩm hạnh đạo đức tốt, bên
cạnh đó yếu tố ‘năng lực’ và ‘tuổi tác’ không thể không đề cập, nó là yếu
tố rất quan trọng, quyết định sự thành công hay thất bại của giáo hội.
Muốn đảm trách công việc này, giáo hội cần chọn người biết nhìn xa thấy
rộng, hoạch định xu hướng phát triển cho giáo hội, có bổn phận và trách
nhiệm, biết trọng dụng nhân tài, biết cấu trúc tổ chức và phân bổ công
việc hợp lý. Do vậy, chúng ta cần phải cân nhắc khi tuyển chọn người lãnh
đạo giáo hội hay cho một một cơ quan tổ chức của giáo hội, không nên tùy
tiện.
Thứ hai, về vấn đề kiêm
nhiệm chức vụ, nếu tôi nói không lầm, Phật giáo chúng ta đang tồn tại một
thói quen ‘bệnh tôn sùng’ thái quá. Ví dụ, chúng ta thấy thầy A có khả
năng về lãnh vực chuyên môn này, vì phục tài của thầy, chúng ta lại đề cử
thầy kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác, nhưng công việc đó hoàn toàn không
liên hệ gì đến khả năng chuyên môn của thầy. Việc kiêm nhiệm nhiều chức vụ
cũng xuất phát từ quan điểm này, nó là một trong những nhân tố chính yếu
dẫn đến công việc trì trệ cho giáo hội. Hơn nữa, sức người có giới hạn,
mỗi ngày chúng ta chỉ có 8 giờ làm việc, thế thì sức lực đâu, thời gian
đâu chúng ta làm những công việc khác? Sức khỏe yếu lại không có thời gian
thì ai là người làm thay công việc cho mình? Không làm việc mà muốn công
việc thành công là điều không thể có; không làm mà nhận chức vụ là thái độ
xem thường tổ chức và người khác, vô trách nhiệm. Đó là nguyên nhân của
mọi sự thất bại. Chúng ta không thể viện dẫn người lãnh đạo không cần làm
việc theo thời gian. Theo tôi, cách giải thích nghe ra có phần hợp lý,
nhưng không đúng với thực tế, vì không có một công việc nào lại không cần
đến thời gian, có thể người lãnh đạo không ràng buộc vào nơi làm việc,
nhưng nó không đồng nghĩa là người lãnh đạo không cần thời gian nghiên cứu
suy tư cho công việc đó. Ở xã hội, người lãnh đạo cho một cơ quan nào,
người đó phải chịu trách nhiệm cho sự thành công hay thất bại của công
việc, nếu qua một thời gian làm việc, công việc không hiệu quả thì vị lãnh
đạo đó phải từ chức, thay vào đó một người khác có khả năng hơn. Nhưng
trong Phật giáo thì không thấy trường hợp này xảy ra, tại sao, điều đó tốt
hay xấu? Do vậy, sự kiêm nhiệm nhiều chức vụ mang ý nghĩa tiêu cực hơn là
tích cực, nó là một trong những nguyên nhân đưa đến sự trì trệ các mặt
hoạt động của giáo hội.
Thứ ba, về mặt hành chánh và
tổ chức. Nhìn chung cách cơ cấu tổ chức của giáo hội hay các ban ngành
trực thuộc giáo hội còn quá nặng nề về mặt hình thức, không mang tính thực
tiễn; nhiều ban, nhiều chức vụ, nhưng trên thực tế không hoạt động. Ví
dụ, tại sao Học Viện Phật giáo Việt Nam phải cần đến 3 vị phó Viện trưởng,
và cho đến 5 phó Tổng thư ký? Tại sao phải có chức vụ Tổng thư ký và phó
Tổng thư ký, công việc của chức vụ này như thế nào, cách cấu trúc nhân sự
này dựa vào điều kiện thực tế nào? Đây chỉ là một ví dụ điển hình, trên
thực tế vấn đề này không chỉ có Viện Nghiên Cứu mà còn phổ biến ở các ban
ngành trong Giáo hội.
