(-GALLERY-)Mục đích cao cả của Phật giáo là Niết
bàn. Ngoài Niết bàn và khao khát chứng đắc Niết Bàn, người Phật tử không
tìm kiếm và mong muốn gì khác. Vậy Niết Bàn là gì ? Niết Bàn có tồn
tại, hiện hữu không ? Nếu tồn tại, hiện hữu thì Niết Bàn ở đâu? Nếu tồn
tại, hiện hữu thì với tư cách là cái phản ánh, Niết Bàn là khaí niệm
được rút ra từ bản chất của một tồn tại thực là khái niệm thực, có ý
nghĩa. Nếu không tồn tại, hiện hữu thì cái gọi là Niết bàn chỉ là ảo
vọng do con người tạo ra để tự huyễn hoặc mình. Câu hỏi nữa là tồn tại
hay không tồn tại thì niềm tin vào Niết Bàn có đem đến cho người một giá
trị nào không ? Bài viết sẽ phân tích từng vấn đề.
Muốn
giải đáp những câu hỏi trên đây, điều nhất thiết là phải nắm được tổng
quát triết lý của Phật giáo. Có thể nói toàn bộ triết lý của Phật giáo
dựa trên kinh nghiệm ngộ (The Englightened) mà Phật tổ Như Lai đã đạt
được. Theo Ngài, triết gia dù có kiến thức như thế nào chăng nữa thì
kiến thức phải phát sinh từ kinh nghiệm của chính triết gia, cái kinh
nghiệm đó chính là kiến hay thấy. Phật tổ luôn luôn nhấn mạnh điều này.
Tri phải luôn đi liền với kiến, vì không có caí thấy thì cái biết không
có chiều sâu, không thể hiểu được bản chất của thực tại, của đời sống.
Hiểu biết sâu sắc là hiểu biết tự mình tìm ra. Hệ thống tư tưởng của
Ngài dựa trên cái kinh nghiệm ngộ mà Ngài đã chứng nghiệm sau sáu năm
khổ tu và 49 ngày nhập định dưới cội cây Bồ đề. Tất cả những gì Ngài
dạy, những tư tưởng về vũ trụ, về nhân sinh và thái độ của con người đối
với cuộc đời ... là sự khai mở cái tri giác nội tại mà Ngài đạt được
lúc bấy giờ. Có thể tóm tắt cốt tủy tư tưởng của Phật giáo như sau : Chư
hành vô thường, chư pháp vô ngã, Niết Bàn tịch tịnh. Vạn vật đều vô
thường. Vạn vật đều được tập hợp lại mà thành, đều do nhân duyên chi
phối tạo thành. Duyên hợp thì vạn vật tồn tại, hiện hữu, duyên tan thì
vạn vật không tồn tại, không hiện hữu, vạn vật bị huỷ hoại. Vạn vật luôn
luôn đang trở thành, đang vô thường. Vạn vật đều vô ngã. Vạn vật đều do
duyên nên không có tự tính, không có bản tính của riêng mình, không tồn
tại độc lập. Tất cả đều nương tựa vào nhau, cái này có thì cái kia có,
cái này không có, thì cái kia không có. Không có cái nào tự mình có
được. Không có vật nào là một thực thể riêng biệt, không biến chuyển. Vô
ngã do đó cũng là vô thường. Vô thường là đứng về phương diện thời
gian, vô ngã là đứng về phương diện không gian. Kinh Lăng già viết :
"Tất cả các sự vật đều không có tự tính vì rằng chỉ có một sự tương tục
ngay liền không gián đoạn và những biến đổi từ trạng thái này sang trạng
thái khác được quán thấy khắp hiện hữu. Nếu có tự tính không bị ảnh
hưởng của sự thay đổi và biến hóa thì cái dòng sinh hóa này của vũ trụ
không bao giờ xảy ra". Do nhân duyên tác động, sự biến hóa trở thành
liên tục, tuyệt đối nên vạn vật chỉ là hư ảo, không có vật nào tồn tại
vĩnh viễn. Không thực có sinh, có diệt, có sự vật này, có sự vật kia.
