Tập san Hướng nhìn Phật giáo (Regard Bouddhiste) số tháng bảy và tám,
năm 2015
****
Dù Phật giáo luôn quan tâm đến việc nêu
cao trước quảng đại quần chúng hình ảnh của một tín ngưỡng phi-bạo-lực và mở rộng,
thế nhưng đôi khi cũng không tránh bị cáo buộc là kỳ thị phụ nữ (misogyny) và phân
biệt giới tính (sexism), nhất là khi nhìn vào vị trí của người phụ nữ trong sinh
hoạt tập thể chốn chùa chiền. Tuy cũng có nhiều tông phái xem người phụ nữ là những
hình thức biểu hiện của trí tuệ (chẳng hạn như đối với Phật giáo Tây Tạng), nhưng
dưới góc nhìn của quảng đại quần chúng thì các sự kiện trên đây dường như cho
thấy một sự nghịch lý và có thể nói là cả một sự mâu thuẫn nữa. Vậy đối với điều
này thì đâu là sự thật? Nhằm tránh những sự tranh cãi vô bổ về vấn đề rất tế nhị
này, thiết nghĩ chúng ta hãy nên hết sức thận trọng.
Điều thận trọng trước nhất và cũng quan
trọng nhất, là phải quan niệm thế nào về mức độ khả năng tinh thần của người phụ
nữ mà các nền văn hóa Á châu đã gán cho họ, nơi mà Phật giáo đã bắt rễ từ lâu đời.
Phật giáo là một tín ngưỡng sinh động và do đó cũng tương tự như các tôn giáo
khác, luôn đi sát với bối cảnh sinh hoạt của xã hội. Nếu giáo lý của Phật giáo
cho rằng về phương diện tâm linh, người phụ nữ hoàn toàn hội đủ khả năng tương
tự như nam giới, thì các xã hội phụ hệ lại quan niệm khác hơn về vai trò và vị
thế của họ trong xã hội. Tất nhiên là điều này đã đưa đến các tập quán và các sinh
hoạt xã hội gò bó hơn đối với người phụ nữ, có nghĩa là đi ngược lại với tinh
thần Phật giáo, và trên thực tế thì quả cũng đúng như vậy - từ quá khứ cho đến
ngày nay!
Sự thận trọng thứ hai liên quan đến những
gì đã được nêu lên trong kinh điển cổ xưa. Thật vậy trong bối cảnh ngày nay, mỗi
khi đọc một bài kinh nguyên thủy mang tính cách thiêng liêng đã hơn hai ngàn năm
xưa, dù thuộc vào lãnh vực giới luật hay tu tập, thì chúng ta sẽ không sao tránh
khỏi những nhận định về nội dung của bài kinh, phản ảnh những mong đợi mang tính
cách hiện đại của chúng ta trong bối cảnh ngày nay, những mong đợi trong một thời
đại tân tiến, khác hẳn với thời đại khi mà bài kinh ấy được thuyết giảng. Thật
hết sức hiển nhiên là ngày nay chúng ta không thể đọc bài kinh ấy với tinh thần
mà người xưa đã đọc - thế nhưng chẳng phải chúng ta cũng có thể tự hình dung mình
là một nhà sư Ấn độ tu hành vào đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo hay sao? (để mà đọc bài kinh
ấy trong bối mà nó đã được ghi chép) - vì thế chúng ta phải cố gắng
tìm hiểu xem trong hoàn cảnh nào mà các bài kinh ấy đã được mang ra thuyết giảng
trước quảng đại quần chúng, nói một cách khác là các kinh sách ấy đã được trước
tác trong một bối cảnh lịch sử như thế nào. Nên ghi nhớ điều này trong tâm, vì đó
là cách giúp chúng ta "cật vấn" các kinh điển cổ xưa và để cho chúng
"nói lên" với mình những gì vẫn còn hợp thời với bối cảnh tân tiến của
chúng ta ngày nay, sau khi đã loại bỏ được ảnh hưởng của các nền văn hóa, địa
lý và những gì của các thời đại cổ xưa.