Giáo hội có những ban ngành
thừa người thừa việc, nhưng trong Phật giáo lại còn có khá nhiều lãnh vực
vẫn chưa đưa vào hành động. Ví dụ, tình trạng xây cất và sửa sang các tu
viện trong Phật giáo hiện nay rất tùy tiện. Sửa như thế nào, cất như thế
nào, kiến trúc ra sao, dường như giáo hội vẫn thả lỏng không quản lý?
Trong đời sống tăng ni thường phát sinh các chứng bịnh như là gan, bao
tử... lý do tại sao, nó xuất phát từ đâu, phải chăng do thức ăn, uống, sử
dụng chung dao cạo đầu? Thực trạng này giáo hội vẫn chưa lưu tâm, đề xuất
giải pháp. Âm nhạc vốn là phương tiện truyền giáo rất có hiệu quả, chư tổ
ngày xưa đã vay mượn nhạc cụ dân gian để biến thành lễ nhạc Phật giáo, là
những bài tán tụng trong nhà chùa, rất có hiệu quả trong cách truyền giáo
ở ngày xưa, nhưng nó không còn hấp dẫn trong thời đại ngày nay; nếu nó là
mặt mạnh trong công việc truyền giáo, tại sao Phật giáo không đào tạo
người chuyên nghiên cứu về âm nhạc Phật giáo, để tiếp tục sự nghiệp hoằng
dương chánh pháp, đưa Phật giáo vào xã hội?
Vấn đề tăng ni sinh đi du
học nước ngoài cũng là một trong những vấn đề cần được nêu ra đây. Thực tế
mà nói, cho đến nay giáo hội vẫn chưa có kế hoạch cụ thể đối với việc đưa
tăng ni sinh đi du học. Học ở đâu, học ngành gì, đều do tăng ni sinh quyết
định, cho đến nay vẫn chưa có sự hướng dẫn nào từ giáo hội. Sự học này sẽ
không làm sao tránh khỏi việc thừa việc thiếu, dẫm chân lẫn nhau trong
tương lai. Đây chỉ là một vài ví dụ điển hình và trọng yếu, trước mắt giáo
hội Phật giáo Việt Nam cần phải khắc phục, tạo điều kiện cho Phật giáo
phát triển.
Những gì vừa được trình bày
là thực trạng của Phật giáo Việt Nam. Muốn Phật giáo được phát triển cùng
với con người trong xã hội mới, chúng ta cần phải đối điện vấn đề và giải
quyết. Thế thì giải quyết như thế nào? Theo tôi, muốn giải quyết một vấn
đề gì, công việc trước tiên vẫn là vấn đề con người, có nghĩa là ai thực
thi hiệu quả những công việc đó? Chắc chắc phải là người có trình độ
chuyên môn và có tấm lòng. Người này từ đâu có? Không thể tự nhiên mà có,
phải bắt nguồn từ công việc giáo dục và đào tạo. Như vậy vấn đề then chốt
vẫn là vấn đề giáo dục và đào tạo, nó là nơi cung ứng nhân sự cho các mặt
hoạt động khác nhau của Phật giáo.
