Bài
tham luận này cố gắng tìm hiểu chiều sâu của thể chế khoa học - công
nghệ với sự khẳng định một chân lý rằng, sự giàu có và hiệu quả của nó
không chỉ định hình cuộc sống thường nhật của chúng ta trong thời đại
toàn cầu hoá này, mà còn ảnh hưởng tới cả lý trí và các giá trị nhân
văn. Bài tham luận này trở lại với kinh điển Phật giáo để tái dựng quan
điểm của Phật giáo về lý trí và công nghệ.
Phật giáo cho rằng, mục đích tối hậu mà Niết bàn hướng tới không chỉ
là sự thoả mãn của khoa học - công nghệ khi tạo ra được một "cuộc sống
tốt đẹp", mà còn chỉ ra mối đe doạ của sự đam mê khoa học - công nghệ.
Sự tái dựng này nhằm khẳng định cơ sở để phát triển một hướng phê bình
đối với việc du nhập và bổ sung thực tiễn khoa học - công nghệ trong xã
hội Phật giáo.
Dẫn luận
Trong vài thế kỷ qua, những bước nhảy vọt lớn trong tiến bộ công nghệ
đã đạt được nhiều kết quả đáng kinh ngạc trên mọi mặt của cuộc sống.
Có thể nói rằng, khả năng của khoa học - công nghệ nằm ở chính cơ sở
của những sức mạnh toàn cầu hoá. Sự thật là từ trong sự phân loại các
nước thành "phát triển", "đang phát triển" và "kém phát triển" đã ẩn
chứa định nghĩa về các nước đó theo thuật ngữ mượn từ công nghệ học.
Điều quan trọng trong môi trường công nghệ hiện đại này không chỉ là
phạm vi công nghệ đã thực sự định hình cuộc sống hàng ngày của chúng
ta, mà còn là ảnh hưởng phức hợp của nó tới việc chọn lựa và hướng đến
những giá trị nhân văn. Sự phức tạp của đạo đức công nghệ - di truyền và
những vấn đề liên quan đến đạo đức - sinh học chỉ là hai ví dụ điển
hình trong tình hình hiện nay. Nhiều học giả đã chỉ ra rằng, công nghệ
đã tạo nên sự tiến bộ vĩ đại trong xã hội dân chủ tự do. Một số khác
lại cho rằng, công nghệ và dân chủ tự do có một điểm chung, đó là cả
hai hệ thống này đều không nhắc tới những vấn đề thuộc về mục đích hay
giá trị tối hậu trong cuộc sống của con người. M.Athur Melzer đẩy vấn
đề xa hơn khi nói rằng, tất cả các hệ thống tự do chính trị nói riêng
đều có tính quyết định công nghệ học cả về lý thuyết lẫn thực tiếng).
Nhận định này chỉ rõ: có một quan hệ bản chất bên trong giữa công nghệ
học và chủ nghĩa tự do, cả hai đều có tính thực tiễn và tính khái niệm.
Khi đề cập tới lý trí, thì dễ dàng nhận thấy là "lý trí” ngày càng bị
giới hạn tới mức nào theo nghĩa "hợp lý của phương tiện" (instrumental
rationality). Tiến trình này càng rõ hơn bởi sự thật là công nghệ không
chỉ cho thấy tầm phát triển vật chất, mà còn mở rộng ảnh hưởng toàn
diện của nó tới nhiều phương diện cuộc sống, chẳng hạn như kinh tế,
chính trị, đạo đức, tôn giáo hoặc thẩm mỹ.
Bài viết này thử khám phá vấn đề công nghệ và các giá trị nhân văn từ
quan điểm Phật giáo. Câu hỏi chính là: đâu là nguồn cội cốt lõi tiêu
chuẩn chứa đựng những chỉ dẫn căn bản cho các vấn đề lý trí và công
nghệ? Cách nào là khả thi để trả lời một cách có phê phán đối với thực
tiễn công nghệ đang tồn tại trong xã hội Phật giáo?
Công nghệ, lý trí và các giá trị nhân văn
Trong nửa đầu của thế kỷ XX, Haiđơgơ đã cảnh báo chúng ta về ảnh
hưởng rộng khắp của công nghệ trong cuộc sống hiện đại. Công nghệ hiện
đại không chỉ cho phép sử dụng triệt để các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, mà còn đặt toàn bộ năng lượng của tự nhiên vào tầm sử dụng mọi
lúc của con người. Theo Haiđơgơ, chiếc cối xay gió cũ kỹ không phải là
biểu hiện của công nghệ hiện đại bởi vì sức gió chỉ có khi có gió. Sức
gió hoàn toàn nhờ vào lúc gió thổi. Cối xay gió không khởi động được
năng lượng từ các dòng không khí để từ đó có thể tích trữ sức gió(2).
Nhưng công nghệ hiện đại đã tạo ra hoàn cảnh mà "ở mọi nơi, gọi đến cái
gì cũng sẵn sàng phục vụ ngay lập tức, thực ra sẵn có ở mọi nơi để có
thể được gọi đến bất kỳ lúc nào và làm bất cứ việc gì. Sẵn sàng đáp ứng
mọi yêu cầu là cách mà sự phục vụ có được vị trí riêng của nó. Chúng
ta gọi đó là dịch vụ tận nơi . . .
Mọi dịch vụ, ngay cả theo nghĩa
dịch vụ tận nơi, không còn cản trở chúng ta như là những đối
tượng"(3). Băng chuyền công nghệ vận hành đã mở chốt khoá và đặt tất cả
năng lượng tự nhiên vào thế sẵn sàng chờ sự sử dụng của con người và
'điều này trở thành điều kiện cho sự tồn tại của đời sống hiện đại.
