Làm thế nào chúng ta hình thành
nên cách ứng dụng tốt nhất của sự tái sanh con người hoàn hảo này, cơ
thể con người quý giá mà chúng ta đã thừa hưởng chỉ trong một lần này?
Bằng cách nào chúng ta khiến nó có lợi ích nhất, không chỉ cho chúng ta
mà còn cho người khác, những chúng sanh quý giá nhất và cực kỳ quan
trọng? Giống như chúng ta, vô số những chúng sanh khác, mỗi một chúng
sanh đều có giá trị ngang nhau như chúng ta cảm nhận về mình, chỉ muốn
tìm kiếm hạnh phúc và không thích bất cứ đau khổ nào. Làm sao chúng ta
khiến cuộc sống của mình đem lại lợi ích cho họ? Đây là điều cốt yếu mà
chúng ta nên tự hỏi chính mình. Nếu chăm sóc người khác, làm việc vì
hạnh phúc cho người khác, thì tự nhiên chúng ta chăm sóc bản thân mình.
Nổ lực khiến người khác có hạnh phúc là cách tốt nhất để yêu thương
chính mình. Tương tự, nếu làm hại người khác, thì chúng ta sẽ làm hại
chính mình. Việc làm hại người khác sẽ không mang lại an vui và hạnh
phúc cho chúng ta, mà chỉ chuốc lấy đau buồn, khổ sở trong hiện tại và
tương lai. Mang lại hạnh phúc cho người khác là cách tốt nhất để mang
lại hạnh phúc cho chính mình; tự nhiên nó xuất hiện. Tiện thể, nó xảy
ra. Những gì chúng ta làm với mục đích mang lại hạnh phúc cho người khác
có tác dụng lợi ích trong tâm của mình. Ngược lại, nếu chúng ta hành
động hướng đến người khác với động lực thúc đẩy tiêu cực và gây hại cho
người khác, thì giống như những hành vi để lại những ảnh hưởng tiêu cực
trên sự duy trì của tâm thức. Sau đó, những ảnh hưởng này biểu hiện ra
bên ngoài như những hiện tượng phiền toái. Khi các giác quan chúng ta
tiếp xúc với những hiện tượng này, thì cảm giác khổ đau sanh khởi. Đây
là sự phát sinh các vấn đề trong cuộc sống của chúng ta; đây là cách mà
chúng bộc phát. Căn nguyên của chúng ở trong tâm của chúng ta với những ý
nghỉ tiêu cực. Kết quả cuối cùng là đau khổ mà chúng ta phải kinh qua,
trong đời này hoặc những đời sau.
Các hoạt động lành mạnh—hành
động tích cực, hành động đem lại lợi ích cho người khác, hành động được
thực hiện với từ bi, với tính chân thật, mang lại hạnh phúc cho người
khác—để lại những ảnh hưởng tích cực trên sự duy trì của tâm chúng ta.
Các điều này biểu lộ ra như những hiện tượng an vui. Khi các giác quan
chúng ta tiếp xúc với chúng, thì cảm giác hạnh phúc, thoải mái, thành
tựu—tất cả kinh nghiệm an vui mà chúng ta mong muốn—kết quả. Đây là sự
phát sanh của hạnh phúc, tất cả con đường dẫn đến giác ngộ. Đời sống
hạnh phúc hằng ngày, an vui và thanh nhàn—từ bây giờ cho đến giác
ngộ—kết quả đều bắt nguồn từ suy nghỉ tích cực, mục đích tích cực và
hành động tích cực.
Đó là lý do tại sao đức Phật của từ bi, đức Dalai Lama[1] (Đạt Lai Lạt Ma), thường nói rằng yếu thương người khác là cách tốt nhất để yêu thương chính mình.
Đức Dalai Lama gọi trí tuệ hoặc sự thông minh này là không mang tính
ích kỉ bởi vì như tôi đã đề cập đến ở trên, bằng cách thương yêu người
khác, không gây tác hại cho họ, đem lại lợi ích cho họ, tất cả những ước
muốn về hạnh phúc của chúng ta cả trong hiện tại và tương sẽ được hoàn
thành. Kinh nghiệm đã chứng minh rằng không chỉ hạnh phúc nhất thời mà
còn đi đến giác ngộ, một trạng thái hạnh phúc yêu thương tuyệt đối, sự
đạt được an vui và hạnh phúc hoàn hảo tối thượng, những kết quả có được
từ việc phục vụ người khác. Trong thực tế, chúng ta càng hiến mình cho
người khác, thì hạnh phúc của chúng ta càng sinh khởi dể dàng hơn và
nhanh hơn. Đây là sự phát sinh tự nhiên của hạnh phúc. Điều này có nghĩa
là sống một cuộc sống của từ bi. Do đó, đáp án cho câu hỏi làm thế nào
để ứng dụng cuộc sống của chúng ta tốt nhất chính là bằng cách sống với
từ bi và trí tuệ. Chỉ có từ bi cũng chưa đủ. Chúng ta cần phải phát
triển trí tuệ. Bằng cách nào để phát triển trí tuệ? Chúng ta không thể
có đượng trí tuệ từ việc sử dụng thuốc men hoặc chế độ ăn kiêng đặc biệt
hoặc bằng cách cấy ghép não của người hác vào trong đầu của mình hoặc
cấy ghép tim một ai đó vào lồng ngực của mình. Chúng ta chỉ có thể phát
triển trí tuệ thông qua nổ lực và thực tập thiền định của chính mình.