4. Trường đại học Phật
giáo là phương án thích đáng phát triển Phật giáo Việt Nam
Như tôi vừa trình bày trên,
Phật giáo Việt Nam có chiều dài gần 2.000 năm lịch sử, luôn luôn gắn bó,
đồng cam cộng khổ với dân tộc. Phật giáo đến với dân tộc không làm tổn hại
đến nền văn hóa truyền thống của dân tộc, ngược lại Phật giáo tô bồi cho
nền văn hóa đó càng tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể ngang qua những di tích
lịch sử chứng minh điều đó và ngay cả cách suy tư, giáo dục con người đều
mang trong đó những dấu tích của Phật giáo. Như vậy văn hóa Phật giáo là
một bộ phận không nhỏ của văn hóa truyền thống dân tộc. Nếu như chúng ta
đồng ý quan điểm này, thì sự phát triển Phật giáo có nghĩa là chúng ta
đang phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc. Sự củng cố và phát huy văn
hóa truyền thống dân tộc là bức tường vững chắc nhất cho sự nghiệp bảo vệ
truyền thống văn hóa Việt Nam và nền độc lập và thống nhất của dân tộc, là
vũ khí sắc bén nhất để đẩy lùi những suy tư phi dân tộc.
Thời gian chiến tranh đã
qua, hơn 30 đất nước sống trong hòa bình độc lập, những gian nan cam khổ
rồi cũng qua đi, nền kinh tế đất nước đang từng bước ổn định và phát
triển. Nếu như Phật giáo là một tôn giáo của dân tộc, là một tôn giáo được
đa số người dân tin theo; tư tưởng văn hóa của dân tộc và Phật giáo đã
quyện chặt vào nhau thành một khối, thì tại sao chúng ta không tạo điều
kiện cho Phật giáo phát triển, cùng nhau tạo dựng trường đại học cho Phật
giáo? Tôi tin rằng, trường đại học sẽ là đòn bẩy kích thích cho mọi mặt
hoạt động của Phật giáo cùng phát triển. Thử hỏi một đất nước không có cơ
sở giáo dục thì đất nước đó đi về đâu, phải chăng sẽ là một đất nước có
nền kinh tế lạc hậu và xã hội rối loạn? Cũng vậy, nếu Phật giáo không có
cơ sở giáo dục đào tạo hợp lý, thì không sao tránh khỏi những hoạt động
yếu kém. Nếu như trong thời gian qua các mặt hoạt động của Phật giáo còn
trì trệ, giáo hội không chủ động được những công việc của mình, theo tôi
nguyên nhân chính vẫn là vấn đề nhân sự.
Phật giáo tuy đã có các cơ
sở giáo dục, từ sơ cấp đến cao cấp, nhưng chỉ sinh hoạt dưới hình thức
Phật học viện mang tính nội bộ, chưa được chấp nhận của ngành giáo dục
quốc gia. Hình thức giáo dục này không thể đáp ứng được những nhu cầu của
Phật giáo trong xã hội hiện nay. Hơn nữa, sinh hoạt Phật giáo không còn
mang ý nghĩa đơn thuần chỉ là người ẩn dật tu tập trong rừng núi mà phần
lớn là những người hoạt động xã hội. Nếu như một người lãnh đạo hoạt động
xã hội mà không có kiến thức Phật học và xã hội học, thì công việc làm của
người đó hàm chứa yếu tố nguy hiểm hơn là người có kiến thức. Mặt khác
những cơ sở giáo dục này vì chưa được Bộ Giáo Dục thừa nhận nên trở ngại
cho nhu cầu tiếp tục học tập của các tăng ni sinh. Do vậy, sự hình thành
trường Đại học Phật giáo là nhu cầu cần thiết và hết sức bức bách của Phật
giáo Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Nó không những chỉ
có lợi cho Phật giáo trong sự nghiệp truyền bá chánh pháp, còn có bổn phận
phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng xã hội, nâng cao
trình độ nhân thức cho thế hệ trẻ, huấn luyện kiến thức chuyên môn để đáp
ứng nhu cầu của Phật giáo và xã hội trong thời đại mới.
Tính đặc thù của trường Đại
học Phật giáo chuyên đào tạo và nghiên cứu các lãnh vực thuộc về nhân văn
tư tưởng như Phật học, Việt Nam học, Ấn Ðộ học, Trung Quốc học, tôn giáo
học, đạo đức học, xã hội học, dân tộc học, ngôn ngữ học và những ngành
liên quan đến Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Ngoài ra, đại học
Phật giáo còn có thể đào tạo các ngành khoa học về tự nhiên, nếu có thể.
