Dharmachari Lokamitra sinh năm 1947 ở Anh. Năm 1974, ông gia
nhập Western Buddhist Order (WBO) của Sangharakshita, một Phật
tử người Anh đã sống ở Ấn độ 20 năm cho đến 1964.
Từ năm 1978, Dharmachari Lokamitra về ở luôn tại Ấn độ, hướng dẫn các
hoạt động của Trailokya Bauddha Mahasangha Sahayaka Gana
(TBMSG), chi nhánh Ấn độ của Friends of the Western Buddhist Order.
Những thành viên của Friends of the Western Buddhist Order quy
y Phật, Pháp, Tăng và nguyện giữ mười giới của thân, miệng và ý.
Bất cứ nơi nào Phật giáo truyền đến thì Tăng già có mặt, và qua
gương tu tập và làm việc của họ, một mức độ cao hơn về đời sống đã đến
với số đông dân chúng, nâng chất lượng sống lên những mức độ cao hơn,
vượt khỏi đời sống đặt nền tảng trên giác quan thô thiển.
***
Mặc dù trong thế giới tự do Tây phương, việc đem tôn giáo vào giáo
dục nói chung không được chấp nhận, những giá trị giáo dục hiện đại và
những giá trị Phật Giáo gặp nhau ở nhiều điểm. Cả hai đều đồng ý không
cố gắng tạo ảnh hưởng lên học sinh bằng bất cứ cách nào, không hạn hẹp
họ bằng việc truyền bá, khuyến dụ sự mê tín.
Phật Giáo khuyến khích việc rèn luyện sự hiểu biết ở mọi trình độ để
đưa đến sự vượt thoát khỏi những quan điểm sai lầm và không có chỗ cho
giáo điều hiện diện. Trong Phật giáo, không có chỗ cho những hình thức
ước định thuộc tâm lý hoặc những thứ ước định khác khóa kín tâm thức,
không cho tâm thức rộng mở.
***
Những nguyên lý nền tảng của Phật giáo không chỉ thích hợp cho thế
giới Phật giáo; trong lĩnh vực thế tục và nhân đạo, những nguyên lý đó
còn có thể được áp dụng cho thế giới rộng lớn hơn, nơi có quá nhiều sự
bất ổn về đạo đức trong giáo dục. Mặt khác, gương mẫu là phương tiện tốt
nhất để khuyến khích người khác.
Hy vọng rằng những quốc gia với truyền thống Phật giáo lâu đời sẽ coi
trọng tài sản lớn lao của mình, tìm những con đường để làm phong phú
nền giáo dục với những nguyên lý Phật giáo, và đặt ưu tiên cho giáo dục
bằng nguồn tài nguyên có sẵn.
Tôi đã làm việc khoảng trên 25 năm ở Ấn độ, phần lớn trong cộng đồng
những người mới quy y Phật giáo vào năm 1956 theo sự khuyến khích của
Tiến sĩ B. R. Ambedkar. Những người nầy trước kia bị coi và đối xử như
những người không nên chạm đến (tiện dân) trong hệ thống giai cấp Ấn độ
giáo.
Công việc của chúng tôi trước tiên là những sinh hoạt Phật Pháp,
những lớp tham thiền, học hỏi Phật Pháp, thuyết giảng và nhập thất. Kết
quả của việc tu tập là nhiều người thay đổi hoàn toàn tâm hồn và đời
sống của họ.
Bên cạnh những sinh hoạt Phật Pháp dưới tên là Trailokya Bauddha
Mahasangha, một số hoạt động xã hội cũng được khởi sự dưới tên Bahujan
Hitaya. Những hoạt động xã hội gồm có nhà tập thể và những đề án
về cộng đồng trong những khu nhà ổ chuột cũng như những công tác xoa dịu
và khôi phục trong những vụ động đất.
Những hoạt động nầy đều được thực hiện bởi giới trẻ mà phần đông lớn
lên với gia đình trong những căn phòng chật hẹp với tình trạng hết sức
tồi tệ trong những khu ổ chuột, không có sự cải thiện về điều kiện vệ
sinh, không có nước, và nhiều thứ bất tiện khác. Qua việc thực hành Phật
Pháp, những người nầy đã biến đổi cuộc sống của họ, và bây giờ họ đang
thực hiện những dự án giúp những người khác giống như vậy.
Tiến sĩ Ambedkar về với Phật giáo vào năm 1956 cùng với 500,000 người
theo ông (con số nầy tiếp tục gia tăng và phỏng đoán gần đầy là khoảng
trên 20,000,000). Ông thấy trong Phật giáo chẳng những khả năng nhổ tận
gốc những vết thẹo tâm lý sâu xa, mà còn phát triển tính tích cực cao độ
cho con người và xã hội.
Sinh ra trong giai cấp tiện dân, nhờ sự giúp đỡ của các hoàng thân tiến
bộ, ông đã hoàn tất một nền học vấn cao ở nước ngoài, trở thành một
trong những người có học vấn cao nhất Ấn độ trong những năm đầu của thế
kỷ hai mươi.
Là một nhà kinh tế được coi trọng, một luật sư, và là một chính khách
tài năng, ông đã thực hiện những cuộc cải cách xã hội đáng kể, đem lại
lợi ích cho những người anh em thuộc giai cấp tiện dân của ông và những
nhóm xã hội bị bạc đãi khác.