Do đó chúng ta sẽ có thể đọc các
kinh sutra cũng như tạng luật vinaya, tức là các giới luật trong chốn
chùa chiền, và giúp chúng ta hiểu được tại sao Đức Phật lại đắn đo rất lâu trước
khi cho phép người phụ nữ gia nhập Tăng đoàn mà Ngài vừa mới gầy dựng được. Một
trong những phụ nữ tha thiết nhất muốn được gia nhập Tăng đoàn chính là người dì
của Đấng Giác Ngộ, Mahâprojapatî, người đã nuôi nấng Ngài từ thuở bé. Chính vì
sự khẩn khoản của A-nan-đà, người đệ tử thân cận bên cạnh Ngài, mà Đức Phật cuối
cùng đã chấp nhận cho một người thân quyến gia nhập Tăng đoàn, và sau đó là đến
lượt các người phụ nữ khác, trong số này có cả phu nhân trước đây của Ngài. Tuy
nhiên không phải vì thế mà Đức Phật không đưa ra thêm một số quy luật đặt các ni
cô vào một quy chế thấp hơn so với các tăng sĩ nam giới. Trong các kinh điển sutra, cũng không phải là hiếm khi đọc
thấy các trường hợp Đức Phật cảnh giác các nam tu sĩ trước sự quyến rũ của phụ
nữ (người phụ nữ
cũng chỉ là xương thịt, máu mủ, mùi hôi, mang đầy bệnh tật, nhưng đối với người
đàn ông thì vì vô minh nên sự "quyến rũ" thúc đẩy bởi bản năng dục
tính và truyền giống cũng có thể xảy ra bên trong tâm thức họ. Ngược lại thì một
phụ nữ đối với người đàn ông hay giữa những người đồng tính luyến ái với nhau thì
cũng thế), thậm chí người ta còn thấy cả những lời tiên đoán cho rằng
giáo huấn của Đức Phật rồi đây sẽ bị suy thoái nhanh chóng vì sự hiện diện của
các nữ tu sĩ trong Tăng đoàn. Sau hết là người phụ nữ còn bị mô tả qua những góc
nhìn không mấy hấp dẫn lắm, với mục đích ngăn chận sự tham dục của người tu hành
nam giới. Nhiều phép thiền định được đưa ra nhằm "mổ xẻ" người phụ nữ
xinh đẹp bên trong tâm thức mình hầu biến họ trở thành một cái bọc cất chứa phèo
phổi ruột gan và các thể dạng tính tình thật đáng khiếp sợ... Các điều ấy gợi lên
một sự thận trọng nào đó đối với người tu hành nam giới, nếu không muốn nói đó là
cả một sự kinh tởm trước một con yêu quái là người phụ nữ!
Thế nhưng thật ra thì chúng ta không
nên nhìn mọi sự ở cấp bậc sơ đẳng như thế:
- Bạch Thế Tôn, một người phụ nữ có thể đạt được giác ngộ hay
chăng?
- Có chứ! Này A-nan-đà, nhất định là
như thế!
Câu trả lời trên đây của Đức Phật đã
cho thấy thật hết sức rõ ràng là Ngài chủ trương sự bình đẳng tuyệt đối trên phương
diện tâm linh giữa người nam và người nữ. Và Ngài cũng thường xuyên quan tâm đến
sự thăng tiến tâm linh của người dì của Ngài, bằng cách thuyết giảng thêm hầu
giúp cho người dì của mình chóng trở thành một vị Arhati (A-la-ti) tức là một
nữ tu sĩ "xứng đáng đạt được sự giải thoát", ngang hàng với danh hiệu
arhant (A-la-hán) của những người tu
hành nam giới (tiền
ngữ arh- có nghĩa là "xứng đáng", hậu ngữ -han có nghĩa là "loại
bỏ", "diệt trừ", trong trường hợp này có nghĩa là "diệt trừ"
các sự tham lam, giận dữ và ảo giác. A-la-ti (nữ giới) hay A-la-hán (nam giới)
là các cách dịch âm sang Hán ngữ. Người Trung quốc không đọc được vần
"r", nên mỗi khi gặp vần "r" thì đổi thành vần "l".