Toàn bộ sự vận hành này rất rộng, nếu nhìn nhận một cách đơn giản thì
khó có thể thấy hết được thế giới vật chất như là sự sắp xếp của thế
giới các đối tượng. Băng chuyền sức lao động của con người được đặt vào
trong các tổ chức quyền lực, nhà máy, giao thông, thông tin, giáo dục,
dịch vụ sức khoẻ, giải trí khác nhau . . . chỉ càng làm phức tạp thêm
vấn đề phương tiện và mục đích, nếu rốt cuộc cũng nói tới vấn đề đó. ý
nghĩa của từ "lao động” hay "hoạt động” với con người làm trung tâm đã
bị thế chỗ bằng từ "lao động", "đội ngũ kỹ thuật", "người quản lý" với
nghĩa chức năng tổ chức, cơ cấu điều hành và các thủ tục, mà về bản
chất, chúng đã gắn với quá trình sản xuất, kỹ thuật, phân phối hàng hoá
và dịch vụ. Chế độ công nghệ phức tạp đã tạo ra một thế giới các
phương tiện đầy quyền năng tới mức làm nổi lên "sự chấp nhận ngược -
điều chỉnh lại mục đích của con người cho phù hợp với đặc điểm của các
phương tiện có được"(4)
Bên cạnh vấn đề phương tiện và mục đích
cuối cùng, vấn đề cốt yếu nhất là lý trí công nghệ với tư cách trọng
tài phân xử "cái gì là hiệu quả" đã nghiễm nhiên trở thành sự phán xét
"cái gì là có ý nghĩa". Cái có ý nghĩa, về cơ bản, là cái có ý nghĩa
kinh tế. Jean Francois Lyotard giải thích mối quan hệ sâu kín giữa công
nghệ, bằng chứng và tính toán kinh tế như sau:
"Kỹ thuật ban đầu như là sự viện trợ thêm từ bên ngoài cho các chức
năng của con người, hoặc như các hệ thống phisiological tâm lý mà chức
năng của chúng chỉ là nhận dữ liệu hay xác định điều kiện và nội dung.
Chúng tuân theo một nguyên tắc, đó là nguyên tắc vận hành tốt nhất: đầu
ra tối đa (thông tin hay các thay đổi kèm theo) và tối thiểu đầu vào
(năng 'lượng chi cho toàn bộ quá trình vận hành). Kỹ thuật, do vậy, là
một trò chơi không chỉ thích hợp với chân, thiện, mỹ, mà còn thích hợp
với hiệu quả: một "thao tác" kỹ thuật được coi là tốt khi nó sử dụng
tốt hơn và tiết kiệm năng lượng hơn thao tác khác.
Phần cuối “ Luận đề về phương pháp” của Đềcáctơ cũng đặt câu hỏi về
tiền chi cho phòng thí nghiệm. Một vấn đề mới nảy sinh: các phương sách
đang làm cho sự thể hiện con người thân xác đạt tới mức độ lạc quan
nhất khi nó đạt được mục đích tạo ra thêm thách thức và nhu cầu tiêu
dùng. Không có tiền, không có bằng chứng và điều đó có nghĩa là không
có sự đa dạng và không có chân lý. Trò chơi của ngôn ngữ khoa học trở
thành trò chơi làm giàu, trong trò này kẻ nào giàu nhất thì kẻ đó có cơ
hội tốt nhất để trở thành kẻ đúng nhất. Như thế, sự bình đẳng giữa
giàu có, hiệu quả và chân lý được thiết lập"(5).
Theo nghĩa này, phạm vi chân lý bị đặt vào trong phạm vi của khoa học
- kỹ thuật. Phạm vi của khoa học - kỹ thuật bị đặt vào trong phạm vi
tính toán kinh tế. Hàm nghĩa quan hệ giữa khoa học - chân lý - kỹ thuật
với tính toán kinh tế càng mạnh thì các giá trị nhân văn càng trở
thành vấn đề. Khi các giá trị nhân văn trở thành sự phán quyết cuộc
sống tốt đẹp và đúng như là một cộng đồng, thực hiện như là "mục đích"
của cuộc sống, thì sự mất đi lý trí và cái bẫy lừa của nó trong phạm vi
khoa học - kỹ thuật lại tạo ra điều kiện cho các phương tiện, hướng
tới chọn cái "hợp lý,, như là sự phán quyết có quyền lực hơn về việc con
người phải định hướng cuộc sống của mình như thế nào. Nói cách khác,
câu hỏi "như thế nào" trong lĩnh vực đạo đức đã bị che khuất bởi câu
hỏi "như thế nào" của lĩnh vực công nghệ. Và câu hỏi "như thế nào" của
lĩnh vực công nghệ lại vốn xuất phát từ câu hỏi về sự giàu có. Trong
thời đại toàn cầu hoá công nghệ này, giàu có vừa là phương tiện, vừa là
mục đích của cuộc sống. Với tư cách phương tiện, nó là bản chất đối
với mọi thực tiễn của khoa học - kỹ thuật, như là "sự thật" đang tạo ra
tiến trình làm giàu. Với tư cách mục đích, nó trở thành nguyên tắc
chính thống cho phạm vi công nghệ, khi nó là chiếc máy tạo ra sự giàu có
một cách thành công nhất. Bill Gates trở thành giàu có hơn bất kỳ một
ông vua, bà chúa nào.
Một khi lý trí còn liên hệ chặt chẽ với chân lý và chân lý còn được
phát hiện, diễn giải thông qua công nghệ, thì quan hệ giữa lý trí và
công nghệ còn cần phải được phân biệt rõ. Giáo sư Jerry Weinberger, Chủ
nhiệm Hội nghị Các khoa học cụ thể, lý trí và dân chủ hiện đại đã giải
thích rất thuyết phục về mối quan hệ giữa lý trí và công nghệ. ông cho
rằng, "... công nghệ hiện đại không hoàn toàn là những chiếc máy và kỹ
thuật mà chúng ta phải chịu đựng, phá huỷ hay làm chủ chúng như là tập
hợp các phương tiện thuần tuý vô tính khiến cho chúng ta đánh mất nhân
tính của mình. Công nghệ không phải là tập hợp các sức mạnh vật chất mà
chúng ta cần để làm mọi thứ.
