Mười tiêu chuẩn của một đời sống lý tưởng và điều kiện thực hiện
Thích Nhật Tuệ - (Theo kinh Bộ Tăng Chi III (A.v 135), trang 423 , bản dịch của HT. Thích Minh Châu, 1988)
31/01/2011 21:58 (GMT+7)

Mục đích chung của cuộc sống là hướng tới hạnh phúc và cảm thọ hạnh phúc. Vấn đề cảm thọ hạnh phúc là kết quả của một quá trình sống đầy nỗ lực với những hành vi chân chánh, thiện ích. Nó không thể là một sự ngẫu hợp tự nhiên, lại càng không phải là do một sự chiếu cố ban ơn nào đó từ một thế lực siêu nhân ngoài vũ trụ, mà chỉ có thể là do chính bàn tay và khối óc khôn ngoan của con người trong nhu cầu và cuộc sống chân chánh đem lại.

Nói đến tiêu chuẩn về hạnh phúc thì không thể có một chuẩn mực đồng nhất từ nhiều quan điểm của các học thuyết và tôn giáo. Bởi lẽ, một nền học thuyết, dù của ai, cũng đều có nền tảng và cơ sở riêng biệt của nó để đưa ra một mức chuẩn hạnh phúc. Đó không chỉ là sự khác nhau trong quan điểm nhận thức mà thực chất còn là sự khác biệt mang đặc thù về quan điểm nhận thức và nhất là những hành động và phương châm sống được biểu hiện cụ thể trong quá trình thực hiện các quan điểm hạnh phúc giữa các học thuyết và tôn giáo. Ở đây chúng tôi không đi sâu vào lãnh vực so sánh, đối chiếu mà chỉ thuần túy trình bày về một đời sống lý tưởng bao gồm những tiêu chuẩn và những điều kiện cũng như các mặt đối lập để cấu thành một đời sống lý tưởng hoặc phá hủy đời sống lý tưởng ấy.

Trong một nhu cầu cảm thọ hạnh phúc chung nhất của toàn nhân loại, Đạo Phật đã đưa ra mười tiêu chuẩn để xác nhận một đời sống được gọi là lý tưởng và hạnh phúc trong sự tuyệt đối có thể đạt được từ cuộc sống vốn tương đối, đó là : tài sản, khả lạc, khả hỷ, khả ý, dung sắc… không bệnh… có giới đức… có phạm hạnh… là người thiện chí cho bạn bè… nhiều kiến thức… có trí tuệ… thông các pháp… và thiên giới…

Điều quan yếu trong mười tiêu chuẩn này là các yếu tố "khả lạc, khả hỷ, khả ý" đi sau các tiêu chuẩn.

1. Tiêu chuẩn về tài sản khả lạc, khả hỷ, khả ý :

Tài sản ở đây tức là sự sở hữu về đời sống vật chất được xây dựng trên cơ sở do tháo vát tinh tấn thâu hoạch được, do sức mạnh bàn tay cất chứa được, do mồ hôi đổ ra đúng phép và thu hoạch đúng phép (Tăng III.A.iv, 281) – một thứ tài sản sở hữu quyền có được từ một cuộc sống chánh nghiệp và chánh mạng. Đó chính là điểm cụ thể và đặc sắc mà Phật giáo đã dạy cho con người trong việc mưu cầu đời sống hạnh phúc cho mình, gia đình mình và quốc gia mình. Dù cho có làm một nhà đại phú sản, nhưng nếu sở hữu quyền này không được tạo ra từ sự nỗ lực làm ăn hợp pháp của mình thì đấy cũng chỉ là những tài sản phi pháp không đáng có mà kinh Phật thường ví với năm thứ tài sản dễ bị hư mất bởi : nhà nước tịch thu, hỏa hoạn, thiêu đốt, lũ lụt cuốn trôi, kẻ xấu cướp đoạt, và con cái phá hoại. Những thứ tài sản này mặc dù là sở hữu quyền của một sở hữu chủ nào đó nhưng vẫn không thể là một thứ tài sản khả lạc, khả hỷ và khả ý được – đúng hơn là những tài sản mà người có phải thắc thỏm lo âu bởi bất kỳ một truy tố hoặc kiểm soát nào.