Trong đó đặc biệt chú trọng đào tạo các chuyên viên phiên dịch và biên tập
bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam. Những sinh viên, nghiên cứu sinh tốt nghiệp
trường này sẽ là những chuyên viên cho các mặt hoạt động của Phật giáo,
không những chỉ giới hạn trong Phật giáo mà còn cung ứng cho xã hội những
ngành có liên quan, như công tác tôn giáo, công tác từ thiện xã hội….
Ngoài ra, trường đại học
Phật giáo xúc tiến nghiên cứu các ngành liên quan đến Phật học, tôn giáo
và xã hội, nhằm để cống hiến cho xã hội có cái nhìn đúng đắn hơn đối với
vấn đề tôn giáo, và sự ảnh hưởng của nó đối với xã hội. Đồng thời, trường
đại học Phật giáo còn có chức năng giao lưu với các đại học Phật giáo trên
thế giới, thường xuyên tổ chức những hội thảo chuyên đề, nhằm tạo điều
kiện cho đôi bên có cơ hội trao đổi và tìm hiểu lẫn nhau trong lãnh vực
nghiên cứu khoa học. Có thể nói đây là xu hướng chung của Phật giáo thế
giới. Các nước như Thái Lan, Tích lan, Taiwan… đều có trường Đại học Phật
giáo. Việt Nam là một nước có nền văn hóa gắn liền với Phật giáo, đại đa
số người dân theo đạo Phật thì thật là vô lý khi chúng ta không có trường
Đại học Phật giáo.
5. Kết luận
Phật giáo là một trong những
tôn giáo lớn của thế giới, sau khi Phật giáo truyền vào Việt Nam được đa
số người dân tin theo và mau chóng thành một tôn giáo của đại bộ phận dân
tộc. Phật giáo là một tôn giáo thuộc văn hóa Ấn độ, nhưng khi Phật giáo
truyền vào Việt Nam không làm nguy hiểm đến văn hóa và nền độc lập dân
tộc. Ngược lại Phật giáo vun bồi và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc,
không những thế, Phật giáo luôn luôn gắn bó cùng với nhân dân Việt Nam bảo
vệ nền độc lập và thống nhất của dân tộc.
Trải qua gần 2000 năm lịch
sử, Phật giáo đã để lại cho dân tộc không biết bao nhiêu công trình văn
hóa quí giá, từ vật thể cho đến phi vật thể. Cho đến nay, văn hóa Phật
giáo trở thành một bộ phận văn hóa của dân tộc, hay nói một cách khác, nói
đến văn hóa Việt Nam không thể không đề cập đến văn hóa Phật giáo. Do vậy
tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển đồng nghĩa tạo điều kiện cho nền
văn hóa dân tộc phát triển, giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc có nghĩa
là giữ gìn văn hóa Phật giáo.
Phật giáo là một tôn giáo,
nhưng Phật giáo không lấy ‘niềm tin’ làm mục đích cho sự giáo dục, mà Phật
giáo lấy giác ngộ (sự hiểu biết) làm mục đích. Do vậy, giáo dục Phật giáo
không làm cản trở cho sự phát triển xã hội, ngược lại lối giáo dục Phật
giáo không những giúp cho con người có suy tư tốt, làm cơ sở cho sự phát
triển mà còn giúp cho xã hội sinh hoạt trong sự hòa bình tương thân tương
ái.