Tuy nhiên ông cảm thấy những thay đổi về đạo đức và tâm lý mà Phật
giáo hứa hẹn còn quan trọng hơn và sẽ bảo đảm cho sự biển đổi xã hội mà
ông đề ra. Chỉ từ những thay đổi nền tảng nhất trong quan điểm của cá
nhân và xã hội, sự biến đổi xã hội mới thật sự được thành tựu. Ông từng
tuyên bố: “Điều lớn lao nhất mà đức Phật đã làm là cho thế giới biết
rằng thế giới không thể được cải thiện nếu không có sự cải thiện tâm
thức con người và tâm thức thế giới.”
Điều nầy đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề về Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia.
Theo cách suy nghĩ của Tiến sĩ Ambedkar, trừ phi một xã hội mạnh về đạo
đức và tâm lý, những mặt khác về Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia sẽ bị đe dọa.
Điều nầy thích hợp cho cả ngày nay khi chúng ta nhìn thấy sức mạnh của
những mặt tiêu cực của sự toàn cầu hóa, chủ nghĩa tiêu dùng, internet,
quảng cáo, những phương tiện kết nối quốc tế, không một cái nào trong số
đó có vẻ giảm bớt trong tương lai có thể thấy trước.
Sự nhận ra sức mạnh đạo đức và tâm lý đến từ Phật giáo có thể tìm
thấy trong việc chính phủ hoàng gia Bhutan lấy làm chính sách về Tổng
Hạnh Phúc Quốc Gia.
Trong khi con đường chuyển hóa của Phật giáo coi như được thực hiện bởi
cá nhân, lịch sử cũng chứng tỏ rằng tôn giáo nầy có một ảnh hưởng rất
tích cực trên các nền văn hóa và xã hội mà nó có sự hiện diện lâu dài.
Ngày nay với sự tăng trưởng lớn lao về dân số và với việc toàn cầu hóa,
sự việc nầy khó khăn hơn trước kia.
Do Đó, chúng ta cần tìm những phương pháp truyền đạt mới về những giá
trị của giáo pháp đức Phật. Ngày nay, bất cứ cuộc thảo luận nào về giá
trị đều tập trung vào giáo dục bao gồm hệ thống giáo dục công lập. Chúng
ta cần khảo sát xem Phật giáo có thể ảnh hưởng và thấm nhập vào giáo
dục hay không để chuẩn bị một cách có hiệu quả hơn cho cá nhân trong
việc tiếp cận với những điều kiện của xã hội hiện đại, không giới hạn sự
tự do của họ bằng những hình thức giáo điều hoặc những thiên hướng.
Bên cạnh đó, vấn đề còn nên được đặt ra là phương cách để trình bày
Phật Pháp trong thế giới hiện đại, đặc biệt là cho giới trẻ; nó cần được
trình bày không khăng khăng bám vào truyền thống, nhưng liên quan đến
sự thể nghiệm của họ. Có nhiều người trẻ phản ứng lại những truyền thống
tôn giáo địa phương khi họ tiếp xúc với thế giới hiên đại. Do đó, một
đường lối dễ tiếp cận, nhưng không xóa bỏ sự phong phú của truyền thống,
cần được khai triển cho giới trẻ.
Phật Giáo Và Hạnh Phúc
Phần lớn con người tìm thấy hạnh phúc trong sự vừa ý của giác quan và
bản ngã; loại hạnh phúc nầy phải đến từ những điều kiện được ưa thích
từ bên ngoài. Tâm thức hoạt động ở mức độ nầy chỉ là sự phản ứng, nó
không đáp ứng bằng sự trọn vẹn nội tại hay sáng tạo, nhưng chỉ phản ứng
một cách đui mù, máy móc và lặp lại những điều kiện ngoài sự kiểm soát
của nó.
Vì sự thỏa mãn của nó tùy thuộc vào sự kích thích bên ngoài, tâm thức
phản ứng là loại tâm thức yếu ớt, dễ bị ảnh hưởng và bị điều khiển. Nó
có khuynh hướng nghiêng về cái thô lậu nhất của sự kích thích giác quan,
đặc biệt là tình dục và bạo hành. Đó là lý do những phim ảnh loại nầy
thường rất phổ cập. Luôn luôn bị những đối tượng của giác quan lôi kéo
theo nhiều hướng khác nhau, nó luôn luôn thay đổi, không ổn định. Và do
đó cảm giác hạnh phúc thuộc loại nầy chỉ hiện hữu một cách ngắn ngũi.
Loại hạnh phúc nầy được minh họa bằng vòng tròn thứ ba tính từ trung tâm
của Bánh Xe Luân Hồi Tây Tạng (Bhava Chakra), diễn tả sự biến chuyển
không ngừng nhưng không bao giờ tiến bộ của luân hồi hay đời sống trần
tục. Đó là sáu cảnh giới hiện hữu tùy thuộc vào điều kiện. Đồng thời, nó
cũng nói lên những trạng thái tâm thức trong cuộc sống nầy. Thú vật chỉ
cho sự thụ hưởng những thú vui thô lậu như ăn uống, làm tình, ngủ và
một đời sống bị thúc bách, không tự tại. Chúng đại biểu cho trạng thái
tâm thức vô minh, không biết gì về ý nghĩa và niềm hạnh phúc cao thượng
hơn của cuộc sống.