Trái lại ngưới Ấn đọc vần "r" rất dễ dàng, uốn lưỡi như chim hót. Nếu
tra tự điển thì sẽ nhận thấy tất cả các vần "r" trong tiếng Pa-li và
tiếng Phạn đều trở thành vần "l" trong cách dịch âm sang tiếng Hán.
Do đó thiết nghĩ khi dịch kinh sách sang tiếng Việt thì không cần phải chuyển
sang tiếng Hán rồi sau đó mới chuyển sang tiếng Việt. Bởi vì tiếng Việt sử dụng
các ngữ tự La-tinh và người Việt không những đọc được vần "r" mà còn đánh vần được các tiếng
Phạn và Pa-li sau khi được chuyển thành ngữ tự La-tinh. Thí dụ chữ Sariputra, tên một đệ tử của Đức Phật, Hán
dịch là Xá Lợi-Phất, đối với tiếng
Việt thì không cần phải dịch, cứ dùng nguyên như thế, nhờ đó việc dịch thuật sẽ
đơn giản hơn, và mang tính cách "quốc tế" và "nguyên thủy"
hơn).
Sở dĩ Đức Phật đắn đo rất lâu trước
khi thành lập Tăng đoàn nữ giới chẳng qua là vì hoàn cảnh và vị thế của người
phụ nữ [trong xã hội] vào thời bấy giờ, tức là vào năm thế kỷ trước Tây lịch -
kể cả vào các thời đại sau này cũng chẳng có gì cải thiện hơn - đã không cho phép
Ngài thực hiện: người phụ nữ không là gì cả trước khi lấy chồng, và sau khi lấy
chồng thì cũng chỉ là để sinh đẻ và nuôi nấng con cái, việc tín ngưỡng là do
người chồng quyết định. Đối với người phụ nữ thời bấy giờ thì việc gác trọng trách
gia đình sang một bên để tham gia vào các sinh hoạt xã hội, chỉ là chuyện không
tưởng mà thôi! Do đó người đàn ông bước vào con đường dễ dàng hơn so với người
phụ nữ. Thiết nghĩ cũng không cần nhắc lại rằng Đấng Giác Ngộ không phải là một
nhà cách mạng mà chỉ là một người hướng dẫn tâm linh đã vạch ra một con đường mang
lại sự giải thoát khỏi khổ đau. Kinh sách cho biết Đức Phật đã tỏ ra lo lắng
cho Tăng đoàn có thể bị tan rã bởi vì việc kết nạp người phụ nữ vào Tăng đoàn có
thể sẽ gây ra sự chống đối mãnh liệt trong xã hội, và khiến cho giáo lý của Ngài
có thể sẽ bị mọi người xa lánh. Trong một bài kinh Đức Phật có nêu lên cho biết
là tại sao Ngài lại phải bổ khuyết thêm một số giới luật dành cho các tu sĩ nữ
giới:
"Trong
nhà nếu có nhiều phụ nữ nhưng lại ít đàn ông thì sẽ dễ trở thành một miếng mồi thu
hút bọn đạo tặc và trộm cắp vơ vét của cải trong gia đình. Và đấy cũng chẳng
khác gì một ruộng lúa bị bệnh vàng lá hay một thửa đất trồng mía lá bị sâu, khiến
mất mùa. Cũng tương tự như một người đắp đê cho nước khỏi tràn, này A-nan-đà, ta
đành phải đưa ra thêm tám giới luật dành cho người tỳ kheo ni".