Đúng ra, đó là tư duy, là cái tạo ra
các hình thái của cuộc sông. . . Thế giới hiện đại được định thành
khuôn mẫu và sống theo lý trí, inh phẩm chất tốt của nó được minh hoạ
bằng khoa học tự nhiên khách quan. Nhưng khoa học hiện đại trong bản
chất có tính công nghệ và do vậy, nó thừa nhận những tiêu chuẩn được coi
là "thật" chỉ khi điều đó có thể đoán trước được, có thể tính toán
được và có thể thao tác được. Do vậy, khi định nghĩa về thời đại của
chúng ta, lý trí khoa học đã bóp méo cả hiện tượng cuộc sống. Trong thế
giới công nghệ, sự sùng bái và lòng tin, sự trung thành và tính cộng
đồng, nghệ thuật và tất cả các khả năng gây ngạc nhiên cũng như chán
ghét đều không còn và bị che đậy. Thời đại công nghệ này được đặc trưng
bởi chủ nghĩa hư vô (nihilism) với cách nhìn cho rằng, cái gì không
khớp với bản thể luận của lý trí công nghệ thì chỉ đơn giản vì nó không
như thế. Đối với chủ nghĩa hư vô, cái không giải thích được bằng khoa
học thì thuộc về giá trị chủ quan và nó không phải là thực tại khách
quan nhưng lại thuần túy có tính tương đối với sự toàn quyền tự do lựa
chọn đối với hoàn cảnh lịch sử. Điểm quan trọng nhất là, trong thời đại
chủ nghĩa hư vô, mọi thứ dù là khách quan hay chủ quan, hoặc thiêng
liêng đều được đối xử như là những thứ có thể dùng và tận dụng"(6).
Còn nhiều điểm cần bàn thêm. Trước hết, Haiđơgơ đã nhấn mạnh, công
nghệ học không chỉ đơn giản thuộc phạm vi phương tiện, đó là cách tư
duy tạo nên "hình thức cuộc sống hiện đại". Điều này chỉ rõ rằng, công
nghệ học không chỉ là "thông tin" về cuộc sống hiện đại, mà đó chính là
hình thể và tổ chức của bản thân cuộc sống hiện đại. Thứ hai, cuộc
sống này tồn tại nhờ vào lý trí, được định nghĩa chủ yếu trong phạm vi
"khách quan" của vương quốc khoa học tự nhiên. Tiến trình này của lý
trí chủ yếu có tính công nghệ khi mà khoa học hiện đại thu được thành
tựu cơ bản thông qua sự định lượng thế giới tự nhiên bằng công cụ. Vậy
nên, tính hợp lý của các công cụ, lý trí khoa học, lý trí công nghệ,
tất cả đều thể hiện biến số chung của các phương tiện; giới hạn của các
ý nghĩa này là đều dẫn tới cái gọi là "khách thể". Phạm vi của những ý
nghĩa này trở thành cái phán xét vĩ đại đối với "cái gì đang tồn tại"
hoặc "cái gì là thực". Những phương diện khác thuộc kinh nghiệm của con
người nếu không thể đo lường được bằng công cụ thì bị lược bỏ mất giá
trị từ thức luận và do vậy, mang cái nhãn "chủ thể". Phạm vi "chủ thể"
này bị tước mất hiệu lực pháp lý của nó, bị loại khỏi phạm vi lý trí. Do
vầy, quá trình quy giản lý trí thành "sự hợp lý" của công cụ trở thành
một vòng tròn. Cuối cùng, đó là cái mà Weinberger gọi là Thời đại chủ
nghĩa hư vô. .Trong thời đại chủ nghĩa hư vô này, mọi thứ, kể cả khách
quan, chủ quan, thiêng liêng đều được xem xét và đối xử như những thứ
có thể sử dụng và vận dụng. Bây giờ, đến câu hỏi ai là người sử dụng
những đối tượng sử dụng được này, và quá trình sử dụng này phục vụ cho
mục đích gì?
Theo quy trình "lôgíc" này, không ngạc nhiên khi nhận thấy các thuật
ngữ như "sùng kính và niềm tin", "trung thành và tính cộng đồng", "nghệ
thuật" và những khả năng khác thuộc sự nhạy cảm của con người trở
thành "tính đa cảm" hay "thuyết đa cảm". Cái bẫy của lý trí nằm ngay
trong phạm vi công nghệ học, vận hành ngay trong điều kiện dân chủ tự
do. ở họ, những phán xét về giá trị tối hậu không còn là vấn đề thuộc
quyền của nhà nước hay xã hội quyết định cho hay với các thành viên của
nó. Một xã hội dân chủ tự do khả thi nhất là xã hội trong đó cá nhân
quyết định những vấn đề thuộc giá trị tối hậu cho chính mình. Do vậy,
công nghệ học như là đối tượng, như là kiến thức, như là tiến trình và
với danh nghĩa cái gì hợp lý, đã thâu tóm cuộc sống hiện đại trong tính
toàn thể của nó (7).
Sau đây, bài viết sẽ tiếp tục vấn đề từ một góc cạnh khác, xem xét lý
trí và công nghệ theo quan điểm Phật giáo. Chúng tôi sẽ tìm hiểu xem
từ tôn giáo truyền thống vốn được coi là một trong những tôn giáo "hợp
lý" nhất trong các tôn giáo lớn trên thế giới có thể có cách hiểu nào
về vấn đề này. Vấn đề này đặc biệt có ý nghĩa khi hiểu rằng, các nước
Phật giáo không hề né tránh việc du nhập và tăng cường sử dụng công
nghệ theo danh nghĩa phát triển. Hy vọng rằng, sự phát triển vấn đề này
có thể được xem như khởi điểm cho một phân tích bao quát hơn về công
nghệ đối với các nước Phật giáo trong thời đại toàn cầu này.
Phật giáo bàn về lý trí và công nghệ
Thật khó hiểu nếu như không đưa ra được một kết luận rõ ràng về quan
điểm của Phật giáo về khoa học và công nghệ(8). Vấn đề ở đây không chỉ
vì sự thật là những thắc mắc về công nghệ với tư cách một hiện tượng
hiện đại "khiến cho toàn bộ tự nhiên sẵn sàng phục vụ con người" đã
không xảy ra ở thời Đức Phật, mà còn vì chúng ta nghe nói Phật đã tuyên
bố rõ ràng rằng phải vượt qua những kiến thức Người đã dạy. Đây là câu
nói của Phật: "Ta biết nhiều chân lý, nhưng ta không giảng. Những chân
lý đó nhiều như lá trong rừng. Những chân lý mà ta giảng cho chư tăng
thì chỉ như những chiếc lá trong lòng bàn tay ta mà thôi"(9). Nhưng
Phật không nói rõ chân lý nào Người không giảng. Cho nên, theo suy luận
lôgíc không thể kết luận rằng, trong số những chân lý mà Người chưa
giảng chẳng có cái gì về các lĩnh vực khoa học và công nghệ theo cách
hiểu lúc đó. Tuy nhiên, điều có ý nghĩa quan trọng ở đây không phải là
câu hỏi có thực sự là Phật khẳng định "đã không giảng" về kiến thức
khoa học và công nghệ, mà là câu hỏi Người nhìn nhận như thế nào về
những chân lý mà Người đã không giảng, nếu cho rằng khoa học và công
nghệ cũng nằm trong những chân lý mà Phật biết. Phật đã không giảng hết
những điều Người biết, mà cũng không hề nói cụ thể những chân lý nào
Người không giảng, nhưng lại giải thích rõ lý do vì sao không giảng
những chân lý đó. Người nói: "Tại sao ta không giảng những chân lý đó?
Bởi vì chúng không dẫn tới trí tuệ tối hậu, nhằm để hiểu cách thức của
mọi vật hay để điều chỉnh các vấn đề và siêu thoát đau khổ. Những chân
lý này không hướng chúng ta tới đích Niết bàn"(10).
Ở đây, Đức Phật bàn tới mục đích tối hậu, tức là sự giác ngộ với tư
cách nguyên tắc cơ bản hướng đạo cho những kiến thức cần được dạy và cả
những tìm kiếm và học hỏi về sau của các môn đệ.
Trong phạm vi ý nghĩa này, có thể tranh luận rằng kiến thức, chứ
không phải những điều Phật dạy, là không thích hợp với mục đích của
Phật giáo. Cũng có thể nói rằng, Phật giáo nhận thấy có nhiều dạng kiến
thức khác nhau cho những mục tiêu khác nhau. Phật đã có ý chọn lựa,
tính đến mục đích đáng được theo đuổi nhất và Người động viên các Phật
tử chỉ theo đuổi kiến thức phù hợp với mục đích đó.
Trong một dịp khác, Phật từ chối trả lời những câu hỏi thuộc về siêu
hình học và dẫn ra một ví dụ loại suy về mũi tên có tẩm thuốc độc rất
nổi tiếng để bảo vệ quan điểm im lặng của mình trước những câu hỏi siêu
hình(11). Theo cách nhìn này, có thể tranh luận rằng không chỉ kiến
thức công nghệ học, mà cả siêu hình học đều không phù hợp với mục đích
của Phật giáo. Trong một dịp khác, khi các môn đồ của Phật tranh luận
sôi nổi về các môn nghệ thuật, họ chất vấn nhau rằng, "Ai là người thực
sự có khả năng nhất về các môn nghệ thuật? Ai có thể học được các môn
nghệ thuật nào? Môn nghệ thuật nào là tinh tuý nhất trong tất cả các môn
nghệ thuật? Có nhà sư cho rằng, huấn luyện voi là cao nhất; người khác
lại cho rằng, huấn luyện ngựa; trong lúc đó, có nhà sư lại chọn thuật
điều khiển xe ngựa kẻo, thuật bắn cung, vũ khí, thuật đếm bằng ngón
tay, toán học, thống kê, viết văn, làm thơ, thuật kể chuyện hấp dẫn và
làm luật"(12). Rồi Đức Phật biết đến cuộc tranh luận đó. Người nói:
"Những vấn đề này chẳng xứng để các Phật tử chân tu phải tranh luận.
Khi mọi người cùng nhau thì chỉ nên bàn luận hai điều. Hoặc là về Phật
pháp (dharma), hoặc là toạ thiền như Phật làm". Người giảng tiếp: "Chư
tăng là những người có ít gánh nặng với đời, có thể cống hiến bản thân
cho xã hội. Hãy làm chủ sáu giác quan để không còn tái sinh. Đừng bao
giờ quyến luyến nơi nào, thuộc về đâu, thuộc về một hy vọng nào. Rũ bỏ
vô minh. Suy ngẫm một mình. Đây là những hoạt động của các tăng
sĩ"(13).
Mặc dù hầu hết các môn nghệ thuật kể trên không trực tiếp liên quan
tới câu hỏi về công nghệ, nhưng điều thú vị là phần lớn, nếu không nói
là tất cả các môn nghệ thuật đó đều thuộc về nghệ thuật của giai cấp
thống trị, chứ không phải là kỹ thuật sản xuất của người lao động bình
thường. Dường như các nghệ thuật sản xuất không được coi là giá trị cao
nhất hay đòi hỏi kỹ năng đặc biệt, cho nên không được các nhà sư bàn
đến. Nhưng câu trả lời của Đức Phật lại rất rõ ràng. Người không coi
những thứ thuộc nghệ thuật là chủ đề thích hợp để các nhà sư tranh
luận. Họ cần phải mưu cầu mục tiêu "cao cả hơn", cống hiến bản thân cho
xã hội và kiểm soát các giác quan của mình, không phí thời gian bàn về
những vấn đề liên quan đến nghệ thuật.
Nếu sử dụng trích đoạn này
để đánh giá quan điểm của Phật về vấn đề công nghệ, thì gợi ý nào là
hợp lý? Trước tiên, mặc dù tiến trình sản xuất thời xưa hầu hết đã có
liên quan tới "công nghệ", chẳng hạn như kỹ năng trồng lúa, hoa màu,
thủy lợi và phân bón, nhưng đã không được các nhà sư nhắc đến trong
cuộc tranh luận với nhau. Tuy nhiên, chúng ta có thể suy ra từ những
nghệ thuật đã được nhắc đến, chí ít là điều khiển xe ngựa kẻo, bắn cung
và vũ khí có liên quan trực tiếp đến công nghệ. Thứ nữa, không rõ lý
do tại sao Phật không khuyến khích cuộc tranh luận này. Có phải câu hỏi
tìm xem môn nghệ thuật nào "cao nhất" là không thích hợp hay không thể
khẳng định được? Hay vì tính phi đạo đức của một số môn nghệ thuật
liên quan đến kỹ năng tiêu diệt? Nhưng điều gì có thể là sai đạo đức đối
với các môn như toán học, thống kê? Chẳng phải là nghệ thuật nói
chuyện hữu ích cho việc truyền bá Phật pháp đó sao? Tất cả những câu
hỏi như thế đều không được Phật trả lời. Trái lại, Người khuyên đệ tử
của mình đừng tốn thì giờ vào những cuộc tranh luận như vậy.
Có người tranh luận rằng, lời khuyên của Phật có ý chỉ dành cho tăng
sĩ. Sự khuyên can của Người không đề cập tới đại đa số người thường,
những người không thể không đụng tới một nghệ thuật nào đó. Theo tôi,
vấn đề không phải là có đúng Phật chỉ khuyên tiếng các nhà sư hay
không, mà là ở chỗ Phật giáo đã thừa nhận rằng có nhiều loại kiến thức
khác nhau dành cho những mục đích khác nhau. Hơn nữa, Phật giáo đã có
sự lựa chọn một cách có ý thức để theo đuổi mục đích tối hậu và đến
lượt nó, mục đích tối hậu đó lại là nguyên tắc để xác định cần phải
theo đuổi loại kiến thức nào.
Một điểm quan trọng nữa cũng phải chỉ
ra là lý trí không được coi như một trong những con đường dẫn tới mục
đích tối hậu. Theo kinh Kalama, cả suy lý lẫn lôgíc đều được xếp vào
danh sách mười nguồn gốc tín ngưỡng của rất nhiều người, nhưng uy tín
của chúng với tính cách cơ sở tín ngưỡng lại cần được xem xét kỹ lưỡng
hay làm rõ thêm qua kinh nghiệm trực tiếp(14). có thể là quá mức khi nói
rằng Phật giáo không tin vào lôgíc và lý trí, nhưng rõ ràng, chỉ lôgíc
hay lý trí không thể là cơ sở cho tín ngưỡng. Người ta đã biết rằng,
ngay cả tín ngưỡng đúng hay mềm tin đúng cũng không được đưa vào danh
mục Bát Chính Đạo. Trong Phật giáo, chỉ có chính kiến, chứ không phải
chính tín ngưỡng hay chính lý trí, mỗi người có thể theo Bát Chính Đạo
đó để tới giác ngộ cuối cùng. Theo nghĩa này, có thể nói rằng trong
Phật giáo, "lý trí" được hiểu một cách quy ước là cần phải được kiểm
chứng lại về mục đích tối hậu. Cái dường như là hợp lý trong quy ước
chung thì lại không "hợp lý" trong khuôn khổ được xác định bởi mục đích
tối hậu của Phật giáo. Những tranh luận này cho chúng ta thấy rằng,
trong Phật giáo, để trở thành cái "hợp lý" khi đề cập tới tri thức, dù
bản chất của nó có tính công nghệ hay tính siêu hình, thì cũng cần phải
bắt đầu từ việc xem xét mục đích tối hậu, trong đó cốt lõi bản chất là
sự độc lập của hệ thống quy ước về tính hợp lý đang tồn tại. Mục đích
tối hậu đó được sử dụng như là nguyên tắc chỉ đạo việc quyết định lựa
chọn tổ thức nào. Chỉ trong hệ thống các giá trị riêng biệt xuất phát
từ mục đích tối hậu thì câu hỏi về sự lựa chọn của con người và các giá
trị nhân văn mới được đặt lên trên hết. Theo cách này, có thể hiểu tại
sao lý trí và lôgíc được dùng như là cơ sở cho cả sự quy ước tín ngưỡng
lẫn tín ngưỡng theo quy ước lại trái ngược với Phật giáo, kể cả truyền
thống, kinh điển, lời đồn đại...(15). Mức độ rộng rãi mà quy ước của
cuộc sống hiện đại định hình bởi lý trí công nghệ đã khẳng định một sự
thật là, không thể dùng quy ước đang tồn tại như một trọng tài để phân
định cái gì là hợp lý hay cái gì hợp thành lý trí.
Tự do và hạnh phúc, Phật giáo và công nghệ
Từ kết luận trên, có thể nói rằng, khoa học và công nghệ không thích
hợp với mục đích tối hậu của Phật giáo. Nhưng như vậy có phải là Phật
giáo phủ định hay kết tội công nghệ không? Trong những thế kỷ qua, hơn
bất cứ cái gì, công nghệ là yếu tố chủ chốt trong việc giải phóng con
người khỏi công việc khó nhọc hàng ngày. Máy móc tiết kiệm sức lao
động, các công cụ gia dụng ngày càng dễ sử dụng với hàng ngàn cách thức
khác nhau chỉ cần nhấn ngón tay đã được sản xuất và mọi người đều có
khả năng sử dụng. Theo ý nghĩa tích cực này, công nghệ đã đem lại "tự
do" cho nhiều người. Vấn đề hạnh phúc của con người, trên phương diện
khác còn phức tạp hơn. Trên bề mặt của các sự kiện thì có thể khẳng
định rằng, dựa trên quá trình sản xuất ra nhiều sản phẩm, tạo ra nhiều
hàng hoá và phục vụ đại chúng, sự thoả mãn hay không hài lòng của họ
chủ yếu dựa trên khả năng của hàng hoá và những dịch vụ đó. Tuy nhiên,
trên một mức độ khác, Thoma~s Hobber, một trong những người sáng lập tư
tưởng chính trị hiện đại, cho rằng điều hấp dẫn là sự thoả mãn và hạnh
phúc của con người. M.Arthur Melzer viết: "Điều quan trọng đáng chú ý
là tư tưởng hiện đại bắt đầu chủ yếu bằng sự bác bỏ khả năng hạnh phúc
hay summum bon um ("điều tốt đẹp vĩ đại"). Giống như Hobber khẳng định
trong một câu nổi tiếng, "Sự thoả mãn của cuộc sống này, không phải đáp
ứng cái tâm được thoả mãn. Bởi vì không có sự thoả mãn hết cỡ, mục
đích tối đa, cũng chẳng có summum bon um, điều thiện vĩ đại như trong
sách vở của các triết gia... Sự thoả mãn là một quá trình liên tục của
những ham muốn, hết thứ này đến thứ khác; có được thứ này rồi nhưng vẫn
còn muốn thứ khác nữa" (Leviathan, P.80). Chẳng có thứ gì thuộc về sự
sở hữu có thể đem lại sự hài lòng. Do vậy, có được sự "thoả mãn" thì sự
sung sướng lại thiên về trạng thái chạy từ mục tiêu này sang mục tiêu
khác, nhưng vẫn không phải hạnh phúc - không có sự bằng lòng, không có
điểm dừng cuối cùng. Cuộc sống là bất tận những ham muốn và thèm
khát"(16).
Mặc dù người ta có thể sánh "vừa lòng, điểm dừng cuối cùng" trong
đoạn văn này với Niết bàn trong tư tưởng của Phật giáo. Nhưng theo quan
điểm của Hobber, có sự phân biệt rõ ràng giữa sung sướng và hài lòng.
Sung sướng luôn là khả năng, nhưng chỉ thoáng qua. Hài lòng không phải
là khả năng. Dường như đó là kiểu sung sướng có thể tạo ra được bằng
công nghệ thông qua tiêu dùng hàng hoá, chỉ là giây phút tho.áng qua
không bao giờ có thể tạo ra được sự thoả mãn thực sự. ở Phật giáo, sự
phân biệt này được diễn đạt bằng các thuật ngữ chỉ sự khác nhau giữa
hạnh phúc vật chất (amisa-sukha) và hạnh phúc tinh thần (nirmisa-
sukha)(17) sẽ là thận trọng hơn khi nói rằng, Đức Phật không miệt thị
hạnh phúc vật chất một cách tuỳ tiện. Trong một buổi giảng kinh thời kỳ
đầu, có một phần bàn luận về sự kế thừa vật chất (amisa- dayada) và sự
kế thừa tinh thần (dhamma-dayada). Một đệ tử của Phật tỏ rõ trạng thái
khó chịu vì phải ăn chay và từ chối không ăn những thức ăn Phật để
lại, bởi người đó tin rằng một đệ tử thực sự không thể là người kế thừa
sự sở hữu vật chất của Phật. Phật không coi đó là một cách ứng xử
thích hợp. Nhận xét về đoạn này, một học giả hàng đầu về Phật giáo đã
đưa ra quan điểm như sau: "Sự dễ chịu về vật chất hay thể xác tự bản
thân nó thì không thể cấm đoán hay chê trách. Theo Đức Phật, sự tước
đoạt thể xác cũng giống như phá hỏng sự tăng trưởng đạo đức và tinh
thần khi chiều theo sự dễ chịu thể xác"(18).
Nếu công nghệ là cái tạo ra được nhiều sự dễ chịu trong thế giới hiện
đại, thì điều quan trọng ở đây là phải giải thích vấn đề này trong
Phật giáo. Bởi vì, quan điểm của Phật giáo về "hạnh phúc vật chất" tự
nó đã thể hiện quan điểm của Phật giáo về công nghệ. Như cuộc tranh
luận ở trên, thì cũng có thể tranh luận rằng, Phật giáo, về nguyên tắc,
không trái ngược với tiến trình công nghệ, khi những sản phẩm từ công
nghệ có thể giúp giảm bớt sự bóc lột thân xác, sức lao động của nhiều
người. Vấn đề có thể chỉ nổi rõ khi có quá nhiều sự dễ chịu về thể xác,
khi điều này sẽ làm hỏng sự phát triển đạo đức và tinh thần. Sự phân
tích này được hỗ trợ thêm khi nghiên cứu cách nhìn nhận của Phật giáo về
Niết bàn. Trong Niêt bàn của Phật giáo, Giáo sư Steven Collins viết:
"Nơi đó sẽ có các thành phố đông nghịt người, giàu có, phong lưu, an
toàn và thoát khỏi mọi đau khổ, bệnh tật, nỗi buồn. Nơi đó sẽ có sự
sung sướng và vui vẻ triền miên, mọi người đi lại vui vẻ như là lễ hội,
tận hưởng hạnh phúc bất tận... Nơi đó chỉ còn ba loại bệnh: ham muốn,
đói khát và tuổi già"(19).
Theo quan điểm hiện đại, nếu như cách nhìn nhận này về Niết bàn của
Phật giáo là theo hướng vật chất hoá, thì rất khó, nếu không nói là
không thể thực hiện được, khi tưởng tượng rằng các thành phố dày đặc
người mà lại thiếu những thành tựu công nghệ trình độ cao, cũng như
không thể trừ bỏ được hết bệnh tật, vẫn còn ba loại bệnh, mà không cần
tới sự hỗ trợ của tri thức y học dựa trên khoa học. Thậm chí trong thế
giới tưởng tượng này, điều đó là một khả năng hoàn toàn không tưởng,
thì cũng khó có thể loại trừ được vai trò cốt lõi của khoa học và công
nghệ. Và Niết bàn của Phật giáo vẫn chưa phải là mục đích tối hậu khi mà
ở đó, như đã được nói rõ, vẫn còn "ham muốn, đói khát và tuổi già".
Theo nghĩa này thì' có thể nói rằng, những thành tựu có khả năng nhất
của chế độ công nghệ cũng chưa tương xứng, khi chúng vẫn chưa phải là
mối quan tâm cao nhất của Phật giáo, tức là chấm dứt đau khổ. Hạnh phúc
tối hậu của Phật giáo không thể diễn đạt bằng các thuật ngữ "sự sung
sướng, vui vẻ triền miên, mọi người đi lại nhộn nhịp như dự lễ hội".
Bởi vì, ngay ở Niết bàn tưởng tượng của Phật giáo, vẫn còn "ba loại
bệnh: ham muốn, đói khát và tuổi già". Những căn bệnh này không thể cứu
chữa nhờ công nghệ. Công nghệ đã phụng sự để "thoả mãn" không chỉ nhu
cầu mà cả tham vọng của con người. Song, nó không thể đem lại sự siêu
vượt tham vọng. Siêu vượt tham vọng là tiếp tục câu hỏi về tự do. Trong
Phật giáo, thoát khỏi cái bẫy của "tham vọng" thì tự nó đã thể hiện sự
tự do, theo nghĩa siêu hình, từ chiều cạnh ứng xử và tâm lý. Tự do
trong Phật giáo không phải là "tự do" chính trị - xã hội nhằm thoả mãn
ham muốn của riêng mỗi người, mà là sự giải phóng khỏi tham vọng.
Như vậy, theo Phật giáo, thực tiễn công nghệ có thể được ưa chuộng
chừng nào nó còn đóng vai trò tạo ra sản phẩm và dịch vụ giúp làm giảm
sự tước đoạt thể xác, nhưng không có nghĩa là tạo ra sự thoả mãn. Nói
đến cùng, công nghệ có thể không phù hợp với việc theo đuổi mục đích
tối hậu.
Lý trí và công nghệ trong xã hội Phật giáo hiện nay.
Một xã hội tự do dân chủ không nói rõ là quan tâm tới cách nhìn nhận
về "điều tốt đẹp vĩ đại" (summum bon um). Tuy vậy, nếu xã hội Thái Lan
tự khẳng định là một xã hội Phật giáo, nó không thể hoàn toàn bỏ qua
vấn đề "điều tốt đẹp vĩ đại" theo quan điểm Phật giáo. Là một nước đang
phát triển, Thái Lan được xem xét qua chính mức độ hoạt động kinh tế
và công nghệ của mình. Khi tự khẳng định là một vương quốc Phật giáo,
Thái Lan đang tái tìm kiếm, tái khẳng định bản sắc của chính mình, cái
đang bị đe doạ sẽ mai một hay mất dần do những cố gắng phát triển mạnh
mẽ trong năm chục năm qua. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997, những
tiếng nói phê phán chống lại phương Tây, đặc biệt là chống lại nền kinh
tế toàn cầu hoá đã lên tiếng trong giới thương nhân và nhà nước cũng
như trong thông tin đại chúng. Phra Dhammapitaka, một nhà sư có tiếng
về học vấn đã bàn về vấn đề khoa học và công nghệ từ quan điểm Phật
giáo(20). Điều lý thú cần chú ý là, nhà sư này đã phải cố gắng rất
nhiều để phân biệt Phật giáo với các tôn giáo hữu thần và duy linh
khác, cũng như giải thích sự tương tự, gần gũi giữa Phật giáo và khoa
học trước khi bàn về sự không phù hợp của khoa học và công nghệ theo
quan điểm Phật giáo. Sự cần thiết của nỗ lực phân biệt này tự nó đã phản
ánh tập quán "văn hoá" hiện tại của Phật giáo như một tôn giáo được
thực hành không khác với truyền thống linh vật và thần thánh. Theo
nghĩa này, có thể nói, Phra Dhammapitaka cần phải đặt Phật giáo vào
trong thuật ngữ "hợp lý" trước khi dùng Phật giáo như một phê bình khoa
học và công nghệ. Nhà sư này đã phân tích rằng, khoa học và công nghệ ở
xã hội Thái Lan chẳng phải là những phát minh trong nước, chúng là đồ
ngoại nhập. Theo ông, điều này có nghĩa là trí tuệ "lôgíc" và "lý trí"
ham hiểu biết tri thức về thế giới trong người dân Thái Lan đang bị
thiếu. Họ chỉ là "người tiêu dùng công nghệ" chứ không phải "người sản
xuất ra công nghệ"(21). Thay vì sử dụng công nghệ để mở mang cái mà một
dân tộc có thể làm, thì ý nghĩa của công nghệ đối với xã hội Thái Lan
lại chỉ là sự thay thế rất nhỏ trong quy trình sản xuất. Phân tích cơ
cấu chuyển giao công nghệ giữa Thái Lan và Nhật Bản sẽ là sự tham khảo
rõ thêm cho điểm này(22). Tất cả những điều trên nhấn mạnh nhu cầu cấp
thiết cần phải suy nghĩ một cách có phê phán về hướng công nghệ học đối
với xã hội Thái Lan.
Một trong những hướng khả thi nhất để thực hiện sự phân tích có phê
phán là từ Phật giáo, bởi Phật giáo đã từng là nguồn cội văn hoá của
bản sắc dân tộc Thái Lan qua bảy thế kỷ. Tuy nhiên, để thực hiện được
sự phân tích có phê phán đó, điều quan trọng là định hình "tránh xa hai
điều'. Trước hết, cần phải tránh được sự quy ước hiện tại về lý trí,
giá trị và tái thiết lại Phật giáo như một hệ thống lý trí và giá trị
hoàn toàn khác với nguồn gốc cơ bản. Cơ sở đánh giá bị phụ thuộc là
quan trọng theo cả quan điểm nghiên cứu lựa chọn mục đích lẫn quan điểm
tháo gỡ bẫy "lý trí” khỏi văn hoá truyền thống của mình. Thứ hai,
chúng ta cần phát triển một thái độ phê phán từ văn hoá truyền thống
riêng của mình. Bởi vì, văn hoá "truyền thống, dù là Phật giáo hay bất
kỳ một tôn giáo nào khác, đã được tận dụng hay khai thác để giải thích
bản thân chế độ công nghệ. Thái Lan không có loại trừ nào khác khi sử
dụng thể chế tôn giáo để biện hộ cho những chính phủ độc đoán nhằm đẩy
mạnh hơn nữa nỗ lực phát triển. Thái độ thứ hai này là tất yếu, bởi sự
chấp nhận một cách vô lý và mù quáng về bản sắc văn hoá và tôn giáo của
riêng mỗi nước có thể dẫn tới tình trạng "sự thống trị bản sắc"(23),
mà ở đó, tính thống nhất nhóm có thể đi hèn với sự chỉ trích giữa các
nhóm. Nếu như bản sắc không được kiểm tra hay xem xét kỹ lưỡng bằng lý
trí, thì bản sắc không hợp lý sẽ dồn tích thành "từ chối lựa chọn khi
sự lựa chọn hiện diện"(24). Điều này có thể trở thành một tín hiệu của
sự thoái lui trách nhiệm. Trong trường hợp Phật giáo Thái Lan, những
tiêu chuẩn kinh điển của Phật giáo có thể tạo ra những nguồn gốc được
coi như những cơ sở để xem xét và khảo sát kỹ lưỡng tập tục văn hoá của
Phật giáo đang tồn tại trong xã hội Thái Lan.
Kết luận
Những điều kiện cần thiết cho sự phê phán chế độ công nghệ, đặc biệt
vấn đề lý trí và giá trị của nó, thể hiện rõ nhu cầu triển khai một hệ
thống các giá trị độc lập mà giá trị quan trọng nhất là mục đích tối
hậu. Trong phạm vi khuôn khổ hệ thống độc lập của các giá trị, sự thể
hiện khác nhau của "tính hợp lý" có thể được phát triển. Từ đó, người
ta có thể sử dụng hệ thống các giá trị ấy để kiểm tra bản sắc của nó
ngay trong hệ thống đó, vì vậy tự thân bản sắc mới không thể trở thành
hình thức khác của chủ nghĩa tư bản. Khi Phật giáo khẳng định tất yếu
thực tiễn cá nhân để có thể đạt được giác ngộ chỉ trong phạm vi kinh
nghiệm của cá nhân, chứ không phải trong phạm vi hệ thống tượng trưng
của các tư tưởng trong đó lý trí đang ngư trị, thì dường như là hợp lý
nếu nói rằng, Phật giáo đã dựng lên hàng rào phòng thủ chống lại sự
thống trị của lý trí.
Những điều kiện cơ bản cho tư duy phân tích có phê phán về chế độ
công nghệ không bị giới hạn trong xã hội Phật giáo đó. Chúng có thể là
cơ sở để xem xét bất kỳ một xã hội nào đang muốn hướng tới lý trí và
các giá trị nhân văn vượt ra ngoài tính hợp lý của phương tiện và tư
bản công nghệ.
Tác giả: Suwanna Sahta – A nand, Phó giáo sư, Khoa Nghệ thuật, Bộ môn Triết học, Đại học Chalulongkom, Bangkok, Thailand
Người dịch: TS. Hoàng Thị Thơ
--------------------
Chú thích:
(1) Arthur M.Melzer. “The problem with the “Problem ò
Technology”, in Arthur M.Melzer, Jerry Weinberger and M.Richard Zinman
(eds). Technology in Western Political Tradition, Ithaca and London.
Cornell University Press, 1993, p.293.
(2) Martin Heidegger. The Question concerning Technology and Other Essays. New York: Harper Colophom Books, 1997, p.14.
(3) Martin Heidegger. Ibid, p.17.
(4)
Xem: Langdon Winner. Autonomous Technology. Cambridge: Cambridge
University Press, 1977, p.229. trích tõ Albert Borgmann, Technology nd
the Character of Contemporary Life. Chicago and Lodon: The University
Chicago Press, 1987, p.60.
(5) Jean Fransois Lyotard.
The Postmodern Condition: A Report on Knowledge. Manchester: Manchester
University Press, 2004, p.44-45.
(6) Jerry Weinberger. Technology and the Problem of Liberal Democracy. Ibid, p.255.
(7)
Xem phần giới thiệu đầy đủ để hiểu hơn về công nghệ học với nền tảng
tảng triết học của nó trong tác phẩm “Thinking through Technology: The
Path between Engineering and Technology” của Carl Mitcham, Chicago and
London: The University of Chicago Press, 1994. Định nghĩa về công nghệ
học như là “đối tượng, kiến thức và tiến trình”, chương VI, tr.157.
(8)
Bàn sâu về quan hệ phức tạp giữa khoa học và công nghệ là vấn đề vượt
quá tầm kiến thức của tác giả. Nói chung tác giả cho rằng có mối quan hệ
gần gũi giữa hai mảng này. Nói cách khác, khoa học về căn bản có tính
công nghệ. Theo quan điểm này, không chỉ thuần túy là sự vận dụng khoa
học, mà chính là quá trình đòi hỏi tính khoa học luôn dựa vào công nghệ
học như là một công cụ hướng tới chân lý. Xin tham khảo thêm Carl
Mitcham cho ý trích dẫn trên.
(9) Kinh Sisapa, 437 (65).
(10) Kinh Sisapa, Sđd.
(11) Kinh Culamalunkyovada. M.I. 428 (66).
(12) Trường Kinh Sippa Sutta Khuttaga . Tam tạng kinh của người Xiêm. Bangkok: Phật lịch. 2530, Vol 125, pp.156 – 158.
(13) Sđd.
(14)
Kinh Kalama hay Kesaputtiya. A.I. 188 (60). Một đoạn kinh dài nói
rằng: “Này, Kalamas, đừng tin một cách đơn giản vì đã nghe thấy thế… đơn
giản vì đã học được thế... đơn giản vì đã thực hành từ thời xưa… đơn
giản vì được truyền tụng… đơn giản vì có trong kinh sách… đơn giản vì
theo logic…. đơn giản vì quan công việc… đơn giản vì qua suy luận… đơn
giản vì tương ứng với lý thuyết của bạn… đơn giản vì nó dường như đáng
như vậy… đơn giản ngoài niềm tin nơi người thày của bạn”.
(15)
Một số học giả Phật giáo cho rằng sự tin cậy giả tạm vào sư phụ, có
thể tính cả Đức Phật. Có lần Phật hỏi Sariputta, “Đệ tử có tin những gì
ta giảng không?” Sariputta trả lời, “Thưa, con thấy như vậy”. Phật hỏi
tiếp, “Có phải đệ tử nói rằng do tin vào ta không?” Sariputta thưa,
“Con đồng ý không phải vì con dựa vào niềm tin nơi Đấng Như Lai, mà vì
con thấy rõ ràng đối với mình đúng là như vậy”. Kinh Pubbakotthaka,
Sam. SV.220 (78). Xem thêm P.A Payukhu, Toward Sustainable Science: A
Buddhist Look at Trends in Scientific Development. Bangkok:
Buddhadhamma Foundation, 1993, pp. 77 – 78.
(17) Xem
chương viết về “Tự do và hạnh phúc” trong David J.Kalupahana, A History
of Buddhist Philosophy: Continues and Discontinuities. Honolulu:
University of Hawaii Press, 1992.
(18) Sđd., tr.96.
(19)
Steven Collins. Nirvana and Other Buddhist Felicities: Utopias of the
Pali Imaginare. Cambridge: Cambridge University Press, 1998, p.364. Xem
phần giải thích về ba chiều cạnh tự do của Phật giáo trong David.
J.Kalupahana, Sđd., tr.90 – 97.
(20) Phra Dhammapitaka,
Thai People and Technology. Bangkok: Buddhadhamma foundation, Phật lịch
2540; vụ Bhikhu P.A. Payutto, Toward Sustainable Science: A Buddhist
look at Trends in Scientific Development. Bangkok: Buddhadhamma
Foundation, 1993.
(21) Xem: Phra Dhammapitaka, Thai People and Technology. Ibid., p3.
(22)
Xem Walden Bello, shea Cunningham, Li Kheng Poh, A Siamese Tragedy:
Development and Disintegration in Modern Thought. London and New York:
Zed Books Ltd., 1998, chương 4.
(23) Thuật ngữ này do giáo sư Appiah sử dụng trong Amartya Sen, Reason before Identity. Oxford University Press, 1998, tr.21.
Theo: chuaphuclam