Nếu như sự tháo vát tinh cần và sáng suốt trong làm ăn hợp pháp đem lại sự phú hữu cho đời sống vật chất của con người, thì thái độ "thụ động và không hăng hái" chính là kẻ thù nguy hại nhất để phá hủy tất cả những thứ ấy. Một cuộc sống đầy đủ và giàu sang không thể là một cuộc sống của thụ động và lười biếng. Người ta cần phải nỗ lực phấn đấu hết mình để vươn lên trong làm ăn, mới là nhân tố quyết định thành công trong cuộc sống.

2. Tiêu chuẩn về dung sắc, khả lạc, khả hỷ và khả ý :

Mặc dù chủ trương xem trọng đạo đức luân lý nhân bản, nhưng đạo Phật vẫn không xem thường yếu tố ngoại hình của con người, mà yếu tố này có được từ sự thực hành đạo đức trong quá khứ hay ở hiện tại. Dung sắc của con người không phải tự dưng mà có – sự khác biệt về màu da, về chiều kích, về thân thể con người giữa các giống người trên toàn cầu đều có nguyên nhân xa và gần của nó. Gần là do di truyền gen của tổ tiên cha mẹ, mà xa là do đời sống đạo đức hoặc phi đạo đức ở quá khứ đã âm thầm quyết định sự khác biệt về dung sắc và thân thể của con người với con người, mà ảnh hưởng của gen di truyền thực chất chỉ là kết quả từ những hành vi thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp đã chiêu cảm. Sự tương xứng giữa một nhân gieo ở quá khứ và quả kết tựu ở hiện tại trong luật nhân quả Phật giáo không phải là một định mệnh. Nó chỉ là sự đồng dạng hoặc đồng tính chất của nguyên nhân và kết quả mà thôi.

Khi sanh ra đã có một dung sắc kiều diễm khả ái, khả lạc, khả hỷ…. mà ở một người có cuộc sống quá khứ khác nhau về nghiệp nhân không thể có được – phần lớn là do gieo nhân bố thí hoặc bảo vệ vô điều kiện dung sắc cho người khác… ở quá khứ, và gần là ở hiện tại biết chăm sóc thẩm mỹ chính mình bằng các phương pháp luyện tập thích hợp. Do đó Đức Phật đã nói kẻ thù của dung sắc khả lạc, khả hỷ, khả ý là "không trang sức,không tô điểm và không biết bố thí".

3. Tiêu chuẩn về một thân thể không bệnh khả lạc, khả ý :

Thân thể không bệnh là một thân thể tráng kiện, không hoặc rất ít khi bị thời tiết làm mệt hay khó chịu, đau đớn. Hạnh phúc khó có thể toàn diện ở một con người dù là giàu có, nếu có một thân thể nhược yếu hoặc luôn bệnh tật. Tâm lý thông thường nhưng cũng là phổ biến là mọi người đều thích có một cuộc sống ít bệnh hơn là giàu mà ốm yếu. Bệnh tật và ốm yếu làm con người đau khổ, phiền muộn ; và nỗi hân hoan hạnh phúc thường có ở người tráng kiện. Tuy nhiên, Đức Phật cũng dạy chúng ta không nên quá cực đoan mong mỏi thân thể khôngbệnh hoạn, vì điều đó sẽ dễ sanh ở chúng ta một tâm lý kiêu ngạo. Hãy cứ trau dồi có phương pháp về thể lực, đừng mong mỏi gì cả, thân thể ta vẫn tráng kiện như thường. Cũng nên biết tôn trọng sự sống của con người và các loài động vật bằng cách bảo vệ hoà bình và bảo vệ môi sinh công cộng. Không vô cớ xâm đoạt hoặc đả thương một ai, nếu người đó là con người tốt,đúng nghĩa. Phải thực hiện bằng một cuộc sống "hoạt động thân thể thích hợp, và tôn trọng sự sống của kẻ khác" sẽ là những nhân tố quyết định và duy trì một thân thể tráng kiện.

4. Tiêu chuẩn về nếp sống có giới đức – khả lạc, khả hỷ :

Nếu như ở ba tiêu chuẩn đầu chỉ đề cập đến một cuộc sống đầy đủ tiện nghi và vật chất, tráng kiện về thân thể, đẹp đẽ và khả ái về ngoại hình thì đến tiêu chuẩn thứ tư này đề cao về đời sống tinh thần theo chiều đạo đức hướng thượng của con người. Thật vậy, mỗi con người mà ở nó đầy dẫy những thói hư tật xấu như trộm cướp, giết chóc, tà hạnh trong các dục hạ liệt , lừa gạt man trá và rượu chè hoặc sử dụng các chất kích thích không tốt… không thể là một mẫu người lý tưởng cho xã hội, mặc dù ở nó có đẹp đẽ, khoẻ mạnh và giàu có, nhưng chỉ có thể là một mẫu người mà xã hội loài người lên án, xa lánh hoặc cần thiết phải cải tạo để nó khắc phục.