Sinh là diệt, diệt là sinh. Do nhân duyên thế giới trở thành vô thủy vô
chung, không đầu không cuối. Vạn vật vô thường, bất định và chỉ có sự
biến đổi vô thường bất định này mới là chân thực, vĩnh viễn, thường
hằng. Bản chất chân thực của thế giới là vô thường vô ngã nhưng con
người lại vô minh, không nhận ra chân tướng của thực tại đó. Con người
không thấy được thân xác ngũ uẩn của nó cũng là vô thường vô ngã, cũng
bị định luật nhân duyên chi phối, nên con người tham, sân, si. Tham là
muốn chiếm đọat làm của riêng, sở hữu riêng cho mình. Sân là giận dữ,
thù hận, ganh ghét vì không đạt được ý muốn. Si là u mê, tăm tối chạy
đuổi theo những giá trị hão huyền do vô minh tạo ra. Vô minh dẫn tới ái
dục. Vô minh và ái dục dẫn dắt con người nên đời người là khổ, sống là
khổ. Kinh Pháp cú viết : "Không có lửa nào như lửa tham, không có ngục
tù nào như lòng sân, không có lưới nào như Vô minh, không có dòng sông
nào như ái dục"(Kinh Pháp cú - Thích Minh Châu, Thành Hội PG TP HCM ấn
hành, 1986, tr.23). Do ái dục con người hành động và hành động tạo thành
nghiệp và nghiệp đưa con ngời quanh quẩn trong luân hồi : sinh rồi
chết, chết rồi tái sinh, tái sinh rồi chết. Sinh ra làm người làm súc
sinh, làm ngạ quỷ hay A tu laẨ là tùy thuộc vào hành động của chúng ta.
Tu đạo là để chấm dứt vòng luân hồi sinh tử, để thoát ra khỏi vòng sinh
tử tử sinh triền miên vô hạn, để đạt tới Niết bàn.
Câu hỏi
được đặt ra ở đây là : Niết bàn với tư cách là sự chấm dứt vòng luân
hồi, thì nó là không gian thực hay là cái gì ? Nếu nó là không gian thực
thì Niết bàn ở đâu ? Kinh Milida - Pananà viết : "Không có nơi nào nhìn
về hướng Tây, hướng Nam, hướng Đông, hướng Bắc, phía trên, phía dưới
hay phía ngoài mà có thể nói là Niết Bàn ... như lửa, không phải được
tích trữ một nơi đặc biệt nào, nhưng khi hợp đủ điều kiện thì lửa phat
(1) sinh. Cũng thế ấy ta không thể nói là Niết Bàn ở đâu nhưng khi đạo
đủ duyên đầy thì quả Niết Bàn được thành tựu (Đức Phật và Phật pháp -
Nhà xuất bản Thuận Hoá và Thành Hội PG TP HCM ấn hành 1994, tr.474).
Kinh Đại Niết Bàn cũng viết : "Trong Niết Bàn không có mặt trời, mặt
trăng, tinh tú, lạnh, nóng, gió, mưa, sanh, già, bệnh, chết, 25 cõi Ẩ.
Niết Bàn như vậy là chỗ Như Lai ở thường không biến đổi". (Kinh Đại Niết
Bàn tập 1 Thành Hội Phật giáo TP HCM ấn hành 1994, tr. 122-181). Lời
giải thích của Đức Nàgasenna và của chính Đức Phật cho ta thấy Niết Bàn
không phải là không gian thực, tức là một nơi chốn nào đó, không phải là
một cảnh trời nào đó, và Niết Bàn cũng không ở đâu cả. Nếu như vậy, thì
phải chăng Niết Bàn là hư vô, là không thực có. Phật giáo đưa ra câu
chuyện như sau : Lâu lắm cá mới gặp lại rùa. Cá hỏi :
- Chào chị rùa, chị đi đâu mà lâu rồi tôi không gặp ?
- A , chào chị cá. Tôi đi chơi ở trên đất khô - Rùa trả lời.
-
Đất khô à ? Cá ngạc nhiên - chị nói đất khô, vậy đất khô là cái gì ?
Đất làm sao mà khô được ? Tôi chưa khi nào thấy đất màkhô. Đất khô chắc
là không có gì hết.