Cảnh giới ngạ quỉ (preta: quỉ đói) được diễn tả bằng những chúng sinh có
bụng rất lớn, cổ dài và miệng rất nhỏ, không bao giờ được thỏa mãn
trong sự ăn uống. Cảnh giới nầy cũng tiêu biểu cho trạng thái tâm thức
phụ thuộc cùng cực, khao khát bịnh hoạn; dù có được bao nhiêu cũng không
bao giờ thỏa mãn và luôn luôn khao khát có nhiều hơn. Đó là trạng thái
nghiện ngập. Trong thật tế, người tiêu dùng trong thế giới hiện đại cũng
có cùng tâm thức không bao gờ thỏa mãn nầy, họ chỉ vui thích một chút,
và càng ngày càng bị dẫn đến sự phụ thuộc nhiều hơn.
Trong cảnh giới A tu la, các vị A tu la đánh nhau với chư thiên để
tranh giành trái của cây đời sống, không nhận thấy rằng mặc dù những
trái nầy rơi trong cõi trời nhưng rễ của cây bám trong cõi A tu la!
Những vị A tu la nghĩ rằng họ có thể nắm bắt được hạnh phúc bằng bạo
lực và đấu tranh nhưng họ không bao giờ thành công.
Những chúng sinh trong cõi trời được diễn tả là có mọi thứ họ muốn chỉ
bằng việc nghĩ đến. Họ say sưa với những thú vui tao nhã nhất, nhưng
điều kiện của những thú vui nầy cũng là vô thường, và một ngày nào đó sẽ
đổi thay.
Trung tâm của bánh xe có ba con vật là heo, gà và rắn, mỗi con cắn vào
đuôi của con trước. Con heo bị dẫn đi bằng mũi không phải bằng mắt tượng
trưng cho vô minh hay vọng tưởng. Từ vô minh vọng tưởng, chúng ta nghĩ
rằng hạnh phúc phải đến từ bên ngoài, và do đó khởi lên tâm tham, đại
biểu bằng con gà trống. Khi hạnh phúc bị ngăn trở thì sinh đau khổ, và
chúng ta tìm cách diệt trừ khổ bằng sự tìm kiếm ở bên ngoài, từ đó sinh
tâm ganh ghét, tượng trưng bằng con rắn. Ganh ghét thâu hẹp cái nhìn của
chúng ta và làm tăng thêm vô minh.
Về mặt Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia, mức độ tâm thức nầy rõ ràng là không
thỏa mãn. Trong thực tế, mức độ tâm thức nầy là sự vui thỏa của phương
tiện đa quốc gia và quốc tế. Cả hai đều dựa vào quảng cáo, một nền kỹ
nghệ lớn nhất trên thế giới, trước tiên là để bán sản phẩm và thứ hai là
để tìm nguồn tài chính cho những chương trình của họ.
Những nhà quảng cáo hứa hẹn một sự vui thỏa tức thời và hấp dẫn qua
cái mà họ cố gắng để bán, lôi cuốn trực tiếp giác quan và bản ngã, và cố
gắng làm cho con người không sử dụng lý trí. Nhờ tiền của, họ có thể sử
dụng nhiều phương tiện hiệu quả để thực hiện những chương trình làm cho
những xã hội “chưa phát triển” hay “đang phát triển” khó lòng cưỡng
lại.
Những nhà quảng cáo không muốn khuyến khích sự suy nghĩ khách quan
(mặc dù một phần trong công việc của của họ có thể giả vờ), mà còn ngược
lại. Và dĩ nhiên họ muốn tạo ra sự phụ thuộc mà họ thực hiện qua việc
khuyến khích lòng tham, sự ngu si, tâm ganh tỵ, bất an, và tất cả những
thứ cùng loại khác.
Họ phát đạt trên trạng thái tinh thần yếu đuối, phản xạ và phụ thuộc,
cố gắng tạo ấn tượng vào tâm trí người tiêu dùng. Nếu những trạng thái
tinh thần tiêu cực bị khuyến khích và nhồi sọ, và những trạng thái tích
cực bị làm cho suy yếu, sức mạnh xã hội và văn hóa dùng để duy trì những
mặt khác nội tại hơn của Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia sẽ bị xoi mòn. Điều
nầy chắc chắn sẽ tiếp tay vào sự xuống cấp của môi trường, chênh lệch
giàu nghèo, tách rời khỏi gốc rễ văn hóa, và làm giảm sự hưởng ứng xã
hội của người công dân.
Tất cả những thứ đó sẽ không tránh khỏi ảnh hưởng đến việc điều hành
quốc gia. Môi trường, kinh tế, phúc lợi xã hội, văn hóa và chính sách
điều hành quốc gia dù có tích cực cách mấy cũng khó chống lại sự tấn
công vũ bão nầy.
Trên quan điểm Phật giáo, hạnh phúc dựa trên sự thỏa mãn của giác quan
và bản ngã thật sự không phải là hạnh phúc. Có thể có sự thỏa thích
nhất thời, nhiều sự khổ hơn hàm chứa trong đó. Một loại hạnh phúc thật
hơn phát khởi từ một đời sống khéo léo và trong sạch, có một lương tâm
trong sáng, lòng độ lượng và giúp đỡ tha nhân, tình bằng hữu, và nỗ lực
sáng tạo.
Có niềm vui tinh thần đến từ thiền quán để cuối cùng đưa đến giác
ngộ, niềm hạnh phúc cao cả nhất mà con người có thể đạt được.