Hoàn cảnh môi trường và điều kiện sống rất dễ tác động đến hành vi và ý tưởng con người. Nếu như lập trường ta không vững mà lại thường xuyên giao hữu thân cận với các ác hữu hoặc những người có đời sống đạo đức sa sút, sẽ dễ tập tành cho chúng ta những thói hư tật xấu. Cần phải trau dồi tư cách con người chính mình bằng các hành vi thực tiễn có ích cho xã hội hoặc thân cận học hỏi những tấm gương đạo đức cao cả của các bậc tiền bối, của các vĩ nhân, của những con người đã hoàn thiện nhân cách. Hãy nên nhớ :"Ác bằng hữu, môi trường sống bất thiện là hai chướng ngại vật cho giới đức".

5. Tiêu chuẩn về nếp sống phạm hạnh – khả lạc, khả ý :

Phạm hạnh là kết tinh của nếp sống đạo đức với những hành vi thiện ích. Phạm hạnh là kết quả của một đời sống thuần thiện. Phạm hạnh là nếp sống có được sau nếp sống giới đức. Người có phạm hạnh là người đã toàn hảo về giới. Nhưng có điều giới ở đây được đề cập với phạm vi rộng hơn – người gọi là phạm hạnh là người không có các nếp sống đồi trụy, sa đọa như tham lam, trộm cướp, giết chóc, tà hạnh, điêu ngoa, gian trá, đam mê rượu và các độc tố kích thích, và còn là người đã hoàn toàn đoạn tận sức sống của ái luyến. Ở con người phạm hạnh, tình thương không núp dưới chiêu bài hẹp hòi của tình ái nam nữ, của tình yêu bản thân, gia đình, mà là một thứ tình cảm từ bi vô duyên (vì toàn thể) – một thứ tình thương vô kỷ, vị tha đầy chất Trí và Dũng.

Sống buông thả và say đắm ngũ dục hạ liệt sẽ phá hủy sự kết tinh của phạm hạnh. Luôn biết sống tiết chế trong ăn uống, ngủ nghỉ, không tham cầu hưởng thọ và phòng giữ tâm ý và các quan năng cảm giác – không để chúng rong ruổi các đối tượng (sáu trần) mà phải luôn sống trong chánh niệm, tỉnh thức để phạm hạnh được trọn vẹn. Tiêu chuẩn đời sống lý tưởng này đã vượt ngoài phạm vi con người nhân bản, đi vào lãnh vực con người siêu phạm – Thánh nhân tuyệt dục.

6.Tiêu chuẩn về người thiện chí cho bạn bè – khả lạc, khả hỷ, khả ý :

Nếu như ở tiêu chuẩn 4, đời sống hạnh phúc lý tưởng có được của con người là lo trau giồi nhân cách và xa lánh những bạn bè, những môi trường có đời sống đạo đức thấp kém để tránh ảnh hưởng không tốt có thể đem lại, thì ở tiêu chuẩn 6 này, Đức Phật dạy con người lý tưởng còn là con người sau khi hoàn thiện chính mình rồi còn hoàn thiện cho tha nhân và bạn bè . Hoàn thiện cho chính mình thôi chưa đủ, chỉ là lý tưởng của một chủ nghĩa cá nhân hoàn thiện –chưa phải là mục đích cuối cùng của cuộc sống . Con người sống không chỉ là một mình, thế nên hoàn thiện nhân cách cũng cần nên có mặt với sự toàn diện cho toàn nhân loại . Nguyên tắc này vô cùng có lợi cho xã hội được thiết chế trên một tinh thần mang tính nhân bản cộng đồng . Nó là mẫu xã hội lý tưởng của một cộng đồng nhân loại lý tưởng nếu như ai cũng sống với tinh thần tương thân tương trợ để cùng toàn thiện . Nhưng dù sao tác dụng ít ỏi mấy đi nữa của lối sống lý tưởng này vẫn là một điều cần thiết cho bất kỳ một ai đang hiện hữu và sống trong một cộng đồng nhân loại chưa hoàn thiện với nhiều phần tử được hợp thức hoá chiếu cố và nâng đỡ .