(Xin lưu ý câu thứ nhất rất cao siêu, kín
đáo , ý nhị và sâu sắc: "đạo tặc" và "trộm cắp" không phải ở
bên ngoài lẻn vào nhà mà là bên trong "gia đình", đó là sự ích kỷ,
ganh tị..., và một lô các thứ xúc cảm "phức tạp" khác phát sinh từ tình
trạng "nhiều phụ nữ" nhưng lại "ít đàn ông")
Tăng đoàn ngày nay vẫn còn bảo thủ,
các nữ tu sĩ vẫn phải chịu sự lãnh đạo của các nam tu sĩ. Hơn nữa trong lãnh vực
giáo huấn, họ vẫn còn phải chịu nhiều thiệt thòi so với những người đồng tu nam
giới. Đối với Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo Theravada trong các vùng Đông Nam
Á thì các dòng nữ tu đã bị mai một từ lâu đời. Duy nhất chỉ có Phật giáo Trung
Quốc và các vùng ảnh hưởng (trong nguyên bản là chữ prolongement, có thể hiểu theo tiếng
Anh là extension) là Phật giáo Việt nam và Triều Tiên, thì còn duy
trì được truyền thống chính thức thụ phong cho các nữ tu sĩ. Tuy nhiên mọi sự đang
biến chuyển: dưới áp lực của những người Phật giáo chủ trương sự bình đẳng nữ
giới (feminism), các thể chế tự viện, trước hết là của Phật giáo Tây Tạng và
sau đó là Phật giáo Theravada, đã phải chấp nhận cho các nữ sa-di được chính thức
thụ phong tỳ kheo ni ngang hàng với nam giới, tương tự như ở Trung Quốc. Ngày
nay các ni sư Tây Tạng được quý trọng hơn trước đây rất nhiều. Vậy người phụ nữ
đối với Phật giáo Mahâyâna tức là Đại Thừa Phật giáo thì như thế nào?
Điểm đáng chú ý nhất đối với toàn bộ
thế giới Phật giáo mênh mông, bao gồm các hình thức Phật giáo "Trung Quốc-Nhật
Bản", "TâyTạng-Mông Cổ", là các phép luyện tập thiền định cũng
như việc học hỏi kinh sách đã được mở rộng cho người thế tục, khác hơn với các
hình thức Phật giáo cổ xưa thường là chỉ dành riêng cho người xuất gia. Các người
chủ gia đình và cả vợ con họ tất cả đều có thể bước theo con đường của người Bồ-tát,
dù rằng các khả năng tâm linh của họ không thể sánh với những người xuất gia.
Do đó người ta cũng nhận thấy có hai khuynh hướng khác nhau trong kinh điển (sûtra) cũng như trong các tập luận giải
(shâstra) của Đại Thừa. Một mặt thì một
số kinh sûtra mang nhiều nét phóng
khoáng hơn, chẳng hạn như kinh Vimalakîrtinirdesha
(Kinh Duy Ma Cật),
kinh này cho biết một cách dứt khoát là sự Giác Ngộ không liên hệ gì với vấn đề
giới tính mà chỉ là sự quán nhận được Tánh Không toàn cầu. Shâriputra (Xá Lợi Phất)
một vị arhant (A-la-hán) đệ tử của Đức
Phật, cho rằng sự Giác Ngộ chỉ có thể hiện ra qua thân xác của một nam giới, thế
nhưng tức thời có một vị nữ thần làm phép biến Xá Lợi Phất thành một người phụ
nữ hầu cho vị này một bài học:
Trong
lúc Xá Lợi Phất đang lúng túng vì bất ngờ bị biến thành phụ nữ, thì vị nữ thần
cất tiếng hỏi Xá Lợi Phất như sau:
-
Sao ngươi không đổi giới tính trở lại như trước xem nào?
Xá
Lợi Phất thẹn đỏ mặt vội lúng túng thốt lên:
-
Ta chẳng hiểu chuyện gì xảy ra mà bỗng dưng ta hóa thành một người đàn bà như
thế này!
Vị
nữ thần bèn đáp lời Xá Lợi Phất:
-
Này Xá Lợi Phất, hiện trong lúc này ngươi là một phụ nữ, nếu ngươi có thể đổi
được giới tính thì tất cả những người phụ nữ khác cũng có thể làm được (để trở
thành nam giới). Vậy, này
Xá Lợi Phất, nếu ngươi không phải là một phụ nữ mà chỉ có vẻ bên ngoài là một
phụ nữ, thì tất cả các phụ nữ khác cũng thế (cũng chỉ có vẻ bên ngoài là phụ nữ). Mặc dù có vẻ bên ngoài là phụ nữ, thế nhưng họ không phải là
những người phụ nữ. Chính vì thế mà Đức Phật dạy rằng tất cả mọi hiện tượng không
phải nam tính cũng không phải nữ tính".