Thời đại mà chúng ta đang
sống là thời đại khoa học kỹ thuật, trình độ nhận thức của con người được
trang bị khá tốt, xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam cũng sẽ theo qui
luật chung này. Đứng trước thời đại mới con người mới này, với phương pháp
làm việc của Phật giáo Việt Nam hiện nay không thể đáp ứng những nhu cầu
mới của thời đại. Phật giáo muốn tiếp tục tồn tại và phát triển cùng với
xã hội mới đó thì không thể không thay đổi cách suy nghĩ và phương pháp
làm việc. Theo tôi, Phật giáo muốn làm được điều này, điều trước tiên phải
có nhân sự. Nhân sự đó không thể tự nhiên mà có, mà phải bắt nguồn từ giáo
dục. Nói đến giáo dục và đào tạo là nói đến tính hợp pháp của trường đại
học, như vậy sự hình thành trường đại học Phật giáo là nhu cầu hết sức bức
bách, là cơ sở là nền tảng để giải quyết mọi vấn đề trong Phật giáo.
Nếu như Phật giáo là một tôn
giáo lớn của Việt Nam, được đa số người dân tin theo thì nhu cầu hình
thành trường đại học Phật giáo là nhu cầu chung của đại đa số nhân dân
Việt Nam. Nếu nền văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo có mối quan hệ mật
thiết thì nhu cầu hình thành trường đại học Phật giáo là nhu cầu chính
đáng, để duy trì và phát huy văn hóa dân tộc. Nếu như Phật giáo là một tôn
giáo có công bảo vệ nền độc lập và thống nhất của dân tộc thì trường đại
học Phật giáo là nơi giáo dục con người tiếp nối truyền thống tốt đẹp đó.
KINH SÁCH THAM KHẢO
- HT. Minh Châu dịch, “Kinh
Tương Ưng Bộ” tập 1, 2 Viện NCPHVN Ấn hành.
- HT. Minh Châu dịch, “Kinh
Trung Bộ” tập, Viện NCPHVN ấn hành.
- HT. Minh Châu dịch, “Kinh
Trường Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành.
- HT. Minh Châu dịch, “Kinh
Tăng Chi Bộ” tập 2, Viện NCPHVN ấn hành.
- HT. Thiện Siêu dịch, “Kinh
Tạp A-hàm” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành.
- Viện CĐPH Hải Đức NT dịch,
“Kinh Trung A-hàm” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành.
- Viện CĐPH Huệ Nghiêm dịch,
“Kinh Trường A-hàm” tập 2, Viện NCPHVN ấn hành.
- Lê Mạnh Thát, “Lịch sử
Phật giáo Việt Nam” tập 1, Huế, NXB Thuận Hóa.
- Nguyên Hồng, “Giáo dục học
Phật giáo”, NXB Tôn giáo.
- Thích Hạnh Bình, “Tìm hiểu
đạo Phật Nguyên Thủy”, Hà Nội, NXB Tôn giáo.
- Thích Hạnh Bình, “Đạo Phật
xưa và nay”, Hà Nội, NXB Tôn giáo.
- Võ Văn Tường, “Việt Nam
Danh lam Cổ tự”, Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội.
- Hà Duy dịch, “Các quan hệ
Việt Nam Ấn Độ Từ thế kỷ I đến thế kỷ XXI” NXB Lao Động.
- Vũ Thanh Sơn, “Thần Linh
đất Việt”, NXB Dân Tộc.
- Phạm Đan Quế, “ Tìm hiểu
điển tích Truyện Kiều” NXB Thanh Niên.
- Châu Nhiên Khanh biên
soạn, “Ca dao Việt Nam” NXB Đồng Nai.
[1]
HT. Thiện Siêu dịch, “Kinh Tạp A-hàm” tập 1, ‘Kinh số 89,
90, 93…’ Viện NCPHVN ấn hành, 1994.
[2]
HT. Thiện Siêu dịch, “Kinh Tạp A-hàm” tập 1, ‘Kinh số
154~165’ Viện NCPHVN ấn hành, 1994.
[3]
HT.Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ”
(Majjhima-Nik?ya) tập 1, ‘Đại Kinh Sư Tử Hống’
(Mah?sihan?dasuttam), Viện NCPHVN ấn hành, 1992, trang 161~191.