Hãy buông xả những tâm lý, xấu xa ra khỏi con người của mình, hãy là yếu tố cho nhau, hoàn thiện cho nhau với những đức tính thẳng thắn trung thực không lừa dối.. và chia sẻ để cùng nhau tiến hoá .

7.Tiêu chuẩn về nhiều kiến thức khả lạc, khả ý :

Phật giáo luôn dạy con người phải hoàn thiện chính mình trên cơ sở học hỏi và trau dồi kiến thức . Xã hội chung quanh ta luôn phát triển với nhiều phát minh khoa học hiện đại . Con người xã hội phải hoà mình trong nhịp tiến chung của toàn cầu để nắm bắt hàng nguồn thông tin kiến thức . Không luôn luôn trau giồi học hỏi thêm mà chỉ biết thoả mãn với những gì đạt được, được xem là một sự thối bộ, trong ý nghĩa tuyệt đối . Những thành quả đạt được của ngày hôm nay sẽ là lạc hậu nếu như chúng ta chỉ biết an phận mãi mãi tại đó . Tiềm năng tri thức con người là vô hạn, biết khai thác đúng lúc, đúng mức, ta sẽ trở thành toàn trí như các bậc A La Hán, Bồ tát và Phật đã toàn tri . Có một tấm gương rất đáng để chúng ta học hỏi là các vị Thánh Thanh văn, A la hán vẫn còn phải trau giồi học hỏi thêm hạnh Bồ tát để thành Bồ tát trong tương lai và các Bồ tát luôn phấn đấu để thành Phật –bậc tuệ giác viên mãn, ngay cả bản thân Đức Phật luôn sống với sự giáo hoá chúng sanh và làm lợi ích cho sanh loại . Các vị A la hán không an phận ở Hoá thành mà phải vươn tới Bảo sở, và tất cả chúng ta cũng không thể an phận với sự an phận của một gã cùng tử tha phương cầu thực, đặng chút ít cho là đủ, mà phải là "ông trưởng giả"iàu có . Do đó, "không học hỏi, không tu tập luôn luôn sẽ làm trở ngại cho kiến thức và tu chứng", mà không một ai được quyền dừng lại, nếu muốn có một đời sống lý tưởng nhất .

8.Tiêu chuẩn về trí tuệ khả lạc, khả hỷ, khả ý :

Theo đạo Phật, hạnh phúc không chỉ đơn thuần một chiều ở của cải vật chất, hưởng thụ vật chất mà còn là tinh thần, trau giồi tinh thần, nhưng là tính trau giồi tinh thần, nhưng là tinh thần của thẩm mỹ đạo đức . Một con người toàn diện, lý tưởng phải là người trước nhất trọn vẹn về thẩm mỹ đạo đức tinh thần; và sau là giàu có về đời sống vật chất có thể bỏ qua nhưng yếu tố đầy đủ thẩm mỹ đạo đức tinh thần là không thể thiếu ở một con người toàn diện . Thật ra, theo đạo Phật trí tuệ của con người là kết quả của quá trình tu tập sau khi nghe và tư duy kiểm nghiệm (văn-tư-tu) hoặc nó còn là kết quả đạt được do tu tập thiền định, gạn lọc tâm ý- bỏ những tâm ý xấu, bất thiện ra khỏi con người, chỉ để lại những tâm ý tốt, tiện lợi cho đời sống tâm linh . Do đó trí tuệ cũng chính là kết quả kết tinh của giới –định –tuệ . Trong chiều kích tuyệt đối, trí tuệ là những gì siêu tuyệt hơn nhiều so với kiến thức . Một con người có đầy đủ kiến thức cũng đã là một người giàu có về tinh thần trong cuộc sống, nhưng người có trí tuệ hẳn sẽ là một người giàu có về tinh thần, nhưng lại giàu có hơn tất cả hệ thống kiến thức . Kiến thức đứng về mặt thế gian nhiều hơn, và trí tuệ thuộc về siêu thế . tuy nhiên, để có được trí tuệ này cũng đâu có khó khăn gì như đã nói . Hoặc ta có thể nói đơn giản mà súc tích :"Khéo nghe, biết hỏi và khéo tu tập là thức ăn cho trí tuệ".