- Chị muốn nghĩ vậy cũng được - Rùa đáp - Tuy nhiên tôi đã đi chơi ở đất khô thật.
- Này, chị rùa, chị nói lại coi. Đất khô mà chị nói ra làm sao, giống như cái gì ? Nó có ẩm ướt không ?
- Không, đất khô không ẩm ướt.
- Đất khô có mát mẻ êm dịu dễ chịu không ?
- Không, đất khô không mát mẻ, êm dịu và dễ chịu.
- Đất khô có trong suốt và ánh sáng rọi xuyên qua được không ?
- Không, đất khô không trong suốt và ánh sáng cũng không rọi xuyên qua được.
- Đất khô có mềm mại và dịu dàng để mình bơi lội trong ấy được không ?
- Không, đất không mềm mại và không bơi lội trong lòng nó được.
- Đất có di chuyển và trôi thành dòng không ?
- Không ,đất không di chuyển và trôi thành dòng.
- Đất có nổi sóng và tạo thành bọt không ?
- Không, đất không nổi sóng và cũng chẳng tan thành bọt.
Cá cười vang và khẳng định với rùa :
-
Tôi hỏi cái gì, chị cũng khẳng định là không : đất không ẩm ướt, không
mát mẻ, dễ chịu, không trong suốt và ánh sáng không xuyên qua được,
không di chuyển và trôi thành dòng, không nổi nóng và không tan ra thành
bọt. Như vậy, cái mà chị gọi là đất khô, đó chỉ là hư vô, không có
thật, không có cái gọi là đất khô.
Câu chuyện trên cho
thấy Phật giáo khẳng định Niết Bàn là có thật. Niết Bàn không phải là hư
vô. Nhưng Niết Bàn có thật mà không ở đâu cả, không là không gian thật,
không là nơi chốn hay cảnh trời nào đó trong vũ trụ, thì Niết Bàn là
cái gì ?
Nghiên cứu các kinh Udanna Itivuttaka và kinh
Đại Niết Bàn cho thấy: Theo Phật Tổ Như Lai khi vô minh và ái dục dẫn
dắt và làm chủ con người thì con người không thể làm chủ thực tại như nó
là mà chỉ có tri thức về thực tại. Con người bị chấp chặt vào tri thức
đó, bị dính mắc và bị chúng điều khiển. Con người tạo nên khổ đau cho
chính mình và cho tha nhân. Kinh Đại Niết Bàn viết : " Kẻ nào bị ái dục
thiêu đốt, bị ái dục áp đảo, bị mù lòa vì nó, kẻ ấy có những ý định tai
hại cho chính mình, cho người khác, cho cả mình lẫn người và kinh nghiệm
những khổ đau nội tâm, phiền não" (Kinh Đại Niết Bàn, tập 1, Thành hội
Phật giaó TP HCM ấn hành 1994, tr.122-181). Muốn xóa bỏ ái dục thì thực
tại phải được nhận thức như nó là. Khi thực tại được nhận thức như nó là
thì vô minh và ái dục bị tiêu diệt và giác ngộ phát khởi. Giác ngộ là
giác ngộ thực tại của thế giới hiện thực. Kinh Đại Niết Bàn viết :
"Kẻ
nào nhìn được chân tướng của sự vật với tuệ giác, kẻ ấy không còn ham
muốn sự hữuẨ.bằng sự tận diệt mọi ham đắm mà có sự bất tham, sự đình chỉ
ở mọi khía cạnh Niết Bàn"( Kinh Đại Niết Bàn, tập 1, Thành hội Phật
giaó TP HCM ấn hành 1994, tr. 122-181).