Đời sống của người Phật tử tiến bộ từ việc nhận thức rằng cuộc sống
bị chi phối bởi điều kiện tự bản chất không thỏa mãn cho việc vĩnh viễn
thoát khỏi khổ. Trạng thái thể nghiệm đó, giác ngộ, được nói đến như là
một hạnh phúc tột cùng, một trạng thái an bình, tự do không giới hạn đối
với mọi ràng buộc.
Trạng thái tâm thức đó không bao giờ bị lay động dù những điều kiện
bên ngoài có bất như ý như thế nào. Con người càng tiến sâu vào hướng
này thì tâm thức và sự hạnh phúc của người đó bớt tùy thuộc hơn vào
những điều kiện bên ngoài và thái độ của người đó trở nên vững chắc và
tích cực. Càng ít bị lôi kéo vào cơn lốc mà sức mạnh của lòng tham trong
thế giới hiện đại kích thích, con người càng có nhiều khả năng hơn
trong việc lựa chọn những gì có ích từ sự phát triển trong thế giới hiện
đại và gạt bỏ những thứ không có ích.
Phật Giáo Và Sự Nâng Cao Chất Lượng Đời Sống Xã Hội
Hiểu và thực hành Phật Pháp là việc của cá nhân. Tuy nhiên sự hiểu và
hành nầy có mối liên hệ và tầm ảnh hưởng đáng kể lên xã hội. Ảnh hưởng
đó như chúng ta thấy đã đóng góp không nhỏ vào Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia.
Thực hành Phật Pháp đặt nền tảng trên sự nhận thức rằng cuộc sống của
chúng ta có sự gắn bó không thể gỡ ra với những người khác. Sila hay
Giới, điều đầu tiên trong ba môn học chính trên con đường Đạo, bao gồm
việc cải đổi hành động và lời nói – cả hai thứ đó liên hệ trực tiếp đến
người khác. Samadi hay Định bao gồm việc rèn luyện sự tỉnh thức và ứng
xử nhu nhuyến đối với người khác như từ, bi, sự thông cảm, tinh thần
bình đẳng. Prajna hay Huệ bao gồm việc thấy rằng rốt ráo không có sự
khác biệt giữa mình và người; từ thể nghiệm nầy khởi lên một tình thương
cao cả và giác ngộ.
Những người đi theo con đường tu tập nầy tạo nên Tăng già. Tiến sĩ
Ambedkar nhìn thấy Tăng già (theo ông Tăng già bao gồm những người tại
gia) có vai trò trọng yếu trong vấn đề cải thiện xã hội. Với sự thực
hành và rèn luyện những trạng thái tinh thần cao hơn và thiện xảo hơn
một cách có hệ thống, họ đã có thể tạo dựng một xã hội kiểu mẫu, làm
gương cho người khác cách sống một cuộc sống tốt đẹp nhất. Và thực tế đã
chứng tỏ rằng cuộc sống cao thượng đó có thể thực hiện.
Quan tâm đến người khác, họ cũng đã có thể làm việc một cách có hiệu
quả để nâng những người khác lên, cả về mặt xã hội cũng như tâm linh.
Lịch sử đã xác nhận điều nầy. Bất cứ nơi nào Phật giáo truyền đến thì
Tăng già có mặt, và qua gương tu tập và làm việc của họ, một mức độ cao
hơn về đời sống đã đến với số đông dân chúng, nâng chất lượng sống lên
những mức độ cao hơn, vượt khỏi đời sống đặt nền tảng trên giác quan thô
thiển.
Mối quan tâm và sự quan hệ đối với xã hội của Phật giáo đã có từ những
buổi đầu của tôn giáo nầy. Sau khi chấm dứt mùa An cư đầu tiên, đức
Phật đã cổ vũ những đệ tử đầu tiên của ngài đi khắp nơi vì sự lợi ích
và hạnh phúc cho số đông. Và ngài cũng khuyến khích họ đi một mình để có
thể làm lợi được cho nhiều người nhất.
Bản thân ngài cũng là một tấm gương trong việc nầy. Trong suốt 35
năm, ngài không ngừng đến với những người mang nhiều nỗi đau khổ khác
nhau. Ngài thường làm sáng tỏ những lời giảng dạy của ngài bằng những
tấm gương trong những đời quá khứ khi ngài còn là Bồ tát, và những tấm
gương nầy đã nở hoa để kết thành Phật Giáo Đại Thừa.
Trong khi đức Phật không nói nhiều về những vấn đề xã hội, có thể vì
không có nhiều điều để nói trong thời buổi đó, những điều ngài nói ra
đều có ý nghĩa lớn lao. Ngài phê bình thẳng thừng hệ thống giai cấp và
một xã hội trong đó nguồn gốc sinh ra được coi trọng hơn đức hạnh, và
ngài đã thiết lập một Tăng đoàn không bị ràng buộc vào giai cấp hay lãnh
vực xã hội.
Một trong những điều quan trọng nhất trong Bát Chính Đạo, bài pháp
nổi danh của ngài, là Chính Mạng. Với Chính Mạng, những người có bất cứ
sinh kế nào tổn hại đến những chúng sinh khác đều không được khuyến
khích. Danh sách ngài nêu ra thì ít, nhưng ngày nay với sự tăng nhanh
các nghề nghiệp, nó sẽ rất dài.