9.Tiêu chuẩn về rõ biết thực tướng các pháp - khả lạc, khả ý :

Pháp (Dhamma) trong ý nghĩa chung nhất của thuật ngữ Phật giáo bao gồm sáu phạm trù (giáo pháp, chân lý, quy luật, khái niệm, hiện tượng và sự vật) . Nhưng pháp trong tiêu chuẩn ở đây là chỉ chung cho mọi sự vật hiện tượng từ những phạm trù, hoặc khái niệm về vật chất cho đến các phạm trù tâm lý của một hữu thể con người . Rõ biết được thật tướng các pháp là rõ biết được bản chất sự biến thiên không ngừng của các hiện tượng tâm lý –vật lý . Tất cả mọi sự vật hiện tượng hiện hữu tuỳ thuộc nhân duyên, và tác động, chi phối qua lại lẫn nhau, không có vật tâm nào tồn tại một cách độc lập đơn điệu . Chúng tương sinh tương duyên theo một quy luật chung nhất :"Cái này có, cái kia có; cái này sanh, cái kia sanh . Cái này không, cái kia không; cái này diệt, cái kia diệt". Đó là quy luật tác hưởng nhân duyên đa chiều . Ngoài ra, đạo Phật còn dạy rõ một sự vật dù là tâm lý hay vật lý, từ lúc đó nhân duyên hình thành đến lúc đó nhân diệt hoại diệt, theo một chu kỳ diễn tiến : sanh- trụ-dị –diệt (vật thể), sanh- lão-bệnh- tử (con người), thành- trụ- hoại- không (thế giới và các tinh cầu) . Tuy nhiên có một điều khác biệt giữa nhân sinh quan và thế giới quan Phật giáo trong quan niệm này so với các học thuyết và tôn giáo khác ở chỗ là Đức Phật khẳng định :"Các pháp không tự sanh ra, không tự mất đi, hay đúng hơn là không một pháp nào là mất tuyệt hẳn mà chỉ chuyển biến sang một dạng thức vật chất hoặc tâm lý khác mà thôi".

Sự tan rã một hợp thể vật chất ở đây chính là nhân duyên để hội tụ một hợp thể vật chất mới ở một nơi khác . Con người tâm vật lý tan rã hợp thể ở đây không phải là mất hẳn mà là tiếp tục một cuộc tái sanh ở một hợp thể ngũ uẩn khác . Nhưng có điểm giống là dù hình dạng trước hay đã chuyển đổi ở dạng thức sau, nó vẫn theo tiến trình chung là sinh trụ dị diệt mà trong đó tất cả chỉ là một hợp thể nhân duyên luôn biến động : vô thường, vô ngã . Nắm rõ về quy luật vận hành biến thiên của thế giới khách quan của khách thể và của thế giới chủ thể nhận thức là con người, chúng ta sẽ sống an lạc, khả hỷ khả ý hơn . Do đó, Đức Phật dạy :"Không chú tâm, không quán sát là chướng ngại vật cho rõ biết thực tướng các pháp".

10.Tiêu chuẩn về đời sống thiên giới khả lạc, khả hỷ, khả ý :

Thiên giới là thế giới mà ở đó nếp sống thẩm mỹ đạo đức và nhu cầu về nó cao hơn hẳn con người . Tại đó, sự cảm thọ hạnh phúc và nhu cầu sinh hoạt vật chất rất sung mãn . Kinh Nikàya thường đề cập đến rất nhiều về họ với nhiều cuộc tiếp xúc giữa họ và Phật hay các Thánh đệ tử tại nước cổ Aᮠthời Phật . Sự hiện diện của họ chẳng đem lại sự ngạc nhiên từ chúng đệ tử đã giác ngộ so với óc tò mò muốn khám phá tìm hiểu của con người hôm nay, và nhất là các khoa học gia .