Như vậy Niết Bàn là tận
diệt vô minh hay tri kiến sai lầm về thực tại, tận diệt ái dục hay mọi
tham đắm do vô minh đưa lại. Niết bàn là chấm dứt tham, sân, si, chấm
dứt vòng sinh tử luân hồi do vô minh và ái dục dẫn dắt. Niết Bàn là tuệ
giác về thực tại, là sự giác ngộ viên mãn, là nhận chân đúng thế giới
như nó là, là chấm dứt dòng lưu chuyển gây đau khổ và sự bám víu vào tri
kiến sai lầm. Kinh Tạp A Hàm viết :"Niết Bàn là gì, hỡi đạo hữu ? Sự
tận diệt tham, tận diệt sân, tận diệt si. Đó, này đạo hữu, gọi là Niết
Bàn" (Đức Phật và Phật pháp , NXB Thuận Hoá và Thành Hội PG TP HCM ấn
hành 1994, tr. 467). Sir Edwin Arnorl cũng viết :"If any teach Nirvana
is to cease, say unto such they lie, if any teach Nirvana is to leave,
say unto such they err, not knowing this. From a metaphysical stanpoint
Nirvana is deliverance from suffering. From a psychological standpoint
Nirvana is the eradication of egoism. From an ethical standpoint Nirvana
is destruction of lust, hatred, and ignoranca"(The Light of Asia or The
Great Renunciation By Sir Edwin Arnorl London 1948, tr. 153) (Tạm dịch
Nếu có ai dạy Niết bàn là chấm dứt, hãy nói rằng họ đã dối lừa. Nếu có
ai dạy Niết Bàn đang sống đó, hãy nói rằng họ đã sai lầm. Không biết
điều này. Về phương diện siêu hình Niết Bàn là sự giải thoát khỏi khổ
đau. Về phương diện tâm lý, Niết Bàn là tiêu diệt lòng ích kỷ. Về phương
diện đạo đức, Niết Bàn là diệt bỏ tham sân si). Niết Bàn như được miêu
tả trên đây là một đạo quả, chứ không phải là không gian vật lý, hay
dạng tồn tại bản thể nào. Nó là trạng thái tinh thần mà bằng trí tuệ rốt
ráo con người đạt được, là sự thành tựu tối thượng của sự chuyển hóa
của nhận thức. Vậy trong trạng thái Niết Bàn, trong trạng thái đã tận
diệt tham sân si, đã chấm dứt luân hồi, đã diệt bỏ vô minh và ái dục,
con người sống như thế nào ?Muốn đạt đến Niết Bàn trước hết và trên hết
phải lắng đọng mọi hoạt động của thân, khẩu, ý. Phải dứt bọ mọi sự quyến
luyến dínhmắc vào các dạng cảm thọ, các khoái cảm giác quan do vô minh
đưa lại. Phải tiến hành thiền định (Dhyana) . Thiền định là con đường
đưa con người vào Niết Bàn giải thoát. Trong trạng thái thiền định con
người thấy rõ chân bản của thế giới. Thế giới muôn sai ngàn khác, với
các sự vật hiện tượng khác nhau ở hình tướng, nhưng đồng nhất với nhau ở
mặt bản thể. Tất cả đều vô thường, vô ngã. Nhận chân được bản thể của
vũ trụ như vậy, con người phát khởi đại trí, đại bi. Con người phút chốc
bừng nở tình thương vô hạn đối với muôn loài muôn vật. Tất cả đều là
một, chỉ vì tri kiến sai lầm nên con người mới tham sân, si, mới hành
động tạo nghiệp để thỏa mãn và nâng cao cái ngã vốn vô ngã. Với tuệ giác
do thiền định đưa lại, ranh giới ta và người , ta và tha nhân, ta và
chúng sinh, người và vật biến mất, tình thương vô hạn, tình yêu vô biên
vối biên giới và nhân giới bừng nở, dâng tràn. Tuệ giác đưa con người
vào mát lành, hạnh phúc, an lạc.