Trí tuệ đến từ việc lắng nghe những lời dạy chân chính rồi quán chiếu và
thiền định.
Do đó, chúng ta cần tiếp
nhận những lời dạy đúng đắn, đạt được hiểu biết đúng đắn, thực tập đúng
đắn, và như vậy đạt đến nhận thức thức đúng đắn. Điều này vô cùng quan
trọng. Theo cách đó, chúng ta không hoang phí đời mình, không đi theo
con đường sai lầm, và có thể hiểu rõ tiềm năng của đời sống của chúng ta
là vô hạn như bầu trời. Tất cả mọi chúng sanh đều mong muốn có hạnh
phúc và hoàn toàn thoát khỏi kgoor đau. Mục đích cuộc sống của chúng ta
là phải đem lại lợi ích cho tất cả họ càng nhiều càng tốt.
Hơn nữa, chúng ta phải học
cách phân tích và thiền định. Nếu chỉ đọc đơn thuốc thì không thể cứu
chữa được bệnh—người bệnh phải uống thuốc—chỉ hiểu biết theo trí óc về
những lời dạy là chưa đủ. Chúng ta phải thực tập.
Để chấm dứt tất cả những khổ đau—vòng xoáy của già, bệnh, chết, tái sanh và các vấn đề của trạng thái trung ấm [2]—chúng
ta cần chữa trị tâm bệnh của mình khiến nó hoàn toàn bình phục và thoát
khỏi bệnh tâm—những ý tưởng xúc cảm nhiễu loạn và ảo giác—gây ra tất cả
những kinh nghiệm vô bổ này. Vì an lạc tuyệt đối của chính mình, chứ
chưa nói đến người khác, chúng ta phải thực hiện điều này. Trong vô số
lần, chúng ta đã từng tận hưởng hạnh phúc nhất thời. Không có một hạnh
phúc nhất thời mới mẽ và duy nhất mà chúng ta đã quên lãng kinh qua.
Những gì mới mẽ, những gì chúng ta chưa từng kinh qua trước đó, là sự an
lạc tối thượng do chấm dứt tất cả khổ đau, cái chết và tái sanh; hạnh
phúc tối thượng sanh khởi từ sự chấm dứt hoàn toàn nguyên nhân thực sự
của khổ đau—vô minh, những ý nghỉ cảm xúc loạn động và các hành vi bị
thúc đẩy bởi các tâm tiêu cực này. Chúng ta chưa bao giờ kinh qua điều
này trước đó.
Từ vô thủy, chúng ta đã
nhiều lần chịu sự chi phối của vòng xoáy sanh tử, nhiều lần tãi qua toàn
bộ vòng khép kín luân hồi của các vấn đề cuộc sống, toàn bộ sự tích tập
nhiều lần. Chúng ta chưa bao giờ kinh qua sự chấm dứt điều này, rốt
cuộc, hạnh phúc miên viễn, sự chấm dứt hoàn toàn tất cả các vấn đề và
nguyên nhân của chúng, những ý tưởng loạn động của mình và các hành vi
mà chúng thúc đẩy—nghiệp.
Khi đạt đến kết quả này,
điều mà chúng ta nắm bắt bằng cách thực hiện những bước của con đường,
chính là một công việc trước đây. Khi hiểu rõ hạnh phúc vĩnh viễn, chấm
dứt tất cả những khổ đau, thì chúng ta có thể không bao giờ chịu đựng
khổ đau nữa, bởi vì mầm mống của các vấn đề cuộc sống điều mà chúng ta
đã gieo trồng trong sự tiếp nối liên tục của tâm thức mình đã hoàn toàn
bị trừ diệt, hoàn toàn được tịnh hóa. Do đó, nó mãi mãi không thể chịu
đựng khổ đau nữa—không có lý do gì hay nguyên nhân gì nữa. Khi đã đi
theo trọn vẹn con đường, chúng ta không bao giờ đi nữa, chúng ta không
bám vào sự thực tập nữa. Khi đã đạt được kết quả đó, nó tồn tại vĩnh
viễn. Do vậy, việc cống hiến đời bạn cho điều này là vô cùng quan trọng.
Đó là điều đáng giá nhất mà bạn có thể thực hiện trong suốt cuộc đời
mình.