(trích
từ kinh Duy Ma Cật theo bản dịch của
Patrick Carré: La Liberté Inconcevable/Sự
tự do vượt thoát khỏi mọi khả năng tưởng tượng, Paris, Fayard, 2000, tr.
117)
Tóm lại là sự Giác Ngộ không lệ thuộc
vào bất cứ một điều kiện nào, và cũng không liên hệ gì với giới tính của người
tu tập.
Trong khi đó thì các tập luận giải Đại
Thừa do một số các vị đại sư khác trước tác thì lại giữ nguyên đường hướng của
Phật giáo cổ xưa, tức là tiếp tục cảnh giác người tu tập trước những mối hiểm
nguy của tình yêu đam mê và các khía cạnh lừa lọc của sự quyến rũ. Thật ra thì đấy
cũng chỉ là cách mà các vị đại sư sử dụng như một phương tiện cảnh giác những người
tu hành nam giới đã từ bỏ bản năng dục tính. Tuyệt nhiên đấy không phải là cách
bảo vệ một quan điểm nào cả của Phật giáo Đại Thừa, nhằm chê bai phái đẹp, mà đơn
giản chỉ là quan điểm của các tăng đoàn cổ xưa nơi tự viện, dưới nhãn quan của
những người tu hành nam giới!
Chính trong Vajrayâna, tức là Kim Cương
Thừa, tầm nhìn trên đây đã trở nên hoàn toàn đảo ngược: theo các kinh tantra (tức là các kinh đặc thù của Kim Cương Thừa, còn
gọi là Tan-tra Thừa) thì người phụ nữ không những được xem ngang hàng
với người đàn ông, mà đôi khi còn được cho là trội hơn cả người đàn ông trên phương
diện trí tuệ, và trí tuệ thì cũng chỉ có thể hiển hiện một cách toàn vẹn qua sự
tương kết giữa hai giới tính. Do đó các lễ cụ (pháp khí) quan trọng nhất của Kim
Cương Thừa là vajra (kim cương chùy, còn gọi là kim cương chữ) và một
chiếc chuông nhỏ: chiếc chùy vajra biểu
trưng cho các "phương tiện thiện xảo" (upaya) mang tính cách nam tính,
và chiếc chuông nhỏ biểu trưng cho trí tuệ của Tánh Không (prajna) mang tính cách
nữ tính (hai lễ
cụ này luôn được sử dụng chung trong khi hành lễ). Một trong hai lễ cụ đó không thể làm gì được:
nếu thiếu sự mở rộng vô biên của Tánh Không (nữ tính), thì không thể nào phát
huy được các khả năng của lòng từ bi tích cực (nam tính). Thế nhưng việc giới tính
hóa các biểu tượng và cách nâng vị thế của người phụ nữ lên thật cao do các
kinh tantra chủ xướng có làm thay đổi
được gì về vị thế của người phụ nữ trong xã hội hay không?
Kim cương chùy và
chuông biểu trưng cho lòng từ bi và trí tuệ
Tất nhiên là phải có, vì ở Tây Tạng
người ta đã thấy xuất hiện nhiều tu sĩ nữ giới thật xuất sắc và rất được tôn kính,
đó là những vị dâikinî (Hán dịch là "không hành mẫu", là các thần linh nữ
tính, nguyên nghĩa là các "nữ thần bay trong không trung")
lừng danh, chẳng hạn như công chúa Tây Tạng Yéshé Tsogyal, đệ tử và cũng là phu
nhân của Padmasambhava vào thế kỷ VIII (một vị Thầy Phật giáo, gốc người Pakistan, vô cùng uyên bác,
đã hệ thống hóa toàn bộ Kim Cương Thừa), hoặc Matchik Lapdrön, một nữ
tu sĩ Tây Tạng vào thế kỷ XI, đã khởi xướng một phép luyện tập tan-tra đặc thù gọi
là Tcheu ("một phép luyện tập nhằm cắt nát cái tôi"). Thế nhưng khi
nhìn vào các câu chuyện kể lại cuộc đời của họ thì chúng ta sẽ nhận thấy ngay là
nếu người phụ nữ muốn thoát ra khỏi các bổn phận thường tình mà xã hội đã áp đặt
cho mình thì quả không phải là một chuyện dễ. Vì thế cũng không nên lẫn lộn giữa
hai khía cạnh là bối cảnh văn hóa xã hội và lãnh vực tâm linh.
