Chân dung Toni Bernhard
Nhưng nếu tôi được nói: "Và cuốn sách ấy sẽ viết về
chứng bệnh mãn tính", thì chắc chắn tôi sẽ nói: "Xin lỗi, đấy không phải
là lĩnh vực chuyên môn của tôi". Đây là bài học về sự vô thường. Như
Joseph Goldstein thường nói: "Mọi thứ đều có thể xảy ra tại bất cứ thời
điểm nào".
Vào năm 2001, chồng tôi và tôi đã có một chuyến du
lịch đến Pari với sự sắp đặt sẵn. Vào ngày thứ hai ở Pari, tôi đã bị
bệnh và lúc đầu các bác sĩ chẩn đoán là tôi bị nhiễm khuẩn cấp tính.
Nhưng bệnh vẫn kéo dài tháng này qua tháng khác và các triệu chứng của
bệnh vẫn không thuyên giảm. Tôi trở thành một người mang bệnh mãn tính.
Cũng từ đó mà một lãnh vực chuyên môn mới đã vô tình len lỏi phát triển ở
trong tôi.
Trước khi tôi bị bệnh, tôi đã là một thành viên năng
nổ của cộng đồng Phật giáo ở Bắc California. Tôi thực tập thiền tọa hai
lần mỗi ngày, và chồng tôi đã cùng với tôi dẫn dắt một nhóm tu thiền
Vipassana ở Davis. Tôi cũng thường tham dự các khóa tu thiền.
Một trong những khóa tu đó đã được hướng dẫn bởi Cố
Ni sư Ayya Khema. Ni sư đã nói với chúng tôi rằng: "Những dòng tư tưởng
phát sinh trong chúng ta, chúng có tính tùy hứng và không tin tưởng
được. Hầu hết những tư tưởng đó là rác rưởi, thế nhưng chúng ta vẫn tin
tưởng chúng". Tôi khắc ghi trong tâm những lời của Ni sư đã dạy. Trước
khi tôi bị bệnh, tôi đã bắt đầu quen dần với việc theo dõi những dòng tư
tưởng sinh khởi rồi biến mất mà không tin tưởng vào chúng. Nhưng khi
tôi phải nằm trên giường bệnh suốt ngày thì đột nhiên những dòng tư
tưởng của tôi dường như là những thứ gì đó chứ không phải là rác rưởi
nữa, và tôi tin vào mọi ý tưởng ấy: "Tôi sẽ không bao giờ đi ra khỏi cái
giường này", "Tôi sẽ không bao giờ cảm thấy vui vẻ được nữa", "Tôi đã
tàn phá cuộc sống của chồng tôi"…
Tôi rất bối rối, có lúc tôi giận chính mình vì đã bỏ
quên Phật pháp và có lúc tôi lại giận Phật pháp vì đã ruồng bỏ tôi.
Nhưng dù cho tôi giận gì đi nữa thì Phật pháp vẫn tồn tại trong sâu thẳm
của tâm hồn tôi. Sự tức giận, sự đổ lỗi, sợ hãi, thất vọng đã nảy sinh,
nhưng chúng chỉ là những gợn sóng trong tâm tôi mà thôi. Tôi đã được
Sylvia Boorstein khích lệ. Sylvia Boorstein nhắc nhở tôi rằng, bệnh tật
chỉ là bệnh tật mà thôi, nó không phải là khuyết điểm thuộc về cá nhân
tôi. Từ từ nhưng chắc chắn, tôi bắt đầu tìm lại con đường của tôi trong
những pháp hành mà tôi đã được học với tư cách là một người Phật tử
thuần thành. Không lâu sau đó, tôi đã tu tập không phải chỉ để đối trị
với bệnh tật mà còn để nuôi dưỡng tâm hỷ xả, dù cho bước ngoặt ngoài ý
muốn đã đến với cuộc sống của tôi. Tôi nghĩ, có lẽ Đức Phật đang dạy tôi
cách để sống với bệnh tật!
Thế rồi một hôm tôi cầm đến cái máy tính xách tay
(Tôi gọi nó là máy tính để giường), mở một tài liệu mới có tựa đề "Làm
sao để sống với bệnh tật". Tôi nhìn vào những con chữ trên màn hình
khoảng chừng một phút và nghĩ: "Một ý tưởng hay! Một cuốn sách mà tôi
có thể vận dụng những lời Phật dạy và chuyên môn của tôi để giúp những
người đang mắc chứng bệnh mãn tính khác. Nhưng, thật là tệ! Tôi quá yếu,
không đủ sức để viết. Tôi nhấn nút "lưu" và đóng tài liệu lại.
Sau đó tôi nhớ đến Marianne. Vào năm 1999, tôi đã
tham dự khóa tu 10 ngày tại Trung tâm thiền Spirit Rock. Để giúp cho
khóa tu diễn ra suôn sẻ, mỗi một người tham dự khóa tu đều đã thực hành
"thiền chấp tác". Chúng tôi cố gắng giữ yên lặng lúc làm việc càng nhiều
chừng nào càng quý chừng ấy. Công việc của tôi là làm vệ sinh những cái
khay từ các bàn ăn trong trai đường sau bữa ngọ trai và trút thức ăn
thừa vào các thùng chứa. Người cộng sự với tôi lúc ấy là một người phụ
nữ khoảng bằng tuổi tôi có tên là Marianne. Cô ấy có vẻ yếu hơn tôi,
nhưng chúng tôi đã chia đều công việc, thỉnh thoảng chỉ nói thầm với
nhau: "Cái thùng chứa này có đủ lớn để chứa thêm mớ rau sống này
không?". Trong thiền đường, tôi để ý thấy cô ấy ngồi cùng với một người
thanh niên, có lẽ là con trai của cô. Tôi nhớ đến ý nghĩ rằng, thật là
quý khi họ có thể cùng tham dự khóa tu! Cô ta có khuôn mặt đằm thắm, có
nụ cười dịu hiền và tôi thường nhìn về phía cô ta để quan sát sau mỗi
bữa ngọ trai.