[4]
Ht. thiện Siêu dịch, “Kinh Tạp A-hàm” tập 3, ‘Kinh số 912’
Viện NCPHVN ấn hành, 1995, trang 284-290.
[5]
HT Minh Châu dịch, “Kinh Tăng
Chi Bộ” tập
2, Viện NCPHVN ấn hành, 1996 , trang 185: “Này Bhaddiya, chớ có tin vì
nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe
người ta nói; chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân
lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo lập trường; chớ có tin vì đánh
giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin phù hợp với định kiến; chớ có tin vì
phát xuất từ nơi có uy quyền; chớ có tin vì vị sa môn là bậc đạo sư của
mình. Nhưng này Bhaddiya, khi nào ông tự mình biết rõ như sau: “Các pháp
này là bất thiện; các pháp này là có tội; các pháp này bị người trí chỉ
trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”,
thời này Bhaddiya, ông hãy từ bỏ chúng.”
[6]
HT Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện NCPHVN ấn
hành, 1993, trang 271~273 “Này các
Tỷ-kheo, không thắng tri, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ tất
cả, thời không có thể đoạn tận khổ đau.”.
[7]
HT Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” (Majjhima
Nik?ya)
tập 1 , Viện NCPHVN ấn hành 1992 , trang 19~20
[8]
Xin tham khảo ‘Kinh Sa Môn Quả’
(S?ma��aphala
Sutta) trong “Kinh
Trường Bộ”
(D´gha
Nik?ya),
tương đương ‘Kinh Sa Môn Quả’ (沙門果經)
trong “Kinh Trường A Hàm” (長阿含經).
[9]
K. Sri Dhammananda, “Buddhism in the Eyes of Intellectuals”
(Copyright by Buddhist Missionary Society. Malaysia. P. 21). ‘The religion
of the future will be a cosmic religion. It should transcend a personal
God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the
spiritual, it should be based on a religious sense arising from the
experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity.
Buddhism answers this description’
[10] 1.
Chánh kiến là quan điểm đúng, 2. Chánh tư duy là cách suy tư đúng, 3.
Chánh ngữ là lời nói đúng và chân thật, 4. Chánh nghiệp là có việc làm
chân chánh, 5. Chánh mạng là đời sống chân chánh, 6. Chánh tinh tấn là sự
nỗ lực cố gắng hợp lý và đúng, 7. Chánh niệm là sự chú ý chuyên tâm chân
chánh, 8. Chánh định là thiền định chân chánh.
[11] HT.
Thiện Siêu dịch, “Kinh Tạp A-hàm” tập 1, ‘Kinh số 36’ ghi:
“Hãy trú trên hòn đảo của chính mình, trú trên chỗ nương tựa của chính
mình; trú trên hòn đảo chánh pháp, trú trên nương tựa chánh pháp, chứ đừng
trú trên hòn đảo khác, chỗ nương tựa nào khác” Viện NCPHVN ấn hành, 1994,
trang 74.
[12] Thích
Thanh Từ, “Thiền Sư Việt Nam”, Thành hội Phật giáo TP.HCM ấn hành, 1992,
trang 124.
[13] Phạm
Đan Quế, “Tìm hiểu điển tích Tuyện Kiều”, NXB Thanh Niên, TP.HCM, năm
2003, trang 270.
[14] Sđd
trang 602.
[15] Châu
Nhiên Khanh biên chọn, “Ca dao Việt Nam” NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2000 trang
159.
[16] Ở đây
từ ‘Phật giáo Việt Nam’ là khái niệm mà tác giả muốn chỉ chung cho tất cả
các tổ chức thuộc Phật giáo của Việt Nam, không mang ý nghĩa giới hạn chỉ
có tổ chức Phật giáo này không là Phật giáo khác, vì đây là trách nhiệm
chung của Phật giáo Việt Nam.