Trong kinh tantra Târâ (Târâ là một "Nữ thần linh cứu nạn") (nguyên nghĩa là một
vị "Cứu tinh" - đưa người hoạn nạn sang bờ bên kia - và thường được
xem như là một vị Phật) có nêu lên thật khẳng định và dứt khoát rằng
sự Giác Ngộ không hề liên quan gì với vấn đề giới tính cả. Sở dĩ Târâ được xem
là một vị Phật nữ giới là vì sau khi đạt được Giác Ngộ tối thượng đã thệ nguyện
sẽ luôn hiện ra dưới các thể dạng phụ nữ hầu giúp đỡ tất cả chúng sinh. Các vị nữ
thần dâkinî, tiếng Tây Tạng gọi là khandroma, nguyên nghĩa là những vị "nữ
thần bay trong không gian", là những vị thần linh thông báo sự giác ngộ, nhưng
đôi khi cũng được xem là những vị nữ thần có các khả năng phù phép mang tính cách
dân gian, mang lại cảm ứng và giúp đỡ những người hành thiền du-già (yogi) trên
phương diện tâm linh, nhưng cũng có thể gây ra các chướng ngại cho họ. Sự liên
hệ mang tính cách tương tác giữa nam tính và nữ tính, dù là dưới hình thức phóng
tưởng (fantasy/sự
tưởng tượng hay hình dung về những gì không thật, nhằm mục đích lẫn tránh thực
tại) hay là sự thật đi nữa, thì lúc nào cũng bàng bạc trong Tan-tra
Thừa. Các nữ thần trí tuệ dâkinî đôi khi hiện ra dưới hình thức nhân dạng và biến
thành các nữ tu sĩ tan-tra thật lỗi lạc, hoặc trở thành các người bạn đồng hành
tâm linh của các vị đại sư. Tuy nhiên dù có một số các vị nữ thần dâikinî rất
được tôn kính, thế nhưng trong số này cũng chỉ có một thiểu số là được giới tăng
lữ Tây Tạng - mà đa số là nam giới - thừa nhận và tôn thờ. Dầu sao thì từ khi
Phật giáo Tây Tạng bành trướng mạnh ở Âu Châu thì người ta không còn tìm thấy một
lý do văn hóa nào nữa để mà kỳ thị giữa nam và nữ giới, và hơn thế nữa trong số
những người tu tập theo hình thức Phật giáo đứng hàng đầu này tại Âu Châu, thì
người phụ nữ đã chiếm đa số!
Vài lời ghi
chú của người dịch
Tạp chí L'Express của Pháp ngày 19
tháng 11 năm 2015, có đưa ra bản phúc trình của tổ chức "Diễn đàn Kinh tế Thế
giới" (The World Economic Forum) trụ sở đặt tại Geneva (Thụy Sĩ), cho biết
là "con đường đưa đến sự bình đẳng giữa nam-nữ sẽ còn dài". Bản phúc
trình hàng năm và mới nhất trên đây được công bố ngày 19 tháng 10 vừa qua, và được
dựa vào các kết quả thống kê trong năm 2015, tại 145 quốc gia trên thế giới. Các
kết quả này cho thấy mức chênh lệch giữa nam và nữ giới trên các phương diện sức
khỏe, giáo dục, kinh tế (mức lương, công ăn việc làm, chức vụ...) đã thu hẹp được
4% kể từ năm 2006. Theo đà này thì phải còn chờ thêm 118 năm nữa thì khi đó người
đàn bà mới được xem là ngang hàng với người đàn ông. Bản tường trình trên đây cũng
cho biết là năm nay (2015) nước Pháp vượt lên được một bậc và đứng hàng thứ 15
(cũng xin nhắc thêm là trên phương diện giáo dục và sức khỏe thì Pháp đứng hàng
đầu từ năm 2006), và Hoa kỳ mất luôn một lúc 8 điểm, tụt xuống hàng thứ 28.