Ở Tây Tạng, có một tác phẩm “ba điểm inh yếu của đạo lộ”[3] do
ngài Tông Khách Ba biên soạn, đã tóm lược ba phạm vi chủ chốt của đạo
lộ đạt đến giác ngộ như đức Phật đã chỉ dạy là buông xã (tâm yếm ly),
tâm Bồ-đề và chánh kiến (tánh không). Những con đường này dẫn đến giải
thoát, hạnh phúc miên viễn, hoàn toàn thoát khỏi các khía cạnh của vòng
xoáy tồn tại và luân hồi. Thực tiễn của chúng là cắt đứt nguồn gốc của
tất cả khổ đau, vô minh, tâm si mê, và mang lại hạnh phúc tuyệt đối của
giác ngộ.
Ngài Tông Khách Ba là một
người giác ngộ vĩ đại, là hiện thân của Bồ-tát Văn Thù, là đức Phật của
trí tuệ, là biểu hiện trí tuệ của tất cả chư Phật. Các phẩm chất bao la
tốt đẹp của ngài vốn giống như bầu trời, tâm thánh thiện của ngài có mặt
trọn vẹn trong tất cả mọi nhận thức—trí tuệ tối thượng, từ bi và năng
lực—ngài dâng hiến hạnh phúc vô bờ cho tất cả chúng sanh và giáo pháp.
[1]Dalai Lama: là đức Tenzin
Gyatso, nói đủ là Jetsun Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso,
là pháp hiệu của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là vị đạo sư lãnh đạo tinh
thần của người dân Tây Tạng và nhiều đạo tràng Phật Giáo trên thế giới.
Đức Đạt Lai Lạt Ma là tước hiệu của vua Mông Cổ Altan Khan ban cho Lạt
ma Sonam Gyatso vào năm 1578. Từ đó, “Đức Đạt Lai Lạt Ma” trở thành danh
xưng cho vị Lạt ma cao nhất trong truyền thống Phật giáo Gelug (Mũ
Vàng). Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama) nghĩa là "Người bảo vệ đức tin"
(Defender of the Faith), "Biển lớn của trí tuệ" (Ocean of Wisdom), "Vua
của Chánh Pháp" (King of Dharma), “Viên bảo châu như ý” (Wishfulfilling
Gem), “Hoa sen trắng” (White lotus) và Hóa thân Quan Âm (Kuan Yin
Boddhisattva).
Người Tây Tạng tin rằng Lạt Ma là một vị
giác ngộ, ngài đã chọn tái sinh nơi cõi đời này để mang lại lợi lạc cho
tất cả quần sinh. Đức Đạt Lai Lạt Ma sinh vào ngày 06 tháng 07 năm 1935
trong một gia đình nông dân nghèo tại một ngôi làng nhỏ vùng Takster
thuộc miền Đông Nam, tỉnh Amdo, Tây Tạng. Lhamo Dhondup nghĩa là Hoàn
thành ý nguyện của Nữ Thần (Wish-Fulfilling Goddess) là tên thời thơ ấu
của ngài. Lúc lên 2 tuổi, ngài được công nhận là hoá thân của Thubten
Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và ngài được đưa về thủ đô Lhasa để
chính thức làm lễ tấn phong là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.
[2] Trung ấm (zh. 中有 zhongyǒu, ja. chūu, bo. bar ma do'i srid pa བར་མ་དོའི་སྲིད་པ་, sa. antarābhava) nghĩa là “trạng thái tồn tại ở khoảng giữa”, cũng được gọi là Trung hữu hay trung uẩn. Trong kinh sách Tiểu thừa và Đại thừa ở thế kỉ thứ 2,
người ta đã thấy nói về một giai đoạn nằm sau cái chết và trước sự tái
sinh, được gọi là Trung hữu. Giai đoạn này được nhắc nhở nhiều trong Kim cương thừa (sa. vajrayāna) và được Tử thư trình bày cặn kẽ.
Tử thư cho rằng có 6 giai đoạn Trung hữu (sa. ṣaḍantarābhava):
- Trung ấm của lúc sinh (sa. jāti-antarābhava);
- Trung ấm của giấc mộng (sa. svapnāntarābhava);
- Trung ấm của thiền định (sa. samādhi-antarābhava);
- Trung ấm lúc cận tử (sa. mumūrṣāntarābhava);
- Trung ấm của Pháp thân diệu dụng, của Pháp tính (sa. dharmatāntarābhava),
- Trung ấm của sự trưởng thành và tái sinh (sa. bhavāntarābhava).
Tử thư cho rằng 3 giai đoạn của
Trung hữu 4, 5, 6 nêu trên kéo dài 49 ngày. Theo nhiều luận sư Tây
Tạng, giai đoạn Trung hữu diễn ra hàng ngày trong cuộc sống con người,
nó có mối liên hệ chặt chẽ với Tam thân (sa. trikāya).
Trong giai đoạn Trung ấm ngay sau khi chết, thần thức tiếp cận với
Pháp thân thanh tịnh; Trung hữu 5 tiếp cận với Báo thân và sự tái sinh,
thần thức đi vào cõi của Ứng hóa thân.
[3] Ba điểm tinh yếu của đạo lộ: là tâm yếm ly, tâm Bồ-đề và tánh không.