Kinh Đại Niết Bàn viết :"Đây là
sự bình yên. Đây là sự bình yên tối thượng" (Kinh Đại Niết Bàn, tập 1,
Thành hội Phật giaó TP HCM ấn hành 1994, tr. 122-181). "Y ٠thức vị kỷ
hay sự chấp ngã chấm dứt" (Kinh Đại Niết Bàn, tập 1, Thành hội Phật giaó
TP HCM ấn hành 1994, tr. 122-181). "Nghĩ rằng mình không có linh hồn
thường trú, kẻ ấy thoát được nhữngkiêu mạn, vị kỷ do ý niệm "Tôi là" thể
hiện" (Kinh Đại Niết Bàn, tập 1, Thành hội Phật giaó TP HCM ấn hành
1994, tr. 122-181). Như vậy đạt Niết Bàn con người an lạc, tự tại, hạnh
phúc, thanh tịnh, bất nhiễm, giải thoát. Phật giáo đưa ra ví dụ để so
sánh hạnh phúc Niết Bàn với hạnh phúc giác quan như sau : Như người bị
ghẻ ngứa cảm thấy sung sướng lúc gãi nhưng sau đó là cảm giác đau đớn do
sự gãi. Do bị ghẻ mà anh ta có sướng và có khổ. Nhưng khi không còn bị
ghẻ, anh ta có sự sung sướng trong một dạng hoàn toàn mới lạ và cao đẳng
hơn. Cách kinh nghiệm hạnh phúc thế tục được xem như kinh nghiệm ghẻ
ngứa, còn hạnh phúc Niết Bàn giống với sự không bị ghẻ. Người Phật tử
gọi hạnh phúc đạt được ngay trong kiếp sống hiện tiền, trong lúc mang
thân ngũ uẩn là "Hữu dư Niết Bàn". Ngoài đạo quả này còn có đạo quả "Vô
dư Niết Bàn" là đạo quả mà các vị A la Hán, các vị Bồ tát đạt được lúc
trút bỏ xác thân ngũ uẩn. Nhưng đó là chỗ mà Phật Tổ nói trí tuệ hữu lậu
của chúng sinh chưa thể hiểu được. Từ những phân tích trên cho phép rút
ra những kết luận về Niết Bàn của Phật giáo như sau :Niết Bàn là đạo
quả đạt được chứng ngộ như một đối tượng tinh thần. Nó là kết quả của sự
nỗ lực, vươn tới hiểu biết thực tại, thế gian như nó là. Đạo quả đó
xuất phát từ lập trường chấp nhận mọi khía cạnh của thực tại và giá trị
của nó. Niết Bàn không phải là chạy trốn khỏi thế giới, không phải là sự
phủ nhận hay chối bỏ thế gian mà là tìm cách để chuyển hóa cái tri kiến
sai lầm về thực tại, tìm cách để thay đổi thái độ đối với thế giới làm
cho nó trở thành một nơi chốn dễ chịu và hạnh phúc hơn. Niết Bàn là sự
giác ngộ mang tính trí tuệ với thành quả là sự viên mãn nhân cách và
hoàn hảo luân lý. Sự giác ngộ đó được đặt căn bản trên nhận thức về chân
tướng của thực tại, trên một tuệ giác chân chính về thực tại. Niết Bàn
không phải do Phật tạo ra mà càng không phải là sở hữu của riêng Phật.
Phật không tạo ra Niết Bàn, không có uy quyền gì với Niết Bàn. Phật
không đe dọa để hứa hẹn, càng không đặt điều kiện để tuyển chọn ai vào
Niết Bàn và cho ai đứng ngoài Niết Bàn. Với Niết Bàn Phật chỉ là người
chứng ngộ, đạt đến. Với Niết Bàn, Phật và chúng sinh bình đẳng vì Phật
và chúng sinh đồng bản tính. Với Niết Bàn Phật là người đã thành, chúng
sinh là người đang thành, sẽ thành, nếu khát khao chân lý và nỗ lực tinh
tấn, bước lên con đường cao thượng. Với Niết Bàn Phật và chúng sinh là
một. Với Niết Bàn cái tôi vị kỷ, cái tôi hẹp hòi bị sụp đổ. Ranh giới
giữa ta và tha nhân tan biến vì thế gian đồng nhất ở bản thể. Với Niết
Bàn con người phát triển nhân cách của mình trên bình diện tâm linh và
xã hội. Niết Bàn vì vậy không phải là không gian vật lý, không phải là
cảnh trời hay nơi chốn nào đó mà người ta phải đăng ký để được xét
duyệt, tuyển chọn. Niết Bàn là thanh tịnh, bất nhiễm, giải thoát, là trí
tuệ tuyệt đối và tình thương tuyệt đối.
Tạp chí nghiên cứu Phật học số 5/2000