Ngược về hơn hai ngàn năm trăm năm
trước Tây Lịch trên bán lục địa Ấn Độ thì sự cách biệt giữa người phụ nữ và nam
giới còn nặng nề hơn gấp bội. Ngày nay tại hai quốc gia đông dân nhất trên hành
tinh này là Ấn Độ và Trung Quốc, thì sự kỳ thị phái nữ vẫn còn hết sức lộ liễu
và gay gắt. Chúng ta hãy thử nhìn vào một vài trường hợp điển hình tại Ấn Độ và
Trung Quốc trong quá khứ cũng như hiện tại, hầu giúp chúng ta có một ý niệm nào
đó về sự cách biệt giữa nam và nữ giới tại hai quốc gia này cũng như trong các
xã hội Á Châu nói chung.
Ở Ấn Độ vào thời phong kiến, mỗi khi
nhà vua băng hà thì triều đình đốt một đống lửa thật to dưới chân thành và xô các
bà hoàng hậu, thứ phi, cung tần mỹ nữ xuống đống lửa để hỏa táng họ. Vào thời
nhà Đường ở Trung Quốc, và cũng là thời kỳ văn minh nhất trong lịch sử của quốc
gia này - từ văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế cho đến nghệ thuật - và dưới
triều đại của một ông vua rất "phức tạp" và rất "nghệ sĩ" là
Đường Huyền Tông, án tử hình đã được hủy bỏ vào năm 747, ngoài ra cũng còn một
biện pháp "nhân đạo" khác được đưa ra là các cung tần mỹ nữ được phép
mỗi năm ra khỏi cung cấm để thăm cha mẹ một lần.
Đến ngày thăm con thì cha mẹ, anh em,
họ hàng từ khắp nước kéo nhau về kinh đô tìm con, tìm em, tìm chị,.. trước đây đã
được "tiến cử" vào cung. Họ là những cô bé mười ba, mười bốn tuổi, hay
lớn hơn và đẹp nhất nước. Cha mẹ, họ hàng thì mang theo nào là quà bánh, các món
"đặc sản" của quê nhà, từ khắp nước kéo về kinh đô Trường An . Không
thấy các sử liệu cho biết là mỗi năm ngày vui ấy đã quy tụ được bao nhiêu người
- hàng ngàn hay hàng vạn? - mà chỉ biết rằng trên nguyên tắc vua có 3.000 cung
phi chính thức. Trong một khu đất rộng lớn, người ta chen chúc nhau: con tìm
cha mẹ, cha mẹ tìm con, tìm được nhau thì ôm nhau khóc, không tìm được nhau cũng
khóc: con khóc, mẹ khóc, cha khóc, em khóc, chị khóc..., tiếng khóc vang rền
trong một bãi đất mênh mông, đến chiều thì cung tần mỹ nữ lại phải vào cung.
Ngoài ra một vị hoàng đế phải xem hoàng
hậu, các thứ phi và cung tần mỹ nữ là những người hầu hạ và phục dịch cho mình.
Một vỉ hoàng đế si tình một thứ phi được xem là một sự sỉ nhục, không xứng đáng
là một vị đế vương hay thiên tử. Thế nhưng đó cũng lại là trường hợp của Đường
Minh Hoàng say mê Dương Quý Phi. Các sử gia Trung Quốc thường nhắc đến sự kiện này
với hậu ý chê trách, đôi khi với ít nhiều thêm thắt và phóng đại. Nhìn theo một
hướng khác - tức là nhìn vào các cung tần mỹ nữ - thì đấy cũng là sự khổ đau của
thân phận người phụ nữ, dù họ xinh đẹp nhất nước và sống trong chốn cao sang.