Bên cạnh những công việc ở trai đường, chúng tôi còn
đi đến một căn nhà nhỏ, nơi các vị giáo thọ sư thọ trai, để bưng những
cái khay đựng thức ăn về lại nhà bếp. Vào ngày thứ bảy của khóa tu, tôi
ngạc nhiên khi có một người phụ nữ khác đi theo sau Marianne. Ba chúng
tôi làm vệ sinh những cái bàn ăn ở trong trai đường, thế rồi người phụ
nữ mới đi theo tôi khi tôi bắt đầu đi đến phòng ăn của các vị giáo thọ
sư. Cô ấy hỏi: "Bạn có biết gì về Marianne không?"
Khi thấy tôi lắc đầu, cô ấy nói với tôi: "Cô ấy rất
yếu. Cô chỉ còn sống được vài tuần nữa thôi". Rồi người phụ nữ đó quay
người và đi trở lại trai đường.
Tôi tiếp tục đi về phía phòng ăn của các giáo thọ sư,
nhưng tôi thật sự bị choáng bởi điều phát hiện bất ngờ này. Sau đó, tôi
đã đến gặp một trong các vị giáo thọ. Với nỗi đau buồn của mình, tôi đã
phá vỡ không gian yên lặng. Tôi hỏi vị giáo thọ:
- Cô có biết Marianne không?
Đáp lại câu hỏi của tôi, cô giáo thọ nói:
- Marianne đang ở đây với con trai của cô ấy. Đấy là
những thông tin mà chúng tôi có được khi mọi người điền vào tờ đơn tham
dự khóa tu. Ở dưới phần câu hỏi rằng: "Có điều gì mà các vị giáo thọ nên
biết về người tham gia khóa tu?", Marianne đã viết: "Tôi chỉ còn sống
hai tuần nữa thôi, nhưng điều đó không ảnh hưởng đến sự thực hành của
tôi".
Ngày hôm sau, vị trí của Marianne và con trai của cô
ấy ở trong thiền đường đã bỏ trống.
Được tạo nguồn cảm hứng bởi người phụ nữ mà tôi được
biết chỉ vỏn vẹn trong vòng mấy ngày, tôi bắt đầu viết sách "Làm sao
để sống với bệnh tật". Tôi diễn tả những phương pháp tu tập truyền
thống của đạo Phật, chẳng hạn như Từ bi, Bố thí và thọ nhận. Rồi tôi
minh họa mỗi pháp hành bằng những ví dụ từ chính kinh nghiệm cá nhân,
khiến cho cuốn sách càng có tính riêng tư hơn. Tôi đã viết về những pháp
tu mang tính sáng tạo trong Phật giáo mà tôi đã tự sáng chế dựa trên
kinh nghiệm cá nhân để khắc phục nhiều vấn đề khó khăn mà tôi và chồng
tôi đang gặp phải, chẳng hạn như đối trị với những triệu chứng gay gắt
của cơn bệnh, lo sợ về thời tiết trong tương lai, đối diện với điều kiện
sống bị cách ly người thân, đối mặt với sự hiểu lầm của người khác, và
giải quyết vấn đề của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Một lần nữa, tôi đã sử
dụng kinh nghiệm cá nhân để chỉ cho người đọc thấy biện pháp để giải
quyết những vấn đề này.
Cuốn sách được viết một cách chậm chạp và vô cùng khó
khăn. Tôi đã viết nó khi tôi nằm trên giường bệnh, đặt máy tính xách
tay trên bụng, những tờ giấy ghi chú, phác thảo thì trải trên mền, máy
in được đặt trong tầm tay. Có đôi khi tôi đặt hết tâm trí của mình vào
một chương và tôi đã viết nó quá lâu. Hậu quả của việc này là sự trầm
trọng của những triệu chứng đau nhức, điều này đã khiến cho tôi không
thể nào viết được một chữ trong vài ngày, và thậm chí là vài tuần sau
đó.
Cũng có một vài thời gian khi quá ốm yếu, tôi không
còn đủ sức để nghĩ về việc kết nối các chương của cuốn sách lại với
nhau. Thế là kế hoạch viết sách bị dừng lại trong vài tháng. Vì thân thể
quá suy nhược nên đôi khi nó đã tác động đến trạng thái tinh thần của
tôi, trong những giây phút đen tối nhất, tôi đã nghĩ đến việc ném bỏ tất
cả những gì mà tôi đã viết, tuyệt vọng vì không thể nào hoàn thành được
nó.
Nhưng những trạng thái tâm lý ấy đến rồi lại đi. Và
cuối cùng, tôi đã thúc ép bản thân, nhất định phải viết xong cuốn sách
với hy vọng là nó sẽ chỉ con đường cho mọi người có thể sống tốt hơn và
sống trong niềm hỷ xả, dù cho họ có bị rơi vào những hoàn cảnh vô cùng
khó khăn. Những lời Pháp nhũ của Đức Phật đã tạo nguồn cảm hứng và xoa
dịu nỗi đau của tôi trong suốt thời gian bệnh tật. Ngài đã dạy cho tôi
biết làm sao để sống với bệnh tật. (Theo Shambhalasun.com)
Toni Bernhard - Minh Nguyên dịch