Ngài còn nêu ra những bổn phận của vị Chuyển luân vương, vị vua (hay
chính phủ) lý tưởng thực hành theo giáo pháp giác ngộ. Bổn phận của vị
vua (hay chính phủ) đó là xiển dương đạo đức và khuyến khích người dân
thực hành đạo đức. Nếu những giáo huấn về đạo đức, trong đó có việc tu
sửa hành động và lời nói, được thực hành rộng rãi, xã hội sẽ trở nên tốt
đẹp và sẽ có sự hưởng ứng.
Mặc dù cũng có những thiếu sót, nói chung bất cứ nơi nào Phật giáo
truyền đến, những giá trị văn minh, hòa bình và hòa hợp, tôn trọng nghệ
thuật và cái đẹp, giáo dục, và giúp đỡ những người khốn cùng đều được
khuyến khích. Cả trong những xã hội mà Phật giáo là tôn giáo vượt trội
cũng chỉ có một tỷ lệ nhỏ dân chúng thực hành Phật Pháp một cách nghiêm
túc, nhưng việc làm và tấm gương của Tăng già và vị vua Chuyển luân (nếu
có) cũng có thể tạo ra kết quả tích cực trong cách cư xử và và điều
kiện sinh hoạt xã hội, cũng như mở ra một con đường cho những giá trị
cao cả hơn, thiện xảo hơn.
Phật Giáo Và Nền Giáo Dục Hiện Đại
Ở Bhutan, nơi mà khái niệm Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia phát sinh, nguyên lý
về Chuyển luân vương vẫn còn rất giá trị. Phật giáo là một truyền thống
sống động được đại bộ phận trong xã hội kính trọng và tôn vinh. Thủ
tướng Bhutan nhấn mạnh vai trò của Phật giáo trong viêc tiếp cận với
khái niệm Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia của chính phủ hoàng gia Bhutan và đề
cập đến nền giáo dục giác ngộ, một nền giáo dục thấm nhuần những giá trị
Phật Giáo. (1)
Mặc dù ông không đề cập một cách chi tiết, điều nầy rất đáng chú ý và
nên học hỏi đối với Phật tử ở khắp nơi trên thế giới, và cả cho những
người không phải Phật tử quan tâm đến khái niệm Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia
thấy được việc Phật Giáo có thể ảnh hưởng thế nào vào hệ thống giáo dục.
Nếu những giá trị tích cực không được đưa vào hệ thống giáo dục một
cách có ý thức, thì hầu như những giá trị tiêu cực của thế giới hiện đại
sẽ thâm nhập vào, đặc biệt là trong lúc mà nền giáo dục của hầu hết các
nơi trên thế giới đều có khuynh hướng đặt nền tảng trên những kiểu mẫu
Tây phương, một thế giới trong đó đạo đức và tinh thần nói chung không
được chú ý đến nhiều.
Mặc dù trong thế giới tự do Tây phương, việc đem tôn giáo vào giáo dục
nói chung không được chấp nhận, những giá trị giáo dục hiện đại và những
giá trị Phật Giáo gặp nhau ở nhiều điểm. Cả hai đều đồng ý không cố
gắng tạo ảnh hưởng lên học sinh bằng bất cứ cách nào, không hạn hẹp họ
bằng việc truyền bá, khuyến dụ sự mê tín.
Phật Giáo khuyến khích việc rèn luyện sự hiểu biết ở mọi trình độ để
đưa đến sự vượt thoát khỏi những quan điểm sai lầm và không có chỗ cho
giáo điều hiện diện. Trong Phật giáo, không có chỗ cho những hình thức
ước định thuộc tâm lý hoặc những thứ ước định khác khóa kín tâm thức,
không cho tâm thức rộng mở. Tính phóng khoáng nầy của Phật Giáo được đức
Phật trình bày rõ cho những người Kalama:
"Hãy đến đây, nầy quí vị Kàlàma! Ðừng chấp nhận điều gì chỉ bằng
nghe nói. Ðừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều đó được truyền từ xưa.
Ðừng chấp nhận điều gì vì điều đó được đồn đại. Ðừng chấp nhận điều gì
chỉ vì điều đó hợp với các kinh điển của mình. Ðừng chấp nhận điều gì
chỉ vì điều đó được ước đoán như vậy. Ðừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều
đó được coi là có lý. Ðừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều đó hợp với
nhận thức của mình. Ðừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều đó có vẻ có thể
chấp nhận. Ðừng chấp nhận điều gì vì nghĩ rằng vị ẩn sĩ là người được
tôn kính.
Nhưng nầy quí vị Kàlàma, khi quí vị biết do chính mình - Những
điều nầy không hợp đạo đức; những điều nầy đáng bị chê trách; những điều
nầy bị các bậc hiền triết chê trách; những điều nầy khi thực hành sẽ
gây nên tàn phá và phiền muộn, thì quí vị loại bỏ không chấp nhận. Và
nầy quí vị Kàlàma, khi quí vị biết do chính mình - Những điều nầy hợp
đạo đức; những điều nầy không bị chê trách; những điều nầy được các bậc
hiền triết khen ngợi; những điều nầy khi thực hành sẽ tạo nên sự ích lợi
và hạnh phúc, thì quí vị nên sống đúng theo chúng." (2)
Những hành vi đạo đức tích cực, đặc biệt là bất bạo động, ý nghĩa của
Chính mạng, nhu nhuyến trong trao đổi, tôn trọng sự bình đẳng nền tảng
của tất cả chúng sanh, tôn trọng người khác, tôn trọng quyền tự do quyết
định và cách sống theo ý muốn, hiểu rõ giá trị của môi trường, tất cả
những điều đó là bản chất của Phật Giáo, và tất cả đều có thể được
truyền đạt qua giáo dục.
Vị thầy lý tưởng là một người bạn có kinh nghiệm và biết thương yêu
quan tâm đến sự tốt đẹp toàn diện của người khác trên hết mọi thứ. Mặc
dù là những giá trị Phật Giáo, những giá trị nầy có thể được truyền đạt
một cách có hiệu quả mà không cần đề cập đến Phật Giáo, coi đó như những
giá trị nhân bản; và một số vị thầy Phật Giáo đã thực hịện những kết
nối nầy trên 50 năm qua.
Cùng lúc, giáo lý Phật Giáo không mâu thuẫn với khoa học và lý tính –
Phật giáo khuyến khích lối suy nghĩ hợp lý và một thái độ có phê phán
đối với cuộc sống nói chung. Giáo dục Phật Giáo cũng sẽ bao gồm những
đánh giá phê phán đối với những điều tốt mà nền văn minh đem lại. Nó
không có sự mâu thuẩn đối với sự phát triển tích cực như ở những tôn
giáo khác. Do đó sẽ không lo lắng về việc Phật Giáo sẽ có ảnh hưởng
ngược lại hay làm giới hạn giáo dục, như thấy ở những tôn giáo khác.
Với tất cả những nghiên cứu có thể có cũng như lịch sử đã chứng minh,
chúng ta không nghi ngờ gì về hiệu quả của giáo dục trong việc rèn luyện
lối sống tích cực. Để có được hiệu quả tốt nhất nó cần những tài nguyên
tốt nhất được đưa vào sử dụng. Những con người tốt nhất cần được đưa
vào việc dạy và điều hành hệ thống giáo dục. Những phương pháp dạy dỗ
thích đáng nhất cần được nghiên cứu đầy đủ và áp dụng. Những môi trường
học hỏi thích hợp nhất cần được triển khai. Lớp học cần nhỏ. Chương
trình cần cân xứng thích hợp. Trẻ con cần được quan tâm từng cá nhân,
không chỉ trong tiến trình học tập, mà còn trong sự phát triển nhân
cách.
Những giá trị Phật Giáo – cũng là những giá trị nhân bản - cần được
thấm nhập vào toàn bộ kế hoạch học tập chứ không phải chỉ ở những bài
học một hoặc hai giờ mỗi tuần. Rõ ràng để một chương trình như vậy có
kết quả cần phải có cả ý chí và tài chánh. Nhưng phần thưởng cho cá nhân
và xã hội sẽ rất lớn lao.
Truyền Đạt Phật Pháp Trong Thế Giới Hiện Đại
Một vấn đề cần được đặt ra trong việc truyền đạt Phật Pháp qua hệ thống
giáo dục là tìm những phương pháp trình bày để có thể tiếp cận đến những
người được đào luyện trong nền giáo dục khoa học và chịu ảnh hưởng của
những thế lực toàn cầu hóa và môi trường quốc tế. Trong những nước mà
Phật Giáo có một lịch sử lâu dài, thế giới hiện đại và truyền thống Phật
Giáo không có vẻ sống chung một cách dễ dàng.
Tôi đã tham dự một số hội nghị Phật Giáo ở phương Đông trong vòng 20
năm qua trong đó điệp khúc chung vẫn là “Làm thế nào để giới trẻ vẫn
còn thích đến với Phật Giáo?” Và kết quả là những giải đáp rất hời
hợt.
Những tiến trình tìm kiếm những đường lối mới để truyền đạt giáo pháp
của đức Phật trong những điều kiện thay đổi của xã hội, văn hóa và địa
lý đã khởi sự từ những ngày đầu của lịch sử Phật giáo, và tính sáng tạo
vốn có của Phật Giáo đóng vai trò không nhỏ trong việc duy trì vị thế
của nó cho đến ngày nay.
Ở đây tôi xin đề nghị một số đường lối trong việc truyền đạt giáo
pháp của đức Phật trong thế giới hiện đại. Đúng hơn, tôi sẽ chú ý đến
những lĩnh vực thăm dò và đầu tư có thể ích lợi cho tiến trình nầy.
Trong 50 năm vừa qua, Phật Giáo đã được truyền bá đến nhiều quốc gia Tây
phương, nơi mà tất cả các truyền thống chính của Phật giáo ngày nay đều
có mặt. Bên cạnh những vị thầy Đông phương đem Phật giáo vào Tây
phương, có một số những vị thầy người Tây phương đáng kính như
Sangharakshita và Lama Govinda, những người không những rất quen thuộc
với truyền thống triết học và văn hóa Tây phương, mà cũng là những người
thấm nhuần sâu xa giáo lý của nhiều trường phái Phật giáo của Á châu.
Cách các vị nầy hiểu và thực hành Phật Pháp đáng cho chúng ta khảo
sát và có thể thích hợp cho những vấn đề của Phật tử Á châu trong thế
giới đổi thay nhanh chóng ngày nay.
Ngoài những vị thầy đó, hiện nay còn có một khối lượng lớn về những
kinh nghiệm tu tập của người Tây phương trong những điều kiện của người
Tây phương.
Sự thật ngày nay Phật giáo đang trải qua một giai đoạn chuyển tiếp
đáng chú ý; Phật tử Tây phương đang cố gắng làm sao đến với Giáo Pháp mà
không dựa vào những vị thầy Đông phương, những vị đã xây dựng những
sinh hoạt đầu tiên ở đó. Có nhiều điều đã đạt được từ ảnh hưởng qua lại
với những nguời xuất thân trong các nền văn hóa Tây phương, những người
đã tìm thấy trong Phật Giáo câu giải đáp cho những đòi hỏi tâm linh của
họ - đây là một trong những lợi ích của ngôi làng toàn cầu.
Làm thế nào những người đó đã vươn lên, từ những nền văn hóa với
những tập đoàn đa quốc gia và loại phương tiện mà chúng ta thấy xâm nhập
vào châu Á ngày nay, để dấng thân toàn tâm toàn ý vào việc thực hành
Phật Pháp?
Trong những quốc gia có truyền thống Phât Giáo lâu đời, thường khó phân
biệt giữa Phật Giáo và văn hóa địa phương, chúng đã cùng song song phát
triển. Nhưng trong thế giới thay đổi nhanh chóng, cái gì bị đồng hóa với
nền văn hóa cổ xưa, dù tốt đẹp cách mấy, đều có thể bị coi là không
thích hợp với thế giới hiện đại, và Phật giáo cũng không ngoại lệ.
Không những chỉ những đóng góp của Phật giáo vào nền văn hóa địa
phương, Phật Giáo như là con đường tâm linh cũng sẽ bị phai mờ nếu không
bị chối bỏ. Vì vậy có thể cần đơn giản hóa cách giảng dạy và thực hành
Phật Pháp và cố gắng làm cho nó vượt khỏi phạm vi văn hóa địa phương.
Nhiều vị Thầy Phật giáo Đông phương đến Tây phương đã làm như vậy –
truyền đạt Giáo pháp của đức Phật ra ngoài phạm vi truyền thống nơi mà
các ngài học hỏi. Các ngài đã phải phân biệt giữa cái gì là Giáo pháp và
cái gì là phần được bồi vào, dù những cái đó có tích cực đến độ nào.
Giao lưu với những vị thầy đã dạy lâu ở Tây phương như vậy có thể có
lợi ích lớn cho những nền văn hóa Phật giáo truyền thống đang gặp phải
những khó khăn đối diện với những sự phát triển hiện đại.
Một số những phát triển đáng chú ý đã đến từ sự giao lưu giữa những
người Phật tử Đông phương và Tây phương trong những năm gần đây, tôi sẽ
đề cập ba vấn đề. Trước tiên là phong trào Phật giáo phụng sự xã hội.
Phong trào Phật giáo phụng sự xã hội cố gắng áp dụng những nguyên lý
Phật giáo vào những vấn đề xã hội như môi trường, nhân quyền, nghèo đói,
bất công, bóc lột, bạo động giữa các chủng tộc.
Những vị thầy Phật giáo Đông phương đã tạo những ảnh hưởng rất tích
cực lên những nhà hoạt động xã hội Tây phương, nhiều người trong số nầy
không còn chấp nhận sự hướng dẫn của nhà thờ Thiên chúa giáo. Cùng lúc,
điều nầy đã giúp kích thích lại tính dấn thân trong Phật giáo Đông
phương.
Thứ hai là có đầy đủ các tài liệu nghiên cứu và dịch thuật, phần lớn
là do những hành giả Phật giáo chủ trương. Ngày nay, kinh văn của mọi
truyền thống Phật giáo lớn đều có thể tìm thấy qua các bản dịch trên
khắp thế giới, nhờ đó có nhiều người hơn được lợi lạc từ những bài học
trong đó. Những đánh giá phê bình những văn bản nầy cũng có ích cho
những người tu tập và sinh viên Phật học.
Một điển hình về việc Phật giáo Đông phương được kích thích bởi sự
phát triển của Phật giáo ở Tây phương là sự quan tâm hơn đến pháp môn
Thiền quán. Mặc dù phần lớn việc tu tập Thiền quán ở những nước Phật
giáo có một truyền thống tu Thiền dài lâu không gián đoạn, chúng ta
không nghi ngờ rằng việc phổ biến Thiền tập ở Tây phương đã là một phần
tác nhân làm sống lại sự chú ý của những nước nầy về pháp môn Thiền
quán.
Trong khi sự lưu tâm đầu tiên của người Tây phương có thể chỉ là tìm
kiếm sự an ổn về mặt tâm lý và thoát khỏi stress, sự tìm kiếm đó thường
dẫn họ đến với những lãnh vực khác của Giáo pháp môt cách nghiêm túc; và
điều nầy dường như cũng đang xảy ra trong Phật giáo Đông phương.
Ngoài ra, việc mà một số Phật tử Tây phương và tôi nhận thấy có ích là
tìm đến với Tiến sĩ Ambedkar, vị kiến trúc sư của Hiến pháp Ấn độ, và
quan trọng hơn là người đã cố gắng đem Phật giáo trở về với xứ Ấn độ,
nơi mà nó được sinh ra.
Một trong những tác nhân chính để ông quyết định theo Phật giáo là
thấy rằng Phật giáo nói với con người hiện đại nhiều hơn những tôn giáo
khác. Điều nầy không chỉ quan trọng đối với một người có học như ông
trong truyền thống tự do Tây phương, nhưng cũng đối với những người anh
em thuộc giai cấp tiện dân của ông mà ông muốn họ gia nhập vào thế giới
hiện đại.
Ông phải có một tôn giáo không làm phương hại những giá trị tự do,
bình đẳng và những người huynh đệ yêu mến nhất của ông. Đối với ông,
những điều đó rõ ràng có sẵn trong Phật giáo, và ông tuyên bố rằng ông
học hỏi chúng không phải từ cuộc Cách mạng Pháp mà từ đức Phật. Ông muốn
những người anh em của ông có thể chia sẻ với phần còn lại của nhân
loại, một cơ hội mà họ, những người thuộc giai cấp tiện dân, chưa bao
giờ có đươc. Để điều nầy có thể thành hiện thực, tôn giáo mà ông chọn
cho họ cũng phải thích hợp nhất cho con người trong thế giới hiện đại.
Ông viết:
“(Đức Phật) đã dạy như một phần trong tôn giáo của ngài, về tự do xã
hội, tự do tư tưởng, tự do kinh tế và tự do chính trị. Ngài đã dạy về
bình đẳng, bình đẳng không chỉ giữa đàn ông với đàn ông, mà bình đẳng
giữa đàn ông và đàn bà. Khó tìm thấy một vị thầy tôn giáo nào có thể so
sánh với đức Phật mà những lời dạy bao trùm nhiều khía cạnh của đời sống
xã hội của con người và giáo lý của ngài quả thật là hiện đại và sự
quan tâm chính của ngài là giải phóng con người ngay trong đời sống và
không hứa hẹn một thiên đàng sau khi chết.” (3)
Mặc dù Tiến sĩ Ambedkar không viết nhiều về Phật giáo và mặc dù ông bận
tâm với việc nhổ tận rễ chế độ giai cấp và tiện dân ở Ấn độ, những điều
nầy không ngăn cản chúng ta nghiên cứu những tác phẩm của ông. Ông đã
có những suy nghĩ rất sâu sắc về Phật giáo trong thế giới hiện đại, và
tư tưởng của ông, nếu nghiên cứu đầy đủ, có thể gợi ý cho chúng ta trong
việc đi tìm phương pháp thực hành và truyền đạt Giáo pháp có hiệu quả
trong ngôi làng toàn cầu.
Kết Luận
Phật giáo đã luôn luôn có ảnh hưởng sâu xa trên xã hội nó được chấp
nhận. Gần đây hơn đối với việc Tiến sĩ Ambedkar quy y Phật giáo, chính
sách về Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia của chinh phủ hoàng gia Bhutan và sự
quan tâm và phát triển Phật giáo ở Tây phương chứng minh rằng Giáo pháp
của đức Phật vẫn còn sống động và sáng tạo về mặt xã hội cho đến ngày
nay, sau khi được nói lần đầu 2500 năm về trước.
Nghiên cứu những đường lối để áp dụng những nguyên lý Phật giáo vào
hệ thống giáo dục không những sẽ giúp việc giáo dục có hiệu quả hơn
trong việc tạo nên những quan điểm xã hội tích cực, cho phép sử dụng
những điều tốt nhất mà thế giới hiện đại cung cấp và loại trừ những thứ
không có ích, mà còn cho phép con người sử dụng tốt nhất những tài
nguyên khác như môi trường và sự điều hành tốt đất nước. Không phải là
giáo dục không đựợc ảnh hưởng bởi Giáo pháp trong những quốc gia Phật
giáo trong quá khứ.
Tuy nhiên, cho đến thời gian gần đây,
giáo dục vẫn còn bị giới hạn trong một số khu vực dân chúng. Ngày nay,
vì nền giáo dục phổ thông được chấp nhận khắp nơi, những lợi ích có thể
có từ ảnh hưởng của Phật giáo trên giáo dục sẽ lớn lao hơn nhiều.
Những nguyên lý nền tảng của Phật giáo không chỉ thích hợp cho thế
giới Phật giáo; trong lãnh vực thế tục và nhân đạo, những nguyên lý đó
còn có thể được áp dụng cho thế giới rộng lớn hơn, nơi có quá nhiều sự
bất ổn về đạo đức trong giáo dục. Mặt khác, gương mẫu là phương tiện
tốt nhất để khuyến khích người khác. Hy vọng rằng những quốc gia với
truyền thống Phật giáo lâu đời sẽ coi trọng tài sản lớn lao của mình,
tìm những con đường để làm phong phú nền giáo dục với những nguyên lý
Phật giáo, và đặt ưu tiên cho giáo dục bằng nguồn tài nguyên có sẵn.
Thị Giới (dịch)
Theo The Centrality of Buddhism and
Education in Developing Gross National Happiness.
Chú thích:
(1) Lyonpo Jigme Y. Thinley, Values and Development: Gross National
Happiness in Gross National Happiness, p. 17-18, Centre For Bhutan
Studies, 1999, Thimpu.
(2) Yết Lạp Ma Kinh (Kàlàma Sutta.)
(3) D.C. Ahir, Dr. Ambedkar on Buddhism, p 27-8, Peoples’ Education
Society, 1982, Bombay.