Thông thường, chúng ta cần tu tập học pháp 10 thiện nghiệp ở phạm vi bản thân như : không sát sinh, không cướp đoạt sở hữu quyền, không quan hệ tình dục bất chính, không nói sai sự thật, không nói lời ác độc, không nói lời chia rẽ, không nói lời phù phiếm, không tham lam, không giận dữ nóng nảy và không tà kiến . Mười thiện nghiệp này là điều kiện cơ bản để tái sanh về thiên giới . Ngoài ra, chúng ta cần thực hiện 10 thiện pháp này ở phạm vi có ích cho tha nhân, xã hội như : bảo vệ hoà bình, tôn trọng sự sống; bố thí sở hữu vật trong tinh thần giúp đỡ tự nguyện; tôn trọng hạnh phúc gia đình người khác; nói năng vì lợi ích cho đa số một cách chánh đáng; ngôn ngữ hoà nhã tự ái; ngôn ngữ mang tính đoàn kết, hợp quần, ngôn ngữ trung thực, không điêu ngoa; thực hành hạnh hỷ xả, độ lượng; đời sống từ bi trong trí dũng, không hận thù ân oán; đem đến chánh kiến giải thoát cho cộng đồng .

Ngoài ra, chúng ta cũng có thể phát triển thuần túy về thiền chỉ và thiền quán, trau dồi phạm hạnh, phát triển tu tập về tứ thiền : ly tham dục, tâm định tĩnh, xả hỷ lạc, xả niệm lạc, sau đó an trú tâm từ không hạn lượng với tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm . Nhân tố thiền định này quyết định một đời sống tương lai ở thiên giới . Tuỳ theo nhân tố tu tập mà kết quả của các thiên giới sẽ khác nhau, dĩ nhiên đời sống tinh thần và vật chất cũng sẽ khác nhau . Đó là những thành quả trong tương lai và ngay hiện tại người có đời sống đạo đức và giới đức như đã được kể sẽ là một con người mang tính thiên giới ở nhân gian; và không chỉ là một thiên giới nhân gian mà đích thực là một tịnh độ nhân gian khả lạc, khả hỷ, khả ý .

Nói chung, điều kiện của thiên giới là chánh hạnh, chánh nghiệp, chánh tinh tấn trong một sự nỗ lực phấn đấu không ngừng trong quá trình hoàn thiện nhân cách trong cuộc sống .

Đó là một mẫu về cuộc sống hạnh phúc, khả lạc, khả hỷ, khả ý mà đức Phật đã đề ra theo kinh điển Nikàya . Vấn đề không có gì là khó thực hiện, và đòi hỏi ở tâm quyết đạt được và tự phấn đấu trau dồi trong tinh tấn không thôi nghỉ . Một cuộc sống đạo đức, có thể nói là tiêu chuẩn nhất mà không một ai không mong muốn để vươn tới , Mục đích của cuộc sống là hạnh phúc và hưởng thọ hạnh phúc, nhưng hạnh phúc ở đây là một thứ hạnh phúc có được từ một cuộc sống do không ngừng trau dồi phạm hạnh và tự hoàn thiện nhân cách . Cuộc sống lý tưởng về mười tiêu chuẩn mà Đức Phật đã vạch ra cho con người là thực tiễn, là thiết yếu, là có thể tự thực hiện để đạt được chứ không là một chủ nghĩa không tưởng của lý tưởng ảo tưởng bất thật .

Vươn tới tiêu chuẩn này, một con người sẽ đúng và xứng đáng với nghĩa con người về hai mặt, một là trở thành một con người toàn diện về vật lý như thân thể cường tráng (tiêu chuẩn 2), dung sắc đẹp đẽ, hài hoà dễ mến (tiêu chuẩn 2); hai là trở thành một con người giàu có về tài sản, đời sống vật chất sung mãn hợp pháp (tiêu chuẩn 1); trọn vẹn về nhân cách về nếp sống đạo đức (tiêu chuẩn 4) . Xa hơn nữa là một con người với cốt cách đạo đức siêu phàm (tiêu chuẩn 5); là người biết học và học rộng nghe nhiều, phong phú kiến thức (tiêu chuẩn 7) thực sự có trí tuệ ,một thứ lý trí do tu tập văn tư tu, do tu tập thiền định (tiêu chuẩn 8), là người rõ được bản chất mọi sự vật hiện tượng từ tâm vật lý đến tâm sinh lý từ vũ trụ cho đến con người (tiêu chuẩn 9) , biết xây dựng thiên giới và tịnh độ tại nhân gian (tiêu chuẩn 10), và còn là một mẫu người lý tưởng có ích cho bạn bè cho tha nhân, cho xã hội hướng đến để cùng thực hiện cùng toàn thiện (tiêu chuẩn 6)

Source: Tư Tưởng Phật giáo (I), do Thích Nhật Từ biên tập, in lại trong Nguyệt san Giác Ngộ số 47 và 48

Các tin đã đăng: