Từ buổi bình minh, khi Phật giáo Nam Tông ăn sâu, lan tỏa vào cộng đồng thì tập tục “con trai vào Chùa tu” của
người Khmer Nam Bộ cũng đã ra đời từ đó. Tập tục thể hiện tín ngưỡng,
truyền thống văn hóa sâu sắc - đi tu nhằm thụ hưởng những huyền vi Phật
pháp để tu nhân thành người hoàn thiện trong mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên và xã hội.
Trên tổng thể, trong các tôn giáo có mặt ở Đồng bằng sông Cửu Long,
Nam Bộ từ xưa đến nay dường như chưa có một tôn giáo nào có sự quy định
“con trai lớn lên phải vào chùa tu” như thế, ngay cả trong
đạo Phật nói chung cũng không có quy định này (?!). Có chăng chỉ mang
tính cá biệt, cá nhân, hoặc chứa đựng một ý nghĩa khác, hoặc đi tu để
trút bỏ phiền muộn nhân thế, chưa trở thành một tập tục.
Chính từ nét đặc thù trên, ngoài việc nghiên cứu hiện tượng “Tập tục con trai vào chùa tu”
của người Khmer dưới góc độ tôn giáo cũng cần tiếp cận ở phương diện
giáo dục học, để thấy rõ tiến trình phát triển lịch sử - văn hoá của
cộng đồng dân tộc. Trong giới hạn, người viết không đi tìm nguồn gốc
hình thành tập tục, hay tuần tự “bước hành trình” của người
con trai từ nhà đến chùa, mà chỉ xét bản chất, ý nghĩa của hiện tượng
(tập tục) trong vai trò giáo dục tri thức, đạo đức, nhân cách cho mỗi
cá thể con người trong đời sống cá nhân và cộng đồng; xem xét mối tương
quan về nội dung, phương pháp giáo dục của tập tục với đặc trưng nội
dung, hình thức, quan niệm trong nền giáo dục hiện nay.
Đề cập vấn đề văn hoá dân tộc không thể không nói đến truyền thống
dân tộc, đó là những giá trị quy tồn xã hội, ổn định - phát triển theo
chiều dài lịch sử; giá trị được đúc kết thành khuôn thước thể hiện dưới
dạng phong tục, luật tục, có sự thống nhất chung của cộng đồng. Nói
đến truyền thống của cộng đồng dân tộc Việt Nam dù có những nét khác
nhau, chung quy, đó là sự hiếu kính, coi trọng đạo đức, tri thức - lòng
nhân ái, yêu chuộng cái đẹp, cái cao cả... Để đạt được những giá trị
nhân văn đó, đòi hỏi mỗi cá nhân phải tắm mình trong một, hay nhiều
phương pháp giáo dục chuyên biệt. Tuỳ vào giai đoạn lịch sử, dân tộc,
đặc trưng vùng, miền có những đặc trưng riêng.
Phương pháp giáo dục bằng hình thức “con trai vào chùa tu”
xuất phát từ giai thoại mang đậm giá trị nhân văn, tôn giáo: có một
người con trong gia đình (Khmer), cha mất sớm, mẹ mưu sinh bằng nghề đi
săn bắt thú. Thấy việc làm của mẹ sát sinh nhiều muôn vật, gây nhiều
oan nghiệp, người con đã lén trốn mẹ lên chùa tu, mong rửa sạch nghiệp
chướng cho mẹ. Khi bà chết, dù tội lỗi nặng nề nhưng vẫn không bị báo
oán, vì đức hạnh của người con đã hoá giải tội nghiệp cho mẹ...
Không bàn đến tính chất thực hư giai thoại mà tìm giá trị của giai
thoại. Từ truyền thống hiếu kính, tôn trọng giá trị đạo đức nên việc ra
đời, tồn tại một giai thoại để đáp ứng yêu cầu giáo dục xã hội hoàn
toàn hợp đạo, đời.
Xưa, cuộc sống người dân còn nhiều khó khăn nhưng ý thức về giáo dục
tri thức, cái đẹp, cái thẩm mỹ của người Khmer Nam Bộ đã sớm hình
thành. Do điều kiện xã hội hợp cùng quan niệm tâm linh tôn giáo, họ
nhận ra rằng, ngôi Chùa là nơi tựu trung giá trị cao đẹp của cuộc sống,
của Phật pháp, gắn liền với việc giáo huấn nghiêm túc, không gian giáo
dục thanh khiết... Vì lẽ đó nên ngôi Chùa sớm trở thành “ngôi trường” quan
trọng đầu tiên đảm trách chức năng giáo dục trí (ở một giới hạn nào đó
của nền giáo dục cổ điển – Phật học) - chân - thiện - mỹ cho nam thanh
niên Khmer. Vấn đề chọn Chùa là hoàn toàn phù hợp giữa quan niệm tôn
giáo và quan niệm giáo dục. Sớm nhận thức được điều này, chứng tỏ rằng
người Khmer Nam Bộ đã quan tâm vấn đề giáo dục từ rất sớm – một hình
thức giáo dục tuy sơ khai nhưng có nhiều giá trị : giáo dục giáo lý tôn
giáo gắn liền với giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, giáo dục kỹ năng
sống.
Dù là tập tục quy định “con trai lớn lên phải vào chùa tu”, nhưng không phải vì thế mà môi trường giáo dục nơi Chùa lỏng lẻo, “vào, ra”
tuỳ tiện, người đến tuổi (thường là 12 tuổi, hoặc có thể sớm hơn) muốn
vào tu phải trải qua một vài thử thách nhằm rèn luyện tính kiên nhẫn,
chịu đựng gian khổ mới được chấp nhận. Người đi tu phải thực hiện
nghiêm giới luật, nội quy nơi Chùa, giáo lý Phật pháp, đặc biệt, phải
luôn nghe theo lời dạy bảo của “thầy” - Trụ trì và các Sư sãi,
Chư tăng. Qua đó thấy rằng, phương pháp giáo dục ở Chùa luôn phù hợp
với một nhu cầu nhất định của cộng đồng - xã hội là nhằm đào tạo con
người có đầy đủ nhân cách đạo đức, con người biết tuân thủ những quy
định, sống vì con người, con người hài hoà với những mối quan hệ đa
dạng, không tồn tại một cái riêng rẽ mang sắc thái cá nhân tự phát, ích
kỷ. Sở dĩ thực hiện được điều đó, vì hoàn cảnh sống, môi trường sống,
học tập trong Chùa đã làm cho những người đi “tu – học” cảm thụ được vấn đề “cái đẹp, cái chân lý”
của Phật pháp và từ người trực tiếp giáo dục - sự gương mẫu, khiến họ
tiến bước xa hơn là tự giáo dục ở chính bản thân mình - nét đẹp tương
quan với giáo dục hiện đại => quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Xuất phát từ giai thoại đi tu báo hiếu cha mẹ, nhưng điều chính yếu
và ý nghĩa bao hàm nhất không phải là tu trở thành Phật mà tu để thành
người. Quan niệm này chảy dọc theo suốt lịch sử của tập tục; tu - giáo
dục cho thanh niên có đủ tư cách đạo đức, kiến thức nhất định về cuộc
sống, lòng thương người thương dân tộc, biết kiên nhẫn và vượt lên hoàn
cảnh, không phạm phải những điều sai lầm, tội lỗi. Từ yêu cầu cấp
thiết đó, việc xây dựng một hệ thống bài học, nội dung giáo dục vừa đảm
bảo được nhu cầu xã hội vừa mang đậm ý nghĩa tôn giáo là hết sức quan
trọng và cần thiết. Với đặc trưng giáo lý Phật giáo Nam Tông, sự thông
thái của các nhà Sư, đã hoàn thành một “bài học vỡ lòng” hợp “đạo, đời”, mà người thanh niên nào mới nhập tu cũng phải thuộc lòng, thực hiện trước thực tế hàng ngày. “Bài học vỡ lòng” thể
hiện qua mười giới điều căn bản: 1. Không sát sinh, 2. Không trộm cắp,
3. Không tà dâm, 4. Không nói dối, 5. Không uống rượu, 6. Không ăn
ngoài bữa, 7. Không xem múa hát, 8. Không dùng đồ trang sức, 9.Không
chiếm ghế cao và giường êm, 10. Không đụng đến vàng bạc.
Trong mối tương quan với giáo dục hiện đại, có thể quy 10 điều trên về hai hướng sau:
- Nội dung giáo dục - rèn luyện đạo đức, lòng nhân ái, tính trung
thực và tôn trọng con người. Thể hiện qua: Không sát sinh, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không chiếm ghế cao
và giường êm, không dụng đến vàng bạc.
- Nội dung giáo dục - rèn luyện tính cách con người có khả năng chịu
đựng hoàn cảnh, chịu đựng thách thức giữa hai mặt cuộc sống, hoặc một
sự ràng buộc không một lý do nào. Thể hiện qua: Không uống rượu, không
ăn ngoài bữa, không xem múa hát, không dùng đồ trang sức, không chiếm
ghế cao và giường êm, không đụng đến vàng bạc.
So sánh sự tương thích giữa nền giáo dục cổ điển (chùa) và hiện đại (trường) thì “bài học vỡ lòng”
này ở một chừng mực nhất định, bước đầu giải quyết được 3 trong 5
nhiệm vụ của giáo dục hiện đại: Giáo dục trí tuệ, Giáo dục đạo đức,
Giáo dục thẩm mỹ.
Tuy phương pháp, nội dung giáo dục xuất phát từ tín ngưỡng tôn giáo nhưng không rơi vào khuynh hướng “triết lý vĩnh cửu”, “duy tâm chủ quan”, “siêu hình”. Con đường giáo dục và nhận thức chân lý không đặt nặng vấn đề “thế giới siêu nhiên”
mà luôn có sự hài hoà giữa con đường nhận thức tôn giáo và nhận thức
xã hội. Ở đây, có thể nhận thấy rằng, phương pháp giáo dục đề cao tính
kỷ luật tinh thần thông qua rèn luyện, giá trị giáo dục tập trung vào
hành vi kỷ luật, nhưng hệ thống kỷ luật không nhất mực cứng nhắc, nhất
thành bất biến, mà luôn có chỗ của sự tha thứ khi lầm lỗi. Với mục tiêu
giáo dục nhân cách - chân, thiện, mỹ nên vì một lý do nào đó người
thanh niên vào tu chưa đạt đến mức độ toàn thiện của giáo điều mà phạm
phải hành vi cấm thì luôn có sự dìu dắt theo phương pháp “lấy đức phục nhân”
=> mối quan hệ giữa người dạy và người học => quá trình giáo dục
có tính chất cá biệt (đối tượng giáo dục cá biệt) => mục đích nhằm
đạt đến sự hoàn thiện ở cá nhân. Chính cách thức giáo dục đó, khi làm
tròn nghĩa vụ “tu – học” nơi Chùa trở về đời sống thực tại,
người thanh niên rất được xã hội trọng dụng, tin tưởng. Ảnh hưởng dễ
thấy nhất của vấn đề được thể hiện rõ trong đời sống cá nhân - khi đến
tuổi lấy chồng, phụ nữ Khmer thường chọn người nào đã qua quá trình rèn
luyện, tu học ở Chùa, bởi những người này đã biết cách xây dựng một
lối sống tốt đẹp cho gia đình và dòng họ – xã hội.
Để thay đổi cho phù hợp với tình hình đời sống, mục tiêu giáo dục hiện đại “Giáo dục vì sự phát triển toàn diện ở mỗi con người”, nội
dung, hình thức và phương pháp giáo dục ở Chùa cũng đã thay đổi theo
cho phù hợp, thích ứng với nhu cầu xã hội mới. Từ thực tiễn đó, giáo
dục ở Chùa hiện nay tập trung giảng dạy thanh, thiếu niên đạt được một
trình độ cao hơn về nhận thức luận tự nhiên và xã hội. Có thể lấy nhu
cầu, mục đích của triết lý “Giáo dục vì sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân” trong mục tiêu chung nền giáo dục thế kỷ 21 khái quát sự thay đổi đó, xung quanh nội dung sau:
- Chùa thực hiện truyền dạy kiến thức chung, vững chắc, đạt chiều sâu
ở một số lĩnh vực: triết học, giáo lý Phật pháp; con đường nhận thức
luận giữa đạo và đời... như theo lời Phật dạy: “Dĩ bất biến ứng vạn biến” => lấy mục tiêu Đạo pháp - Dân tộc - CNXH làm lý tưởng duy nhất.
- Chùa giáo dục khả năng tư duy độc lập và phê phán trước những sự
vật, hiện tượng bên ngoài => người học phản biện, chống lại luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước về vấn
đề dân tộc, dân chủ trong đồng bào dân tộc.
- Chùa giáo dục cho người học hiểu biết chung về nhân loại, quốc gia
và bản thân => tình hình chính trị xã hội, trong và ngoài nước.
- Chùa tiếp tục giáo dục đạo đức, lương tâm và trách nhiệm => quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội theo chiều hướng tích cực.
- Có kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng sống trong một thế giới đa dạng, rộng mở và biến động => sau thời kỳ mãn “tu – học” ở Chùa về lại cuộc sống đời thường người học gánh vác, giải quyết mọi vấn đề cuộc sống cho cá nhân, gia đình, xã hội .
Giải quyết tốt mục tiêu này, việc đào tạo đội ngũ giáo viên - Sư sãi,
À cha được Chùa, Đảng - Nhà nước quan tâm. Hàng năm, Chùa phối hợp với
chính quyền, trường học thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức
Phật học, nắm vững tình hình chính trị, xã hội của đất nước; đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng; kiến thức khoa học phổ thông: chương
trình dạy tiếng Khmer - Pali, triết học, thơ ca, ngữ văn... để các vị
Sư - thầy truyền dạy lại cho thanh niên, đáp ứng nhu cầu giáo dục con
người mới cho xã hội mới. Hiện nay, nhiều nơi Chùa còn lồng ghép chương
trình dạy song ngữ Việt - Khmer, chương trình bổ túc văn hoá, ngoài
giờ học ở Chùa nhiều Chư tăng còn tranh thủ học thêm ngoại ngữ, tin học,
âm nhạc truyền thống... để tiếp cận với khoa học, đời sống hội nhập.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn trong tiếp thu kiến thức, tìm hiểu
văn hoá, văn minh, Đảng - Nhà nước cùng các vị Sư sãi, À cha tổ chức
biên soạn sách giáo lý nhà Phật phục vụ cộng đồng, thanh thiếu niên “tu – học”.
Dịch, biên soạn, biên khảo, in ấn nhiều tài liệu, sách, báo về các
lĩnh vực đời sống xã hội, phổ biến trong vùng dân tộc, Chùa phục vụ Sư
sãi, Chư tăng học tập, nghiên cứu, bà con lao động sản xuất.
Từ việc đổi mới phương pháp, nội dung giáo dục, dẫn đến sự đổi mới
trong quy định về thời gian, độ tuổi vào Chùa tu của thanh niên, để dễ
dàng tiếp thu tri thức, giáo lý nhà Phật; việc giảng dạy của Sư sãi, À
cha đi vào chiều sâu. Nếu trước kia thanh, thiếu niên đến 12 tuổi (hoặc
nhỏ hơn) vào Chùa “tu – học”, thì hiện nay ở độ tuổi này
thanh, thiếu niên vào trường học, hoàn thành xong chương trình giáo dục
phổ thông mới vào Chùa tu; hay vẫn theo học cao hơn và vào tu trong
một thời gian nào đó thuận lợi để làm tròn nghi thức dòng đời.
Trong tương lai, tập tục “con trai vào Chùa tu” càng được
phát huy, phát triển, bảo tồn giá trị truyền thống văn hoá, tín ngưỡng
tâm linh. Và cũng trong thời kỳ hội nhập toàn diện hiện nay, với tinh
thần “dung hợp”, hài hoà giữa “người và người”, “người và xã hội”
thì phương pháp, nội dung giáo dục ở Chùa cho thanh, thiếu vẫn còn
thay đổi theo một hướng mới => khoa học, văn minh, phát dương quang
đại tinh thần cao cả của Phật học; lấy lý tưởng phấn đấu, yêu cầu chính
đáng, hiện thực, hài hòa giữa vật chất và ý thức (văn hóa, ý thức
hệ...) của người “tu – học" làm con đường hướng tới => cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, “nhà nhà hạnh phúc, ấm no; đất nước thịnh trị hoà bình...”. Đó
là những điều mà các Cao tăng, chức sắc tôn giáo ở Chùa luôn mong
muốn, đã, đang và sẽ thực hiện; để Phật - Chùa tiếp tục trở thành “linh hồn” dân tộc; Sư sãi - Chư tăng là biểu tượng dân tộc; tập tục “con trai vào Chùa tu” mãi mãi là truyền thống văn hoá - lịch sử giàu ý nghĩa nhân văn, nét đặc thù riêng của dân tộc...
Vì tập tục giàu giá trị nhân văn, ý nghĩa tôn giáo, có sức ảnh hưởng
sâu sắc về nhiều mặt trong hệ thống cấu trúc đời sống cộng đồng nên rất
cần sự quan tâm hơn nữa từ Đảng, Nhà nước trong việc gìn giữ, phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc. Phối hợp, tăng cường đào tạo một đội ngũ giáo
viên - Sư sãi, Chư tăng có trình độ chuyên môn cao về một hay nhiều
lĩnh vực đời sống xã hội (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội), đảm nhận
tốt việc truyền thụ kiến thức cho người học. Phối hợp, thiết lập một
chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo hoàn chỉnh - chương trình
kiến thức chuẩn áp dụng chung cho việc “tu – học” của thanh, thiếu niên ở các Chùa, thay vì phải dạy theo một nội dung, phương pháp “tự phát” như hiện nay. Vai trò của Chùa đối với dòng đời của người Khmer Nam Bộ rất quan trọng – “sống” ở chùa, “chết” cũng về Chùa, cộng với tập tục “con trai vào Chùa tu”,
vì vậy, chúng ta có thể nghiên cứu xây dựng Chùa trở thành một ngôi
trường giáo dục chính quy thật sự ở vùng còn khó khăn, làm hạn chế việc
nghỉ học của con em Khmer, giáo dục xóa mù chữ ở hai loại hình ngôn
ngữ Việt – Khmer cho các đối tượng, hoặc hỗ trợ gia đình nghèo không có
điều kiện cho con em đi học.
Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng một hệ thống giáo dục nghề phổ thông ở
những Chùa trọng điểm, đào tạo nghề cho con em lở dở hành trình học,
hoặc không có điều kiện học tiếp. Sau khi hoàn thành khoá “tu –học” thanh, thiếu niên về lại đời thường cũng có nghề nghiệp, tự lo cho đời sống cá nhân, gia đình.
Nhưng, xây dựng một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh khi lấy Chùa làm
trung tâm cũng nên tính đến những vấn đề về truyền thống văn hoá, tâm
linh, tránh tình trạng thiết lập được mục tiêu này thì lo tái tạo lại
giá trị (mục tiêu) khác.../.
Theo Liểu Ngọc Ân - VHNA