Ngày nay tại hai quốc gia này tức là
Trung Quốc và Ấn Độ, người nữ vẫn còn bị bị kỳ thị, và ngay cả từ lúc còn là bào
thai. Nếu bác sĩ cho biết hài nhi trong bụng là gái thì có thể sẽ bị cha mẹ phá
thai. Nếu một đứa bé gái may mắn được sinh ra đời và lớn lên thì số phận cũng chẳng
khá hơn được bao nhiêu. Cách nay đã gần 30 năm, tại một công trường thăm dò,
khoan đào và tầm khảo dầu khí ở giữa sa-mạc của một xứ Trung Đông, người chuyển
ngữ bài viết này đã từng chứng kiến một cảnh tượng mà đến nay vẫn ray rứt và
đau xót trong lòng mỗi khi nhớ đến. Công trường có những khung gỗ (palette/palet)
để xe xúc vận chuyển các bao hóa chất hoặc các máy móc nặng, và khi nào không còn
cần đến nữa thì vứt vào một khu chứa rác tạm thời, cạnh công trường. Một hôm, lúc
mặt trời bắt đầu xuống thấp, khí trời bớt nóng, có một người đàn ông dắt theo một
bé gái, vóc dáng gầy ốm khoảng độ sáu hay bảy tuổi, cũng có thể là mười hay hay
mười hai tuổi (?), vì thật ra rất khó đoán tuổi tác của những đứa bé gái sống trong
những vùng nghèo nàn trên thế giới. Có thể đây là hai cha con (?), họ đến gần công
trường và nhặt một khung palette còn tốt. Người đàn ông, tạm gọi là "cha"
của đứa bé, khệ nệ nhấc tấm palette đặt lên đầu đứa bé. Hai "cha
con" đi về hướng mặt trời đang lặn,
người cha đi bên cạnh hai tay để không. Đứa bé thì chỉ đủ sức đi được khoảng 40
đến 50 thước là nhiều, sau đó thì phải đứng lại và ném tấm khung palette xuống
cát, vài phút sau thì "người cha" lại khệ nệ khiêng tấm pallette đặt
lên đầu đứa bé. Chiếc bóng của một người đàn ông khỏe mạnh và một đứa bé gái gầy
nhom với tấm palette trên đầu đổ dài trên mặt cát về phía sau lưng, trước mặt họ
là những dãy đồi cát mênh mông, xa tít tận chân trời…
Nếu quay về với khung cảnh của hơn
hai ngàn năm trăm năm trước thì chúng ta tất sẽ hiệu được dễ dàng hơn tại sao vào
thời bấy giờ người ta lại gọi người đàn ông là "chủ gia đình" (gahapati), và đồng thời cũng giúp chúng ta
hình dung được những khó khăn nào mà Đức Phật phải vượt qua khi chấp nhận để người
phụ nữ được phép gia nhập Tăng đoàn. Đi ngược lại với tập quán, truyền thống và
văn hóa của cả một thời đại là một cuộc cách mạng phi thường, thế nhưng Đức Phật
đã thành công, và cũng đã tránh được mọi sự chỉ trích và bài bác của quảng đại quần
chúng đối với Giáo Huấn siêu việt của Ngài. Và đấy cũng là điểm đáng lưu ý nhất
trong bài viết trên đây của học giả Philippe Cornu.
Bures-Sur-Yvette,
02.12.15
Hoang
phong chuyển ngữ
H.1-
Philippe Cornu: Giáo sư ngành "Nhân
chủng học về tôn giáo" tại Viện Quốc gia về ngôn ngữ và văn minh Đông
Phương (INALCO/Institut National des Langues et Civiliasations Orientales), và
đồng thời là chủ tịch Viện nghiên cứu Phật học Âu Châu (IBE/Institut d' Etudes
bouddhiques Européen), trước đây là Viện đại đọc Phật giáo Âu Châu
(UBE/Université Bouddhique Européenne).
H.2:
Dominique Trotignon (áo đỏ) và Philippe
Cornu (ngồi bên cạnh) - Dominique Trotignon tu tập theo Phật giáo Theravada và
là Tổng giám đốc của Viện nghiên cứu Phật học Âu Châu (UBE). Cả hai là các học
giả Phật giáo rất uyên bác và năng hoạt hiện nay ở Pháp.